Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

đề kiểm tra ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.74 KB, 25 trang )

Trường THCS Lê Hồng Phong THI HẾT HỌC KỲ I
Họ và tên: Môn : Ngữ Văn lớp 7 Bổ túc
Lớp:7 Bổ túc Thời gian: 90 phút(KKPĐ
Điểm Lời phê của thầy giáo
I Trắc nghiệm: ( 4 điểm ) Đọc kỹ văn bản và khoanh tròn vào câu trả lời đúng
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới đèo ngang bóng xế tà, Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa . Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
, Lom khom dưới núi tiều vài chú Dừng chân đứng lại trời, non nước
Lác đác bên sông chợ mấy nhà . Một mảnh tình riêng, ta với ta.
( Ngữ văn 7 tập 1)
1.Văn bản "Qua đèo ngang" được viết theo phương thức biểu đạt chính nào ? . . a tự
sự và miêu tả b.Tự sự và biểu cảm c. Miêu tả và biểu cảm d. Biểu cảm và thuyết minh
2 .Văn bản "Qua đèo ngang" được viết bằng thể thơ nào ?
a. Thất ngôn tứ tuyệt b. Song thất lục bát c. Thất ngôn bát cú d. Lục bát
3. Văn bản "Qua đèo ngang" có mấy quan hệ từ ?
a. Không có b. Một c. Hai d. Ba
4. Nghệ thuật nổi bật được dùng trong câu 3-4 của văn bản là :
5. Cảnh Đèo Ngang trong văn bản được miêu tả trong thời điểm nào ?
a. Đêm khuya b. Chiều tà c. Bình minh d. Rạng đông
6. Nghệ thuật nổi bật được dùng trong câu 5-6 của văn bản là :
a. Nhân hóa b. So sánh c. Điệp ngữ d. Chơi chữ
7. Tâm trạng của tác giả thể hiện qua văn bản trên là tâm trạng như thế nào ?
a. Say mê trước cảnh đẹp của quê hương đất nước.
b. Ngậm ngùi trước cảnh đổi thay của quê hương
c. Buồn thương da diết khi phải xa quê.
d. Cô đơn trước thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất nước.
8. "Ta với ta" trong văn bản trên là mấy người ?
a. Một người b. Hai người c. Nhiều người
II Tự luận : ( 6 điểm )
câu 1: ( 2 điểm ) Chép hai bài ca dao về chủ đề tình cảm gia đình


câu 2: ( 4 điểm ) Cảm nghĩ về người thân ( ông, bà, cha, mẹ, anh,chị )
Lưu ý: Học sinh làm phần tự luận vào tờ giấy riêng
Trường THCS Lê Hồng Phong THI HẾT HỌC KỲ II
Họ và tên: Môn : Ngữ Văn lớp 9 Bổ túc
Lớp:9 Bổ túc Thời gian: 90 phút(KKPĐ)
Điểm Lời phê của thầy giáo
I Trắc nghiệm: ( 4 điểm ) Đọc kỹ đoạn văn sau và khoanh tròn vào câu trả lời đúng
" Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt- cái giống hoa ngay khi mới nở,
màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng
còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ,
chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng
loa lóa vừa nhìn đã thấy loá cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đã đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ
nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia năng sớm đang từ từ di chuyển
từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia
sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với
màu xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng
đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao
giờ đi đến- cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình."
( Trích" Bến quê"- sách Ngữ văn 9 )
1. Dòng nào sau đây nêu đúng về tác giả và thời gian sáng tác truyện ngắn " Bến quê"?
a. Nguyên Hồng, trước 1945 b. Nguyễn Thành Long, trước 1975
c. Nguyễn Minh Châu,trước 1975 d. Nguyễn Minh Châu,sau 1975
2. Truyện " Bến quê" được kể băng ngôi thứ mấy?
a. Ngôi thứ nhất b. Ngôi thứ hai c. Ngôi thứ ba
3. Phần trích trên tác giả sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
a. Biểu cảm b. Lập luận c. Miêu tả d. Tự sự
4. Phần trích trên có hai đoạn văn liên kết với nhau bằng biện pháp chính nào?
a. Phép lặp b. Phép thế c. Phép nối d. Phép liên tưởng
5.Ý nào sau đây nêu đúng tình huống chính của truyện " Bến quê"?

