Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà xuất bản thống kê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 96 trang )

Lời mở đầu
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, xuất phát từ nhận thức quy
luật khách quan của nền kinh tế thế giới, với xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế. Hoà nhập vào nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của
khu vực, với những bước chuyển mình mạnh mẽ của giai đoạn mới,
kinh tế đối ngoại được mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện, vị
thế của đất nước được nâng cao. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những
chính sách phù hợp, đưa Việt Nam từ một nước có nền kinh tế lạc hậu
tự cung, tự cấp với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với chính sách mở cửa, tích cực
giao lưu kinh tế với nước ngoài.
Trước tình hình đó thị trường Việt Nam đã trải qua những bước
chuyển mình chuyển mạnh mẽ đòi hỏi các doanh ghiệp phải có những
biện pháp kinh doanh phù hợp để tồn tại và phát triển trong một nền
kinh tế cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thương trường và đôi khi
không thích ứng dẫn đến phá sản, hậu quả để lại rất nặng nề, song bên
cạnh đó lại có doanh nghiệp thích ứng và kinh doanh có lãi, doanh
nghiệp được mở rộng đời sống cán bộ công nhân viên được nâng cao.
Tuy nhiên bên cạnh mọi biện pháp quản lý kinh doanh ta không
thể không đề cập tới tầm quan trong, tính quyết định của yếu tố vốn
kinh doanh trong sù ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn
kinh doanh không ngừng hoạt động, chuyển hoá hình thái tiền tệ vật
chất, còn có quan hệ rất nhiều đối tượng, yếu tố khách quan và nội tại
của doanh nghiệp.
Để đứng vững trong quá trình cạnh tranh đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh
doanh tạo chỗ đứng của mình trên thị trường, muốn vậy doanh nghiệp
phải có vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường. Hiện nay
với sự phát triển đa dạng của các kênh huy động và cung cấp vốn vấn
đề khai thác nguồn vốn để phục vụ kịp thời cho nhu cầu kinh doanh của
doanh nghiệp là không nhỏ, nhưng vấn đề đặt ra là phải xác định đúng


đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ lùa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn cho phù
hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả sử dụng vốn.
Giá trị của vốn tăng, giảm chịu ảnh hưởng của cung – cầu và sức cạnh
tranh của thị trường. Một câu hỏi đặt ra cho các nhà quản trị doanh
nghiệp trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh “Làm thế
nào để bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh đồng thời nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn”.
Thấy được tầm quan trọng của vốn qua thời gian thực tập tại Nhà
xuất bản thống kê em đã chọn luận văn với đề tài “Một số biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà xuất bản thống kê.” Luận văn
của em gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dông
vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
ChươngII: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của Nhà xuất
bản thống kê trong những năm gần đây.
Chương III: Mét số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại Nhà xuất bản thống kê.
Trong quá trình thực tập tại Nhà xuất bản thống kê em đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của cô trưởng phòng kế toán Hoàng Minh
Phượng cùng các cô các chị trong phòng kế toán cũng như chú giám
đốc Nhà xuất bản thống kê. Cùng các thầy cô trong bộ môn tài chính-
tín dụng đặc biệt là cô ThS Nguyễn Thu Thuỷ trực tiếp hướng dẫn em
rất nhiều để em hoàn thành luận văn này.
Do năng lực và thời gian có hạn nên bản luận văn này không
tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy, cô
cùng các bạn trong trường cũng như ý kiến nhận xét của các cô, chú
trong Nhà xuất bản thống kê để bài luận văn của em được hoàn thiện
hơn.

chương i
những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
I.VỐN TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1 Khái niệm vốn kinh doanh
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp
nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích kiếm lời
trên các lĩnh vực sản xuất vật chất, thương mại dịch vụ thuộc mọi quy
mô, thành phần kinh tế.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải có tư liệu lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh
là quá trình kết hợp các yếu tố này để tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Trong
nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, để có được các yếu tố cần thiết cho quá
trình sản xuất kinh doanh trên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một
lượng tiền vốn nhất định.
Thật vậy, vốn kinh doanh là yếu tố vô cùng quan trọng để tiến
hành hoạt sản xuất kinh doanh.Việc sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh có
ý nghĩa lớn đối với mỗi doanh nghiệp. Để sử dụng hiệu quả vốn thì trước
tiên ta phải hiểu vốn được bản chất chất của vốn kinh doanh là gì?
Trên thực tế thì một yếu tố không thể thiếu trong mỗi doanh
nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có trang thiết
bị, kỹ thuật, quy trình công nghệ sản xuất. Mỗi doanh nghiệp kinh doanh
ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau thì quy trình công nghệ cũng khác
nhau. Các yếu tố này được gọi chung là yếu tố đầu vào. Từ các yếu tố
đầu vào này được doanh nghiệp sử dụng để tạo nên sản phẩm, dịch vụ
hàng hoá được gọi là đầu ra.
Như vậy, để có các đầu ra là hàng hoá và dịch vụ thì doanh
nghiệp phải tổ chức tốt yếu tố đầu vào. Bản chất của yếu tố đầu vào là :
đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Để có được các yếu tố đầu vào thì yêu cầu các doanh nghiệp phải