a.Nhĩ bị ốm nặng, mọi người phải chăm sóc nên anh luôn day dứt về điều đó.
b. Nhĩ bị ốm, muốn con thay mình sang bên kia sông thăm lại nơi trước kia anh đã nhiều lần sang chơi
c. Nhĩ bị ốm nặng, trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, anh khao khát được một lần đặt chân lên bờ
bên kia sông Hồng.
d. Nhĩ bị ốm, anh mong khỏi bệnh để đi thăm những nơi trước đây anh đã dự định mà chưa đi được
6.Nhận định nào sau đây đúng về nhân vật Nhĩ ?
a. Là người đi nhiều, biết nhiều nhưng lại có tình cảm hời hợt với quê hương.
b. Là người suốt đời sống trong đau khổ dằn vặt.
c. Là người suốt đời chỉ mong muốn những điều bé nhỏ, bình thường mà không đạt được.
d. Là người biết nâng niu, trân trọng vẻ đẹp gần gũi, bình dị của cuộc sống quê hương.
7. Phần gạch chân trong câu văn:"Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt- cái
giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. " là thành phần gì?.
a. Thành phần tình thái. b.Thành phần gọi đáp c.Thành phần phụ chú .d.Thành phần cảm thán
8. Câu văn:. "Hẳn có lẽ vì sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn
sót lại trở nên đậm sắc hơn." có mấy cum động từ
a. Hai b. Ba c.Bốn d. Năm
II T Ự LUẬN: ( 6 điểm )
câu 1: (2 điểm ) Chép đầy đủ, chính xác bốn khổ thơ cuối bài thơ Anh trăng của Nguyễn Duy
câu 2:(4 điểm ) Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ :Đồng chí của Chính
Hữu
Lưu ý: Học sinh làm phần tự luận vào tờ giấy riêng
Trường THCS Lê Hồng Phong THI HẾT HỌC KỲ I
Họ và tên: Môn : Ngữ Văn lớp 9 Bổ túc
Lớp:9 Bổ túc Thời gian: 90 phút(KKPĐ)
Điểm Lời phê của thầy giáo
I Trắc nghiệm: ( 4 điểm ) Đọc kỹ đoạn văn sau và khoanh tròn vào câu trả lời đúng
"Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con,nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh
chỉ đứng nhìn nó.Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé
bỗng xôn xao.
-Thôi Ba đi nghe con -Anh sáu khe khẽ nói.

Chúng tôi, mọi người- kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi.Nhưng thật lạ lùng, đến lúc
ấy, tình cha con như bổng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bổng kêu thét lên:
-Ba a a ba
Tiếng kêu của nó như tiếng xé,xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.Đó là tiếng
"ba" mà nó cố đè nén trong lòng bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó,nó vừa kêu
vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc,nó chạy thốc lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy
làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên."
(Trích "Chiếc lược ngà"-Nguyễn Quang Sáng)
1. "Chiếc lược ngà"được viết cùng thể loại với văn bản nào?
a. Vũ trung tùy bút- Phạm Đình Hổ b. Hoàng lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái
c. Làng- Kim Lân d. Phong cách Hồ Chí Minh- Lê Anh Trà
2. Tác phẩm"Chiếc lược ngà"được viết trong thời kỳ nào?
a. Trước cách mạng Tháng Tám c.Trong kháng chiến chống Pháp
b. Trong kháng chiến chống Mĩ d.Sau kháng chiến chống Mĩ
3. Người kể chuyện trong đoạn trích trên là ai ?
a. Người kể chuyện dấu mình c. Mẹ bé thu
b. Bác ba d. Bé Thu
4. Nội dung chính của đoạn trích trên là?
a. Kể về lỗi lầm của bé Thu c. Sự xúc động của anh sáu khi nhìn thấy con
b.Kể về sự hối lỗi của bé Thu d. Kể về tình yêu sâu sắc,mãnh liệt của bé Thu đối với cha
5. Trong đoạn trích trên có mấy lời dẫn trực tiếp?
a. Một b. Hai c. Ba d. Bốn
6. Trong câu văn " Tiếng kêu của nó như tiếng xé,xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe
thật xót xa."Tác giả sử dụng những biện pháp tu từ nào?
a. So sánh- Nói quá- Điệp ngữ c.So sánh- Nhân hóa - Điệp ngữ
b. So sánh- Ân dụ - Điệp ngữ d.So sánh- Hoán dụ - Điệp ngữ
7.Trong các từ sau, từ nào không phải là từ láy?
a. Mênh mông b.Xôn xao c. Lăn lộn d. Lạ lùng
8. Câu văn"Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao" miêu tả phương diện nào của
nhân vật?

a. Miêu tả đôi mắt của nhân vật .b Miêu tả ngoại hình của nhân vật
c. Miêu tả nội tâm trực tiếp. d. Miêu tả nội tâm gián tiếp
II T Ự LUẬN: ( 6 điểm )
câu 1:( 2 điểm )Chép đầy đủ, chính xác bài thơ "Sang thu " của nhà thơ Hữu Thỉnh
câu 2:(4 điểm ) Tưởng tượng mình gặp người lính lái xe trong "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" của Phạm Tiến Duật em hãy kể về cuộc gặp gỡ đó ( có sử dụng yếu tố nghị luận và
miêu tả nội tâm)
Lưu ý: Học sinh làm phần tự luận vào tờ giấy riêng
GIÁO ÁN TỰ CHỌN NGỮ VĂN 6.
CHỦ ĐỀ BÁM SÁT .
Tiết 1,2,3,4: VĂN BẢN TỰ SỰ
I. Mục tiêu cần đạt:
-Giúp HS nắm :- khái niệm về văn bản tự sự.
- đặc điểm của văn bản tự sự.
II. Lên lớp:
1.ôn định tổ chức.
2. Kiểm tra sự chuẩn bị của HS .
3. Bài mới :
A. KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN TỰ SỰ
I. KHÁI NIỆM.
Tự sự (kể chuyện ) là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn tới sự việc kia, cuối
cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Thông thường người kể hay gửi gắm trong câu chuyện của mình một vấn đề mà cuộc sống đặt ra.Qua
câu chuyện kể, người kể có thể kể một cách khách quan như người thư kí trung thành của thời đại, nhưng
người ta cũng có thể một cách chủ quan, nhấn mạnh tới việc này,bỏ qua việc kia, có thể như người đứng
ngoài sự việc, mà cũng có thể kể như người trong cuộc, kể những suy nghĩ , tình cảm ,cẩm xúc của
mình.Do đó, văn kể chuyện thường mang đậm phong cách của tác giả.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN TỰ SỰ.
1. Cốt truyện:
Cốt truyện là cái sườn của câu chuyện, là hệ thống của các sự việc, sự kiện,biến cố do nhân vật mà có,

để tạo thành một bộ phận quan trọng nhất trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Có thể coi đây là một
trong những nét đặc trưng để phân biệt văn tự sự với các phương thức biểu đạt khác . Tuỳ thuộc vào độ
ngắn dài khác nhau của tác phẩm mà cốt truyện có thể phức tạp hoặc đơn giản, nhiều tình tiết hoặc ít tình
tiết. Tuy nhiên, dù ở mức độ nào thì cốt truyện ở văn bản tự sự cũng phải đảm bảo một chuỗi các sự việc
nối tiếp nhau trong một thời gian và không gian cụ thể, có nguyên nhân, có diễn biến , có mở đầu và có
điểm kết thúc. Đặc biệt là cốt truyện phải có một ý nghĩa nhất định. Có được cốt truyện hấp dẫn sẽ tạo nên
sự thành công của tác phẩm và ngược lại.
Cốt truyện được tạo ra bởi một loạt chất liệu cơ bản.Đó là sự việc và diễn biến . Sự việc và diễn biến là
các sự kiện, tình tiết, nhân vật có quan hệ với nhau tạo nên sự phất triển liên tục từ khi bắt đầu câu chuyện
cho đến kết thúc câu chuyện.Khi xây dựng câu chuyện, có thể dựa vào những diễn biến có thực, dựa vào
các nhân vật có thực nhưng cũng có thể sử dụng trí tưởng tượng để nhào nặn, sắp xếp, tạo nên những sự
việc, nhân vật mang tính hư cấu.
Sự việc có ý nghĩa là yếu tố quan trọng trong bài văn tự sự Chuyện có hay hay không chính là ở ý nghĩa
cuộc sống nó mang lại cho người đọc.
Ví dụ : Thần thoại là sản phẩm của trí tưởng tượng , kể các vị thần linh, nhưng đằng sau các vị thần đó
bao hàm một ý nghĩa giáo dục sâu xa. Truyện Thần Trụ Trời của người Việt hay truyện Nữ Oa vá trời của
Trung Quốc đã cho người đọc thấy sức lao động chinh phục thiên nhiên và cải tạo thiên nhiên Hay truyền
thuyết Mị Châu, Trọng Thuỷ đã cho thấy rằng nhà vua Âu Lạc dã biết dựa vào dân để giữ nước, nhưng vì
chủ quan mà cuối cùng nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, chấm dứt thời kì độc lập, chuyển sang nghìn
năm Bắc thuộc.
để tạo ra sức hấp dẫn của bài văn tự sự, trước hết cần có truyện hay Muốn tìm được truyện hay, cốt
truyện hay , ta phải chịu khó quan sát, tìm hiểu về cuộc sống xung quanh, không nên bằng lòng với một số
mẫu hoặc công thức có sẵn.
2. Nhân vật:
Nhân vật trong văn tự sự là người tạo ra các sự việc được thể hiện trong văn bản. Nhân vật được bộc lộ
qua các mặt: tên gọi, lai lịch,tính nết, hình dáng, việc làm,
Trong văn kể chuyện có nhiều loại nhân vật: n.v chính, n.v phụ, n.v chính diện, n.v phản diện, n.v trung
tâm, n.v tự sự, n.v trữ tình, n.v tính cách.
Nhân vật trong câu chuyện có thể là các vị thần hoặc bán thần như trong thần thoại, truyền thuyết ( Lạc
Long Quân, Âu Cơ, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh ) và đặc biệt n.v có thể là loài vật, sự vật được nhân cách hoá,