có một lượng tiền nhất định. Số tiền này được dùng để xây dựng nhà
xưởng, mua sắm trang thiết bị, trả lương cho cán bộ, công nhân viên
Bằng cách kết hợp các yếu tố đầu vào sẽ tạo ra sản phẩm hàng hoá,dịch
vụ. Khi sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ trên thị trường các doanh
nghiệp sẽ thu được một khoản tiền gọi là doanh thu sản phẩm. Khoản
doanh thu này một phần được dành ra để bù đắp lại tài sản cố định đã bị
hao mòn trong quá trình sản xuất, một phần dùng để tái lập các yếu tố
đầu vào để phục vụ cho kỳ sản xuất tiếp theo. Phần khác nữa thì được
dùng để trả lương cho người lao động và một phần để mua sắm mới đầu
tư mở rộng quy mô sản xuất.Theo phân tích trên thì vốn kinh doanh là:
Vốn kinh doanh là hình thức biểu hiện bằng tiền của các tài
sản mà doanh nghiệp đưa vào phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra và đạt được các mục đích nhất
định.
Vốn kinh doanh có những đặc trưng cơ bản sau:
Vốn được biểu hiện bằng cả tiền lẫn giá trị của các vật tư, tài sản,
hàng hoá của doanh nghiệp. Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hoá,
tiền tệ thông thường. Tiền tệ, hàng hoá là hình thái biểu hiện của vốn
nhưng chỉ khi chúng được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời thì chúng mới được coi là vốn.
Vốn được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy được tác dụng. Vốn của doanh nghiệp phải được tích tụ, tập
trung thành một lượng tiền đủ lớn thì mới có thì mới có thể đầu tư vào
sản xuất kinh doanh được. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần
phải cân nhắc lùa chọn nguồn vốn sao cho có chi phí thấp nhất mà mang
lại hiệu quả cao nhất.
Vốn phải được gắn liền với một chủ sở hữu nhất định để tránh sự
chi tiêu lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
Trên thực tế có 3 phương pháp vận động của vốn
T-T’: Hình thức vận động này tồn tại ở các doanh nghiệp đầu tư

tài chính trung gian. Họ dùng lượng tiền vốn của mình để đầu tư vào thị
trường chứng khoán mua cổ phiếu, trái phiếu sau đó lại bán ra để thu lợi
nhuận.
T- H- T’ : Đây là hình thức hoạt động của các doanh nghiệp
thương mại làm nghiệp vụ kinh doanh lưu chuyển hàng hoá thuần tuý.
Họ dùng lượng tiền vốn của mình để mua hàng hoá sau đó lại bán ra thị
trường với giá cao hơn để thu lợi nhuận.
TLSX
T-H TLLĐ SX H’- T’: Đây là phương thức hoạt động cơ bản của
SLĐ doanh nghiệp sản xuất. Bằng lượng tiền vốn ban đầu của mình họ
đầu tư vào mua tư liệu sản xuất và bằng sức lao động tạo được ra hàng
hoá có giá trị lớn hơn và bán ra trên thị trường để thu lợi nhuận.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình
vận động liên tục, do vậy vốn kinh doanh của doanh nghiệp cũng vận
động liên tục theo một vòng tuần hoàn.
1.2 Phân loại vốn kinh doanh
Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vì vậy việc quản lý và sử dụng có hiệu quả đóng vai
trò sống còn đối với sù tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để bảo
đảm việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả người ta phân vốn thành
nhiều loại tuỳ theo mục đích quản lý và sử dụng:
1.2.1 Căn cứ vào tính chất sở hữu
Theo hình thức sở hữu, vốn kinh doanh được chia thành hai loại
là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu mà doanh nghiệp
không phải cam kết thanh toán, doanh nghiệp hoàn toàn có quyền định
đoạt đối với toàn bộ số vốn đó. Nguồn vốn chủ sở hữu do doanh nghiệp
và các nhà đầu tư góp vốn hoặc được hình thành từ kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh, do đó nguồn vốn chủ sở hữu không phải là một
khoản nợ.

-Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp khác nhau mà nguồn vốn
chủ sở hữu được hình thành khác nhau. Đối với một doanh nghiệp Nhà
nước thì nguồn vốn này được hình thành từ ngân sách Nhà nước, đối với
doanh nghiệp tư nhân thì chủ sở hữu vốn là thành viên tham gia góp vốn,
đối với công ty cổ phần thì chủ sở hữu là các cổ đông
-Vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách lấy tổng tài sản trừ đi
toàn bộ nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
. Vốn điều lệ của công ty: đây là khoản do các thành viên trong
doanh nghiệp đóng góp để thành lập doanh nghiệp.
. Các khoản thặng dư vốn : khoản này có được là do doanh
nghiệp phát hành cổ phiếu cao hơn mệnh giá, hay do chênh lệch đánh
giá lại tài sản. Tuy nhiên tỷ lệ này thường chiếm tỷ trọng không cao
trong nguồn vốn chủ sở hữu.
. Các khoản được biếu tặng, hay được tài trợ làm tăng nguồn vốn
chủ sở hữu.
. Lợi nhuận tích luỹ từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Hàng năm sau khi phân phối khoản lãi để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp phải để lại một khoản
tiền nhất định để đầu tư thêm vào nguồn vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp.
Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn bao gồm một số khoản khác nữa
như các khoản chênh lệch đánh gía lại tỷ gía, giá trị cổ phiếu mua lại.
Nợ phải trả: là khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán. Nợ phải trả bao
gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn là khoản nợ có thời hạn trả trong vòng một chu kỳ
kinh doanh thường là một năm.
Nợ dài hạn là khoản nợ có thời hạn trả trên một năm hay mét chu
kỳ kinh doanh.
Ta luôn có đẳng thức sau:

Tài sản= Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Để đảm vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
thường xuyên phải cân đối hai nguồn vốn nói trên tạo ra cơ cấu vốn tối
ưu đối với doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp là cơ cấu
vốn mà tại đó chi phí vốn của doanh nghiệp là thấp nhất nhưng vẫn đảm
bảo an toàn khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
1.2.2 Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của vốn trong chu kỳ
sản xuất kinh doanh.
Theo đặc điểm luân chuyển vốn, vốn được phân thành vốn lưu
động và vốn cố định. Đây là hình thức phân loại thể hiện rõ ràng, chính
xác và thuận tiện nhất mà hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đang sử
dụng.
1.2.2.1.Vốn cố định:
a.Khái niệm
Muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
phải có các yếu tố: Sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Tư liệu lao động là những phương tiện vật chất mà con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động biến nó thành sản phẩm theo
mục đích của mình. Tư liệu lao động thì bao gồm: Nhà xưởng, kho
tàng, máy móc văn phòng Tư liệu lao động thì có thời gian sử dụng dài
thường lớn hơn một chu kỳ kinh doanh và giá trị của nó chuyển dần vào
giá trị của sản phẩm. Để bắt đầu hoạt động kinh doanh thì chủ doanh
nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền để mua các tư liệu sản xuất đó và
lượng tiền đó được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Vậy vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của
giá trị những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển giá
trị từ một năm trở lên hoặc qua nhiều chu kỳ kinh doanh.
b. Đặc điểm vốn cố định:
Theo như đã phân tích trên thì ta thấy vốn cố định có những đặc
điểm sau:

Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu
kỳ sản xuất.
Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển.
c. Phân loại vốn cố định:
Qua khái niệm trên ta thấy vốn cố định được hình thành từ
TSCĐ, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị chi phí XDCB dở dang của
doanh nghiệp.
*c1: Khái niệm TSCĐ:
Theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của bộ
tài chính thì tư liệu lao động là từng TSCĐ hữu hình có kết cấu độc lập
hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với
nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu
thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không hoạt động
được. Thông thường thì một tài sản nếu thoả mãn tiêu chuẩn sau đây
thì được coi là TSCĐ:
- Chắc chắn thu hồi được lợi Ých kinh tế trong tương lai từ việc sử
dụng tài sản đó.
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy.
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
- Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên.
Vậy TSCĐ là những tài sản, tư liệu lao động có giá trị lớn có
thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh giá trị
của nã được chuyển dần từng phần vào giá trị của sản phẩm hoàn
thành trong các chu kỳ kinh doanh.
*Đặc điểm của TSCĐ:
Thứ nhất là TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