mang bóng dáng, tính cách của con người, thể hiện cuộc sống của thế giới con người( n.v Dế Mèn, Dế
Trũi, Bọ Ngựa trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí.
Nhân vật trong truyện cũng có thể là những con người bình thường với các mối quan hệ trong xã hội
trong các truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phóng sự
3.Chi tiết.
Bất cứ truyện nào cũng được xây dựng trên những tình huống và chi tiết. Chính chúng tạo nên sự hấp
dẫn , sinh động của câu chuyện. Chi tiết trong truyện bao gồm nhiều loại: có chi tiết về chân dung, ngoại
hình nhân vật, có chi tiết về nội tâm, về tâm lý nhân vật, chi tiết về phong cảnh thiên nhiên, phong tục tập
quán bao gồm cả những chi tiết tưởng tượng không có thật trong đời sống. Tuy nhiên không phải chi tiết
nào cũng đưa vào truyện. Chỉ có những chi tiết cần thiết cho sự phát triển của các sự việc, cho sự thể hiện
tính cách nhân vật mới đưa vào tác phẩm.
Thông thường ở những tác phẩm nghệ thuật thành công, bao giờ cũng xuất hiện những chi tiết nghệ
thuật đặc sắc được coi là điểm sáng.
Ví dụ: Trong truyện “ Bức tranh của em gái tôi”( Ngữ văn 6, tập 2) có một chi tiết bất ngời làm sáng lên
toàn bộ cốt truyện. Đó chính là chi tiết người anh “ giật mình sững sờ”, “ngỡ ngàng”, “hãnh diện”, “xấu
hổ”, “muốn khóc”khi nhận ra cậu bé đang ngồi suy tư, mơ mộng trong bức tranh mà em gái đã vẽ khi
tham gia trại vẽ quốc tế chính là mình
4.Ngôi kể.
Khi kể chuyện, người kể phải xác định được ngôi kể cho mình. Ngôi kể là vị trí giao tiếp, trò chuyện,
tâm sự mà người kể sử dựng khi kể chuyện. Trong truyện, căn cứ vào nội dung câu chuyện mà tác giả lựa
chọn cách kể theo ngôi thứ nhất ( tôi, chúng tôi, ) hoặc kể theo ngôi thứ ba(nó , hắn , cô ấy , họ, )
Nếu kể theo ngôi thứ nhất sẽ dễ dàng thể hiện cảm xúc riêng, giàu chất trữ tình, thể hiện tính chủ quan
của lời văn người kể chuyện.Kể theo ngôi thứ ba thì ngôi kể sẽ mang tính khách quan và câu chuyện sẽ
linh hoạt thoải mái hơn.
5.Lời kể và lời thoại.
Lời kể là yếu tố không thể thiếu trong bài văn kể chuyện. Nhờ lời kể mà người viết , người kể nối kết
các sự việc, sự kiện, biến cố trong câu chuyện thành một chuỗi mắt xích, đan kết, có hệ thống từ đầu đến
cuối.
Lời thoại trong văn tự sự cũng rất cần sáng tạo. Người viết văn tự sự phải chọn lời thoại thật phù hợp
với văn cảnh , hợp với nhân vật ( liên quan đến tuổi tác, nghề nghiệp, tính cách ). Lời nhân vật thiếu nhi

thì hồn nhiên , ngây thơ, lời nhân vật người già thì điềm đạm
Ví dụ 2 : Tâm sự Thạch Sanh .
c. Kể chuyện dựa theo một đề tài hoặc chủ đề hoặc nhân vật cho trước .
- Để làm được kiểu bài này , trước tiên người viết phải biết dùng trí tưởng tượng để hoàn chỉnh đề bài theo
dụng ý kể của cá nhân .
Ví dụ 1 : Kể lại một câu chuyện có nội dung nói về công cha nghĩa mẹ trong câu ca dao :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra .
Ví dụ 2 : Trên đường đi họp phụ huynh về , mẹ của một bạn học kém đang tâm sự với mẹ của một bạn
học giỏi . Em hãy ghi lại câu chuyện của hai người .
B. TÌM Ý , CHỌN Ý VÀ XÁC ĐỊNH Ý NGHĨA CHO BÀI VĂN TỰ SỰ
1. Cách xác định cốt truyện và ý nghĩa câu chuyện .
- Muốn tạo được cốt truyện hay các em cần trả lời hai câu hỏi : Kể chuyện gì ? ( để tìm cốt truyện ) , và
Câu chuyện đó có ý nghĩa như như thế nào ? ( để xác định ý nghĩa truyện ). Việc trả lời các câu hỏi này
gắn với quá trình tìm hiểu đề bài , gắn với đặc điểm của từng kiểu bài .
- Kể lại một câu chuyện đã đọc , đã biết , trả lời câu hỏi : kể chuyện gì ? không đơn thuần chỉ là nhắc lại
tên chuyện mà cần tóm tắt được câu chuyện , tìm ra các tình tiết cơ bản nhất tạo nên cốt truyện . Trả lời
câu hỏi thứ hai là tìm cho được ý nghĩa của câu chuyện .
- Kể lại một câu chuyện gắn với người thực , việc thực , để trả lời hai câu hỏi trên, cần làm rõ những câu
hỏi sau : Kể về ai? Kể lại những sự kiện nào, các hoạt động của người ấy ? Chúng có ý nghĩa như thế
nào ?
- Kể lại một câu chuyện tưởng tượng, tùy theo mỗi kiểu bài cụ thể, để có được cốt truyện và ý nghĩa của
nó, người làm bài cần tiến hành các công việc đã qui định trong đề bài ( đề bài cho nhân vật, cần tìm đề
tài, chủ đề của truyện, đề bài cho cốt truyện mở, cần hoàn chỉnh cốt truyện đó )
- Khi xây dựng cốt truyện, cần hình dung toàn bộ diễn biến câu chuyện ; câu chuyện bắt đầu vào lúc nào,
các sự việc diễn biến ra sao, lúc nào là cao trào, lúc nào là kết thúc.
Ví dụ : Em đã biết truyện cổ tích Thạch Sanh. Em hãy kể lại chuyện mẹ con Lí Thông lừa Thạch Sanh đi
giết chằn tinh.
Khi xác định cốt truyện cần làm rõ :
- Câu chuyện bắt đầu khi mẹ con Lí Thông được tin báo đến lượt Lí Thông phải ra miếu chằn tinh nộp

mạng. Chúng đã bàn mưu lừa Thạch Sanh đi thay .
- Cao trào nhất là lúc Thạch Sanh gọi cửa báo tin đã giết chằn tinh, mẹ con Lí Thông khấn lạy rối rít . Sau
khi biết sự thật lại dọa và đuổi Thạch Sanh đi .
- Câu chuyện kết thúc khi Thạch Sanh ra đi.
*Khi xây dựng cốt truyện cần lưu ý :
- Cần tạo được cốt truyện hấp dẫn, có nhiều tình tiết, diễn biến phong phú. Không nên chọn cốt truyện quá
đơn giản, ít tình huống , phải hợp tình, hợp lí.
2. Xây dựng và sắp xếp tình tiết ( sự việc)
Mỗi truyện bao gồm nhiều tình tiết, các chi tiết này cần liên kết với nhau, sắp xếp kế tiếp nhau sao cho có
đẩu, có đuôi, có thuyết minh nguyên nhân, kết quả sự việc. Sắp xếp tình tiết truyện là sắp xếp chuỗi sự
việc cho hợp lí, mạch lạc, vừa bộc lộ được tính cách nhân vật, vừa bộc lộ được ý nghĩa của truyện, vừa
hấp dẫn người đọc.
- Khi làm bài văn tự sự, việc xây dựng và sắp xếp tình tiết là rất quan trọng, người làm bài phải biết xác
định tình tiết nào là chính, tình tiết nào là phụ, phải biết nhấn vào những tình tiết quan trọng và lướt qua
những tình tiết phụ . Số lượng tình tiết chính cũng không nên nhiều quá.
- Không nên đưa những tình tiết có tính đột biến tới mức phi lí.
3. Xây dựng nhân vật :
- Cần chọn nhân vật phù hợp với cốt truyện. Đồng thời xác định nhân vật nào là n.v chính , n.v nào là phụ.
- Khi miêu tả n.v nên miêu tả với một chân dung cụ thể, có tên tuổi, vóc dáng, trang phục, tính tình Tức
là quan tâm đến miêu tả ngoại hình để làm nổi bật tính cách n.v . Việc đật tên cho n.v cũng rất quan trọng.
Thông thường những n.v cao đệp hay có những cái tên đẹp và ý nghĩa . Kẻ ác, xấu có cái tên không hay tí
nào .
- Việc miêu tả ngoại hình cũng cần cân nhắc kĩ lưỡng , không phải n.v nào cũng được miêu tả từ đầu đến
chân . Tùy theo các đặc điểm, tính cách, tuổi tác hay tình huống truyện mà chọn những nét ngoại hình cho
phù hợp.
- Khi xây dựng n.v, cũng cần tạo được sự hợp lí khi miêu tả. Không nên hư cấu những n.v trong tác phẩm
khác n.v ngoài đời .
II. LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN TỰ SỰ :
1. Mở bài :
- Bắt đầu bằng việc giới thiệu n.v và tình huống phát sinh câu chuyện sẽ như thế nào ?