Thứ hai là trong quá trình tồn tại, hình thái vật chất và đặc tính
sử dụng ban đầu của TSCĐ hầu như không thay đổi song giá trị và giá
trị sử dụng giảm dần. Khi các TSCĐ tham gia vào các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì giá trị của chúng được chuyển
dần từng bộ phận vào chi phí kinh doanh hay vào giá trị sản phẩm, dịch
vụ tạo ra. Bộ phận giá trị này là yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và nó được bù đắp dưới hình thái giá trị mỗi
khi sản phẩm dịch vụ được tiêu thụ.
*Cách thứ nhất: Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo cách phân loại này thì TSCĐ của doanh nghiệp được chia
thành hai loại: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình
+ TSCĐ hữu hình: Theo QĐ số 206/2003/QĐ BTC ngày
12.12.2003 của Bộ Tài Chính thì:
TSCĐ hữu hình là những tư liệu chủ yếu có hình thái vật chất cô
thể(từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là 1 hệ thống gồm nhiều
bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện 1 hoặc 1 số chức năng
nhất định) thoả mãn các tiêu chuẩn cơ bản của TSCĐ hữu hình, tham
gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật
chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị,
Theo chế độ tài chính thì để 1 tài sản được coi là TSCĐ hữu hình
nếu thoả mãn điều kiện sau:
.Chắn chắn thu hồi được lợi Ých kinh tế trong tương lai từ việc
sử dụng tài sản đó.
.Nguyên giá tài sản phải được đánh giá một cách đáng tin cậy.
. Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
. Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên.
+ TSCĐ vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ
thể, thể hiện 1 lượng giá trị đã được đầu tư từ các tiêu chuẩn của TSCĐ
vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Trình độ phát triển càng cao thì TSCĐ vô hình trong các doanh

nghiệp có xu thế chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Người ta tiến hành phân
chia TSCĐ vô hình thành các loại sau:
. Chi phí về đất sử dụng: Khoản chi phí này thường được sử
dụng trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty liên doanh, công ty cổ phần Những doanh nghiệp chưa có trụ
sở độc lập mà phải thuê.
. Chi phí mua bằng phát minh sáng chế: Đây là số tiền của doanh
nghiệp phải bỏ ra để có được bằng phát minh, hay công nghệ. Trong
thời đại ngày nay thì chi phí này ngày càng lớn. Vì các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển được thì luôn phải đổi mới công nghệ, muốn
vậy họ phải tìm tòi những phát minh mới để nâng cao năng suất lao
động cũng như chất lượng sản phẩm của mình tạo ra. Đất nước nào có
nền kinh tế càng phát triển thì chi phí này càng có xu hướng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng TSCĐ của doanh nghiệp.
Chi phí nhãn hiệu thương mại: Là khoản tiền mà doanh nghiệp
bỏ ra để mua lại một thương hiệu đã nổi tiếng trên thị trường. Bằng
thương hiệu này người ta hy vọng sản phẩm cùng loại của họ sẽ được
bán chạy hơn trên thị trường với giá của mỗi sản phẩm cũng cao hơn.
Cách quản lý này rất hữu hiệu cho doanh nghiệp nó giúp cho nhà
quản trị biết được tỷ trọng của từng loại vốn trong doanh nghiệp của
mình là bao nhiêu để từ đó có biện pháp điều chỉnh hợp lý.
*Cách phân loại thứ hai: Phân loại TSCĐ theo mục đích sử
dụng.
Theo cách phân loại này toàn bộ tài sản cố định của doanh
nghiệp được chia thành 3 loại:
+ Tài sản cố định dung cho mục đích kinh doanh:
Là những tài sản dùng trong các hoạt động cơ bản của doanh
nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị
+ TSCĐ dung cho mục đích phóc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc
phòng: Đây là loại tài sản được doanh nghiệp mua về để dùng riêng cho

các hoạt động phóc lợi, hoạt động xã hội mà không dùng trong sản xuất
kinh doanh.
+ TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước: Là những
TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ giữ hộ Nhà nước được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giao cho.
*Cách phân loại thứ 3: Phân loại TSCĐ căn cứ theo công
dụng kinh tế.
Theo cách phân loại này thì tài sản của doanh nghiệp được chia
thành loại cơ bản sau:
+ TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Là những tài
sản phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh
nghiệp như: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận
tải, thiết bị dụng cụ quản lý, vườn cây lâu năm hoặc súc vật làm việc
hoặc cho sản phẩm
+ TSCĐ dùng ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh: Là những tài
sản không mang tính chất sản xuất. Thuộc loại này bao gồm: các tác
phẩm nghệ thuật, tranh ảnh, phòng tiếp khách, Những tài sản thuộc
loại này thường gián tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cách phân loại này cho nhà quản lý thấy được công dụng của
từng loại tài sản và ảnh hưởng của nó đến tình hoạt động của doanh
nghiệp như thế nào. Nhưng cách phân loại này chưa phản ánh được tình
hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy nó không được sử dụng
rộng rãi.
*Cách phân loại thứ 4: Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ người ta chia tài sản cố định
của doanh nghiệp thành các loại sau:
+TSCĐ đang sử dụng: Là loại tài sản đang được doanh nghiệp sử
dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động phóc
lợi,xã hội.
+TSCĐ chưa cần dùng: Là tài sản được doanh nghiệp mua về