- Có thể giới thiệu trực tiếp n.v mà cũng có thể miêu tả sự việc đang diễn ra và qua đó giới thiệu, thuyết
minh n.v và động cơ của n.v . Có khi người ta bắt đầu từ kết quả sự việc rồi ngược lại kể từ đầu .
2. Thân bài :
- Trình bày diễn biến của các sự kiện, hành động, tính cách và mâu thuẫn. Trong phần này tất cả các vấn
đề đặt ra trong truyện được khơi sâu, mở rộng và phát triển một cách đầy đủ
- Có thể chia diễn biến thành từng bước để tìm ý, chọn lọc tình tiết và sự việc, nêu rõ hoạt động của n.v và
vận dụng yếu tố miêu tả vào những chỗ cần thiết . Theo ba bước sau:
+ Khai đoạn ( phần mở đầu , thắt nút ).
+ Phát triển ( phần phát triển hành động).
+ Điểm đỉnh .
3. Kết bài:
Làm nhiệm vụ giải quyết vấn đề đặt ra, giải quyết mâu thuẫn, giải toả thành công tâm lí
chờ đợi của người đọc và hình thành ý nghĩa xã hội cho truyện .
Đây là một dàn ý thông thường được sử dụng khi làm bài văn tự sự . Tuy nhiên trong quá trình làm bài,
HS có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào từng đề bài cụ thể .
III. VIẾT BÀI VĂN KỂ CHUYỆN :
1. Viết phần mở bài :
Do có sự khác nhau về nội dung, thể loại, độc giả và cấu tứ của tác giả mà có nhiều cách mở bài khác
nhau.
- Các truyện cổ tích thường mở đầu bằng một công thức : Ngày xưa , sau lời mở bài, người kể đi thẳng
vào câu chuyện.Với cách mở bài này , người đọc vừa tiếp xúc đã thấy ngay chủ đề, thấy rõ sự việc tác giả
sẽ kể , sẽ tả hay thuyết minh ,
Nhiều chuyện bắt đầu kể bằng tên n.v và lai lịch hoặc việc làm của n.v đó .
Ví dụ : Em gái tôi tên là Kiều Phương , nhưng tôi quen gọi nó là Mèo đến khó chịu .
- Nhiều truyện bắt đầu bằng một câu hoặc vài câu tả cảnh, tả thời khắc lúc đó để tạo bối cảnh cho câu
chuyện.
2. Kết bài :
- Kết bài kiểu điểm đề ( nhắc lại đề bài )
Điểm đề là cách nói ra cái đề bài hoặc chỉ ra chủ đề. Kết bài theo kiểu này có thể khái quát nội dung chủ
yếu của bài ở mức độ cao, giúp người đọc đi vào tìm hiểu tư tưởng trung tâm của bài viết .

- Kết bài kiểu giới thiệu bày tỏ :
Cũng giống như mở bài, tác giả cũng thường có những giới thiệu, trình bày về mục đích viết, hướng đi
của n.v kết cục phát minh của sự việc ở phần kết bài .
- Kết bài kiểu so sánh .
- Kết bài kiểu trữ tình : đây là kiểu kết bài theo kiểu trực tiếp biểu đạt tư tưởng tình cảm của tác giả. Đặc
điểm của nó là ở chỗ kết bài tác giả thường nói ra lời ngợi khen, nỗi giận, đau thương. Ở đây, hoặc là
mượn cảnh để bày tỏ, hoặc thông qua nghị luận, lặp lại ngợi ca để biểu đạt. Từ đó khiến người đọc, người
nghe có được sự truyền cảm và chủ đề thăng hoa .
- Kết bài kiểu tổng kết : đây là kiểu kết bài thường gặp. Đặc điểm của nó là ở chỗ cuối bài nêu ra kết luận
có tính tổng kết quy nạp về nội dung các mặt của phần tự sự, thuyết minh hoặc nghị luận ở trên .Từ đó,
khiến tác giả khái niệm rõ ràng, ấn tượng hoàn chỉnh , đáp án đúng đắn .
3. Cách viết lời kể , lời thoại( giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc.
Có hai cách để giới thiệu, thuyết minh:
- Giới thiệu thuyết minh trực tiếp nhân vật,sự kiện. Thường do người dẫn truyện đứng ra tự giới thiệu,
thuyết minh rõ đặc điểm, tính nết, lai lịch của n.v.
Ví dụ: trong truyện "Sơn Tinh, Thủy Tinh" giới thiệu về các n.v như : Mị Nương, Sơn Tinh, Thủy Tinh .
- Giới thiệu thuyết minh gián tiếp . Cách giới thiệu này thường dùng để thuyết minh về tính cách, tình cảm
n.v .Cách giới thiệu thuyết minh gián tiếp làm cho câu chuyện sinh động nhưng lại dài và người đọc phải
tinh mới nhận ra điều người viết muốn giới thiệu, thuyết minh về n.v . Cách giới thiệu này thường gặp
trong truyện hiện đại .
Trong bài văn tự sự, dù giới thiệu, thuyết minh trực tiếp hay gián tiếp thì người viết cũng cần lưu ý rằng
lời kể, lời thoại cần được cân nhắc, gọt dụa từng chi tiết mới có sức hấp dẫn người đọc, người nghe. Dù kể
theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba thì tầm quan trọng của lời kể, lời thoại cũng không thay đổi. Bởi vậy,
để tạo được lời kể, lời thoại có sức hấp dẫn cần chú ý một số điểm sau :
- Lời kể, lời thoại phải rõ ràng nhưng kín đáo, tế nhị. Không nên quá cầu kì , dài dòng, nhưng không nên
quá hời hợt, sơ lược.Cũng cần thông qua lời kể, lời thoại để làm toát lên nội dung cốt truyện, chủ đề của
câu chuyện cũng như thái độ, tình cảm của mình.
- Khi viết lời kể, lời thoại cho bài văn tự sự, cần nắm được đặc điểm, tính cách, tuổi tác, nghề nghiệp, giới
tính của các n.v trong câu chuyện để lựa chọn được lời kể, lời thoại phù hợp với đối tượng n.v được kể .
- Lời kể, lời thoại phải phù hợp với ngôi kể . Dùng ngôi kể thứ nhất thì lời kể thiên về tự thuật, có thể nêu

chi tiết cảm nhận , suy nghĩ, thái độ, lời bình phẩm về các sự việc được diễn ra trong cốt truyện. Còn khi
bài văn dùng ngôi thứ ba thì lời kể phải mang tính khách quan để cho người đọc, người nghe tự cảm nhận
chủ đề tác phẩm qua từng n.v, từng sự việc .
- Lời kể, lời thoại trong bài văn tự sự cần ngắn gọn, nên sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu
ghép, câu tỉnh lược và đặc biệt cần lưu ý đến các dấu câu( dấu chấm than, dấu chấm hỏi, dấu chấm
lửng )
Ví dụ : Sầu riêng .(Minh Nhân).
4. Miêu tả trong kể chuyện.
Miêu tả hiện diện trong nhiều loại văn, mỗi loại văn sử dụng yếu tố miêu tả với nhiều mục đích khác
nhau. Trong bài văn tự sự, miêu tả không chỉ làm nổi bật ngoại hình mà còn có thể khắc họa nội tâm n.v,
làm cho n.v, sự kiện trở nên đậm đà, lí thú với người đọc.
Thực tế cho thấy nếu trong văn tự sự chỉ chú trọng đến kể mà không quan tâm đến miêu tả thì câu
chuyện sẽ thiếu sinh động, tẻ nhạt. Đây là lỗi thường gặp của H.S khi làm bài . Do đó, khi làm bài văn tự
sự, ngoài việc quan tâm đến cốt truyện và hệ thống các chi tiết, sự kiện, nhân vật, các em cần phải chú ý
đến vận dụng yếu tố miêu tả đúng lúc, đúng chỗ và hợp lí. Trong quá trình viết bài văn tự sự, khi dùng văn
miêu tả phải có sự lựa chọn , miêu tả chỉ có tính đan xen, bổ trợ cho cốt truyện hay hơn, hấp dẫn hơn; n.v
của câu chuyện hiện lên sinh động và hấp dẫn hơn. Chú ý sử dụng các từ ngữ có sức gợi tả nhất ( từ láy, từ
tượng hình, từ tượng thanh )
Ví dụ : đoạn miêu tả lão Hạc khóc trong truyện ngắn" Lão Hạc". Hay trong truyện " Dế mèn phiêu lưu kí"
Tô Hoài đã vận dụng yếu tố miêu tả rất thành công .
5. Xác định ngôi kể trong văn tự sự .
a. Kể theo ngôi thứ nhất tức là người kể tự xưng tôi,( không nhất thiết phải là chính tác giả) , trực tiếp
xuất hiện để dẫn dắt toàn bộ diễn biến của câu chuyện, tức là kể lại những gì mình nghe, mình thấy, mình
trải qua, và vì thế có thể trực tiếp nói ra những cảm tưởng ý nghĩa của mình . Ở tác phẩm "Dế mèn phiêu
lưu kí" , " Bức tranh của em gái tôi " là những tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất. Các nhân vật tự xưng
tôi : Dế mèn, người anh trai là những người trực tiếp chứng kiến, tham gia câu chuyện, và đã gửi gắm
những suy nghĩ, tâm tư tình cảm của mình . Các câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất thường là chuyện
tường thuật, hồi ức.
b. Kể theo ngôi thứ ba làm cho lời văn có tính khách quan, không bị trói buộc, giới hạn của cái tôi, rất
phóng túng, linh hoạt, nhưng phải giả định là tôi ( người kể) có khả năng biết hết mọi điều đang kể.