nhưng chưa được sử dụng trong sản xuất cũng như các hoạt động khác.
+ TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là loại tài sản đã được sử
dụng nhưng do háng không thể sửa chữa được hoặc do bị lạc hậu kỹ
thuật công nghệ mà không thể sử dụng được. Doanh nghiệp để ra chê
thanh lý.
Cách phân loại này đánh giá được mức độ sử dụng của tài sản cố
định. Nó giúp cho nhà quản lý biết được hiệu quả hoạt động của tài sản
cố định.
Việc phân loại tài sản cố định và phân tích kết cấu của chúng là
điều bắt buộc của nhà quản trị khi đánh giá thực tế hoạt động của doanh
nghiệp mình.
Mặt khác trong quá trình sử dụng tài sản bị hao mòn. Có hai loại
hao mòn chủ yếu là hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình
Hao mòn hữu hình: Đó chính là sự hao mòn về vật chất, về giá trị
và giá trị sử dụng. Thường thì hao mòn hữu hình có thể hiểu là hao mòn
mà ta có thể nhìn thấy được như là sự giảm sút về giá trị cũng như giá
trị sử dông.
Hao mòn vô hình: Đó là hao mòn mà ta không thể thấy được. Hao
mòn vô hình thực chất là sự hao mòn về giá trị mà nguyên nhân chính
là do sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ.
Mục đích chính của kinh doanh là không những bảo toàn được
lượng vốn đầu tư ban đầu mà còn phải làm cho lượng vốn đó tăng
thêm.Người ta thường gọi khoản tăng thêm này là lợi nhuận của doanh
nghiệp. Vậy muốn lợi nhuận của doanh nghiệp con số chính xác thì yêu
cầu của nhà quản lý là phải tính khấu hao được tài sản cố định nhằm
tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng.
Vốn cố định của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá
trình hình thành và phát triển, do đó phải thường xuyên sửa chữa, đổi
mới, bổ xung TSCĐ mới là việc làm sống còn đối với doanh nghiệp.
Trên đây là phương pháp phân loại chủ yếu trong các doanh

nghiệp, tuỳ theo từng doanh nghiệp mà nhà quản lý có thể lùa chọn
hình thức phân loại thích hợp để sao cho công việc quản lý và sử dụng
TSCĐ là có hiệu quả nhất.
Ngoài ra thuộc vốn cố định còn có giá trị đầu tư dài hạn: Đây là
những khoản đầu tư ngoài doanh nghiệp với thời gian thu hồi vốn từ 1
năm trở lên. Giá trị đầu tư dài hạn được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như đầu tư chứng khoán, cho vay dài hạn, góp vốn liên
doanh, liên kết
Cuối cùng là giá trị chi phí XDCB dở dang: Là bộ phận vốn đã
được sử dụng để đầu tư nhằm tạo ra TSCĐ cho doanh nghiệp nhưng
trong thời điểm hiện tại thì quá trình đầu tư XDCB chưa hoàn thành và
bộ phận tài sản này sẽ chuyển thành TSCĐ của doanh nghiệp khi kết
thúc hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
• c2: Giá trị đầu tư dài hạn :
Là những khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài với thời
gian thu hồi vốn từ 1 năm trở lên. Khoản đầu tư này được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau như mua chứng khoán, cho vay dài hạn,
cho thuê dài hạn, góp vốn liên doanh dài hạn Các khoản đầu tư này
giúp doanh nghiệp tránh được tình trạng bỏ phí lượng tiền chết tồn đọng
trong doanh nghiệp.
*c3: Giá trị chi phí XDCB dở dang:
Là bộ phận vốn được sử dụng để đầu tư nhằm tạo ra TSCĐ cho
doanh nghiệp nhưng hiện tại quá trình đầu tư XDCB chưa hoàn thành
và bộ phận tài sản này sẽ chuyển thành TSCĐ của doanh nghiệp khi kết
thúc hoạt động đầu tư XDCB.
Ba loại hình trên là biểu hiện của vốn cố định. Ba bộ phận này
luôn chuyển hoá cho nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
*Phân loại vốn cố định theo phạm vi sử dụng thì vốn cố định
của doanh nghiệp được chia thành:

+ Vốn cố định sử dụng đầu tư tại doanh nghiệp: Đây là bộ phận
vốn cố định được đầu tư sử dụng, hình thành nên các tài sản sử dụng tại
doanh nghiệp.
+ Vốn cố định đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Đây là bộ phận
vốn đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp dưới hình thức cho thuê TSCĐ,
góp vốn liên doanh dài hạn, cho vay vốn dài hạn
1.2.2.2 Vốn lưu động :
a.Khái niệm
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì hai yếu tố không thể
thiếu được là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Như trên ta đã biết
tư liệu lao động là bao gồm những tài sản tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất và giá trị của nó chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Khác
với tư liệu lao động thì đối tượng lao động là những tài sản chỉ tham gia
vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của nó chuyển hết vào giá
trị sản phẩm. Đối tượng lao động bao gồm: công cụ, dụng cụ, bao
bì, Để có được những tư liệu đó thì chủ doanh nghiệp phải chi ra một
lượng tiền. Lượng tiền đó người ta gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của giá trị TSLĐ và đầu
tư ngắn hạn được đầu tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động:
-Khi tham gia voà hoạt động sản xuất kinh doanh vốn lưu động
luôn luôn vận động và thay đổi hình thái qua các khâu : mua hàng- sản
xuất- tiêu thụ sản phẩm . Giá trị của nó chuyển 1 lần vào giá trị sản
phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong 1 kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
-Thời gian chu chuyển của vốn lưu động thường dưới 1 năm
hoặc trong 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động thì thường nhanh hơn vốn

cố định.
c. Phân loại vốn lưu động:
*Cách phân loại thứ 1 : Phân loại vốn lưu động trơng quá
trình sản xuất kinh doanh.
+ Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm toàn bộ
nguyên vật liệu được doanh nghiệp bỏ tiền ra mua về nhưng chưa được
đưa vào sản xuất kinh doanh dùng làm vật liệu dự trữ. Lượng vốn này
giúp cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành liên tục,
không bị gián đoạn.
+ Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Là bao gồm toàn bộ sản
phẩm hàng hoá đang trong quá trình sản xuất. Thuộc loại này bao gồm
các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết
chuyển.
+ Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Là toàn bộ sản phẩm hàng
hoá đã hoàn thành được doanh nghiệp tiến hành tung ra thị trường.
Thuộc nguồn vốn này còn phải kể đến cả các khoản vốn bằng tiền, các
khoản vốn đầu tư ngắn hạn
Cách phân bổ vốn lưu động như thế này cho thấy lượng tiền vốn
trong từng khâu của quá trình sản xuất sản phẩm. Tuỳ theo từng từng
thời điểm khác nhau mà lượng vốn được phân bổ không giống nhau.
*Cách phân loại thứ 2: Phân loại theo hình thái biểu hiện.
+ Vốn hàng hoá: là vốn về hàng hoá dự trữ ở các khâu và địa
điểm của quá trình kinh doanh như vốn về hàng mua và bán đang đi
trên đường, hàng đợi kiểm nghiệm, hàng gửi đi bán, hàng tại kho và các
điểm bán hàng
+ Vốn phi hàng hoá là số vốn ứng trước về công cụ, dụng cụ, bao
bì, vật đóng gói, tiền bán hàng
+ Vốn trong thanh toán: là số tiền đang nằm trong quá trình
thanh toán do các phương thức thanh toán được áp dụng trong quá trình
tiêu thụ hàng của doanh nghiệp.

*Cách phân loại thứ 3: Theo nguồn hình thành.
+Vốn lưu động được khai thác từ nội bộ doanh nghiệp. Thuộc
nguồn vốn này bao gồm : vốn ban đầu của chủ sở hữu, vốn doanh
nghiệp tự bổ sung.
.Vốn ban đầu của chủ sở hữu phụ thuộc vào loại hình doanh
nghiệp . Đối với doanh nghiệp Nhà nước khi mới thành lập được ngân
sách cấp vốn ban đầu. Số vốn này doanh nghiệp được sử dụng lâu dài
không phải hoàn trả như các khoản vay vốn. Đối với doanh nghiệp tư
nhân, số vốn này do một cá nhân tự bỏ ra để tiến hành hoạt động kinh
doanh theo luật định. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần, số vốn này là do các cá nhân(đồng chủ sở hữu) đóng góp thành
lập doanh nghiệp cũng như bổ sung sau này.
. Vốn lưu động doanh nghiệp tự bổ sung: là vốn được cấp bổ
sung hàng năm từ lợi nhuận hoặc từ các quỹ của doanh nghiệp. Ngoài
ra còn kể đến số vốn do các chủ sở hữu bổ sung để mở rộng quy mô,
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Vốn lưu động khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp: Bao gồm
vốn vayngắn hạn của Ngân hàng. Vốn vay dưới hình thức phát hành trái
phiếu và khoản vốn vay của đối tác. Đây là bộ phận vốn rất quan trọng
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
1.3 Vai trò của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
Để thực hiện bất cứ 1 dự án kinh doanh nào doanh nghiệp cũng
cần phải có 1 lượng vốn nhất định. Nó đặt nền móng cho sự phát triển
về khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị máy móc phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh Như vậy, vốn kinh doanh là
điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với dự án kinh doanh, là
yếu tố không thể thiếu được đối với mọi hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, vốn kinh doanh có vai trò trong sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Lượng vốn kinh doanh mà lớn sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho

doanh nghiệp như có thể đầu tư vào các dự án lớn có thời gian dài
nhưng thu được lợi nhuận lớn.
Tóm lại, vốn kinh doanh có vai trò chủ yếu sau:
Vốn kinh doanh có vai trò đối với quy mô sản xuất, chất lượng
sản phẩm. Lượng vốn nhiều hay Ýt cũng ảnh hưởng đến doanh nghiệp
rất lớn. Thực tế đã chứng minh những doanh nghiệp có lượng vốn lớn
thường có ưu thế hơn những doanh nghiệp có lượng vốn thấp hơn. Như
vậy, vốn kinh doanh có vaitrò quyết định trong việc cạnh tranh trên thị
trường. Nó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự cạnh tranh, tạo thế đứng độc lập
hay phụ thuộc, kà vũ khí tối tân quyết định đến sức mạnh của doanh
nghiệp.
Thứ hai, vốn là nguồn tài chính để các doanh nghiệp thực hiện
hoạt động kinh doanh và tái mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Để bắt đầu hoạt động sản xuất thì doanh nghiệp phải bỏ tiền ra để
đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị, Khi hoạt động sản
xuất kinh doanh được tiến hành thì nhà quản trị lại dùng vốn để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, vốn có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là
một việc làm cần thiết của doanh nghiệp. nó quyết định sự tồn tại, tăng
trưởng và phát triển của mọi doanh nghiệp.
II.HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH TRONG DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT KINH DOANH.
2.1 Khái niệm
*Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh:
Trong thực tế, khi làm bất cứ việc gì thì người ta thường có một
thước đo để đánh giá kết quả của hoạt động đó. Kết quả đạt được cao
thì hiệu quả càng lớn.
Vậy, hiệu quả hiểu theo nghĩa chung nhất là lợi Ých kinh tế
thu được do việc thực hiện các hoạt động kinh tế nào đó. Hiệu quả

gồm hai mặt hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả xã hội là các lợi Ých xã hội là lợi Ých được thụ hưởng
từ hoạt động xã hội mang lại. Hiệu quả xã hội là một yếu tố khó định
lượng một cách trực tiếp với các chỉ tiêu cụ thể. Hiệu quả xã hội chỉ đạt
được trên cơ sở của hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả xã hội trong kinh doanh là một phạm trù phản ánh sự
đóng góp của doanh nghiệp vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội
của nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh tế là các lợi Ých kinh tế do các hoạt động kinh
doanh mang lại. Hiệu quả kinh tế được biểu hiện bằng các chỉ tiêu cụ
thể. Nó xác định trên cơ sở so sánh giữa kết quả đầu ra và yếu tố đầu
vào. Vì vậy hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Kết quả là một chỉ tiêu phản ánh mục đích đạt được của hoạt
động kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp khi bước vào hoạt động kinh
doanh thì có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nên mục đích cũng khác
nhau. Mục đích của mỗi doanh nghiệp khác nhau thì kết quả đặt ra cũng
khác nhau. Thường thì trong doanh nghiệp kết quả được biểu hiện bằng
các chỉ tiêu sau đây:
+ Giá trị tổng sản lượng
+ Tổng doanh thu
+ Lợi nhuận
Để đánh giá chính xác tình hình hoạt động của mình các nhà
quản trị đưa ra công thức để đánh giá hiệu quả sau:
Kết quả
Hiệu quả =
Yếu tố đầu vào
*Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp sản
xuất.kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất là hoạt động nhằm mục

đích kiếm lời trên cơ sở sử dụng tổng hợp các nguồn lực sẵn có. Trong
đó thì nguồn lực về vốn được quan tâm hàng đầu. Vốn kinh doanh
được coi như là bước đệm để các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thì
việc quan tâm đến nguồn vốn kinh doanh lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Nó phản ánh năng lực kinh doanh của Nhà quản lý cũng như sự
nỗ lực trong công việc của nhân viên trong toàn công ty. Chính vì vậy
mà hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là biện pháp tổng hợp nhất đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh người ta thường sử
dụng chỉ tiêu sau:
công thức:
Kq
Hv =
Vkd
Trong đó:
Hv: Hệ số hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Vkd: Số vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Kq: Kết quả thu được.
Từ công thức trên cho thấy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần
áp dụng các biện pháp nhằm gia tăng kết quả ( doanh thu, lợi nhuận).
Mặt khác, phải tiết kiệm vốn sản xuất kinh doanh, hệ số hiệu quả sử
dụng vốn càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một yêu
cầu khách quan, cấp thiết, phù hợp với quy luật tiết kiệm.
2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp sản xuất
Mỗi doanh nghiệp trong mét chu kỳ sản xuất kinh doanh đều
phải sử dụng vốn. Với cùng một lượng vốn nhưng lợi nhuận thu được ở
các doanh nghiệp lại khác nhau. Vậy điều gì đã tạo ra sự khác biệt này?

Vấn đề này có rất nhiều câu trả lời. Có thể do biến động của thị trường
mà hàng hoá của công ty này bán chạy hơn công ty khác, song một
nguyên nhân lớn là do công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu
quả khác nhau.
Vốn là nhân tố hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng sử dụng vốn sao cho có hiệu quả
lại quan trọng hơn nhiều. Nếu việc sử dụng vốn không mang lại hiệu
quả sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm sút, thậm chí
đưa doanh nghiệp tới mất khả năng thanh toán các khoản nợ, và phải
giải thể. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là không thể thiếu
đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.2.1 Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh trong doanh nghiệp sản xuất.
*Chỉ tiêu1: Hệ số phục vụ của vốn kinh doanh.
Trong các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thì chỉ tiêu đầu
tiên được các nhà quản trị tài chính quan tâm là hệ số phục vụ của vốn
kinh doanh.Đây là chỉ tiêu đánh giá sức kinh doanh của vốn.
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa tổng doanh thu đạt
được trong kỳ với vốn kinh doanh bình quân.
M
H
m
=
V
kd
Trong đó:
H
m
: Hệ số phục vụ của vốn kinh doanh
M : Tổng doanh thu đạt được trong kỳ

V
kd
: Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ mỗi đồng vốn kinh doanh sử dụng
trong kỳ thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng doanh thu.
*Chỉ tiêu thứ 2:Hệ số doanh lợi vốn kinh doanh.
Chỉ tiêu này được tính bằng thương số giữa tổng lợi nhuận đạt
được trong kỳ trên tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.
Ln
H
ln
=
V
kd
Hln: Mức lợi nhuận đạt được trên 1 đồng vốn kinh doanh bình
quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn kinh doanh bá ra trong kỳ
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Trong các công thức trên thì vốn kinh doanh bình quân được
tính bằng công thức bình quân giản đơn
V
kdđk
+ V
kdck
V
kd
=
2
Trong đó:
V

kdđk
: Vốn kinh doanh đầu kỳ của doanh nghiệp
V
kdck
: Vốn kinh doanh cuối kỳ của doanh nghiệp
Hoặc sử dụng công thức bình quân gia quyền để tính
1/2V1+ V2+ + Vn+1 + 1/2Vn
Vkd=
n-1
V1-Vn: số dư vốn kinh doanh tại các thời điểm cần phân tích
n: Số thời điểm
*Chỉ tiêu3: Vòng quay vốn kinh doanh:
H =
Vòng quay vốn kinh doanh có ý nghĩa rất lớn đối với doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vòng quay vốn kinh doanh càng
nhanh, do vậy rút ngắn thời gian hoàn vốn, cũng như chi phí sử dụng
vốn kinh doanh.
Trên đây là những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu sử dụng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ
tiêu khác nữa. Hơn nữa cách đánh giá hiệu quả sử dụng vốn còn tuỳ
thuộc vào từng doanh nghiệp và trình độ quản lý của nhà quản trị.
2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
trong doanh nghiệp sản xuất
Các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì
vốn lưu động cũng chiếm tỷ trọng không giống nhau. Thông thường thì
trong các doanh nghiệp thương mại tỷ lệ vốn lưu động cao hơn trong
các doanh nghiệp sản xuất. Do đặc thù như vậy, nên trong doanh nghiệp
thương mại họ rất chú trọng quan tâm đánh giá xem xét các chỉ tiêu liên
quan đến vốn lưu động. Nói như thế không có nghĩa là vốn lưu động
không quan trọng với doanh nghiệp sản xuất. Mà trái lại, họ cũng rất

lưu tâm đến việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Góp phần
giúp cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.
Các chỉ tiêu đánh giá này phải bao gồm các nội dung:
-Hệ số phục vụ vốn lưu động
-Hệ sè sinh lời vốn lưu động
-Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
- Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
Chỉ tiêu 1: Hệ số phục vụ vốn lưu động.
Chỉ tiêu này xác định trên cơ sở so sánh tương đối giữa mức lưu
chuyển hàng hoá trong kỳ với vốn lưu động bình quân trong kỳ
Công thức:

Hm: hiệu suất vốn lưu động
M : Tổng mức lưu chuyển hàng hoá trong kỳ
V

: Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ mỗi đồng vốn lưu động bỏ ra trong kỳ
thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng mức luân chuyển hàng hoá.
Hm càng lớn thì càng tốt. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn
có hiệu quả.
*Chỉ tiêu 2: Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động .
Tuy đây không phải là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
nhưng trong phân tích các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp
thường sử dụngchỉ tiêu này để đánh giá thực trạng của một doanh
nghiệp.

×