Kể theo ngôi thứ ba người kể tự giấu mình, không xuất hiện trực tiếp, gọi các n.v bằng tên gọi của
chúng hoặc bằng các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ ba: ông (ấy), bà (ấy) Hầu như đa số các truyện cổ dân
gian đều kể ở ngôi này.
Trong một câu chuyện, ngôi kể cần nhất quán để người đọc tiện theo dõi, có điều kiện nhận ra cách đánh
giá thống nhất. Bởi ngôi kể thực chất là điểm nhìn, cách nhìn mang tính nghệ thuật đối với n.v và sự kiện
trong tác phẩm. Do đó, chính nhu cầu nghệ thuật đòi hỏi người làm bài văn tự sự phải lựa chọn ngôi thứ
nhất hay ngôi thứ ba để nhằm tạo hiệu quả lớn nhất cho câu chuyện.
Một trong những biện pháp nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện là phối hợp cả hai ngôi kể
trên, tức là có khi kể ở ngôi thứ nhất , có khi kể ở ngôi thứ ba.
Ví dụ : trong "Lão Hạc" (Nam Cao) toàn bộ câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất (ông giáo ) nhưng
cảnh bắt chó lại được kể theo lời lão Hạc với một tâm trạng dằn vặt, đau đớn.Tác giả đã phối hợp hai ngôi
kể,tạo sự thay đổi điểm nhìn khi kể chuyện.
* Một câu chuyện cũ có thể kể theo ngôi kể mới - Đó là sự chuyển đổi ngôi kể . Sự chuyển đổi ngôi kể
cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
- Khi chuyển đổi ngôi kể cần có sự thay đổi ngôn từ của n.v (nhất là các từ xưng hô) cho phù hợp với quan
hệ mới trong câu chuyện, sắp xếp lại các tình tiết, xác định những cảnh, tình huống cần lướt qua hoặc cần
tả lại cho phù hợp với ngôi kể mới .
- Sự chuyển đổi ngôi kể không được làm thay đổi ý nghĩa câu chuyện và cốt truyện. Nếu phá vỡ nguyên
tắc này thì sẽ không còn là một cách kể chuyện cũ theo ngôi kể mới mà là đã sáng tạo ra một câu chuyện
mới .
Để thực hiện việc chuyển đổi ngôi kể, trước tiên cần có sự nhập vai. Muốn vậy, cần xác định vai mới
định kể là vai gì, có quan hệ với các n.v khác trong truyện ra sao, giữ vị trí như thế nào trong truyện.
Ví dụ : Kể chuyện Thạch Sanh theo ngôi kể mới của Lí Thông.
Qua bài viết trên, ta thấy rằng, do nhập vai, người kể đã biết mình cần lướt qua và tả kĩ những sự kiện,
tình huống nào, điều chỉnh các chi tiết, tình huống trong không gian, thời gian nghệ thuật nên câu chuyện
được kể theo một ngôi kể mới nhưng không làm thay đổi cốt truyện, tạo được sự hấp dẫn đối với người
đọc, người nghe.
C. LUYỆN TẬP
I. SỰ VIỆC VÀ NHÂN VẬT TRONG VĂN TỰ SỰ
1. Liệt kê các sự việc chủ yếu trong truyện "Thánh Gióng ". Nhân vật Thánh Gióng được thể hiện

qua những chi tiết nào?
Gợi ý :
-Các sự việc chủ yếu trong truyện "Thánh Gióng" là:
+ Bà lão ướm thử chân mình vào vết chân lạ và thụ thai.
+12 tháng sau, bà lão sinh ra một cậu con trai rất khôi ngô nhưng không biết nói, cười, đi, đứng.
+ Đứa bé nghe tiếng rao của sứ giả bỗng cất tiếng nói.
+ Nhà vua cho làm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt cho chú bé.
+ Chú bé lớn nhanh như thổi.
+ Chú vươn vai thành tráng sĩ phi thẳng đến nơi có giặc để giết giặc.
+ Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre đánh giặc.
+ Giặc tan tráng sĩ bay về trời.
+ Vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ.
- Nhân vật Thánh Gióng được thể hiện qua các điểm sau: tên tuổi, hoàn cảnh xuất thân, đặc điểm cá nhân
riêng biệt, lời nói và hành động.
2. Với nhan đề "Một lần không vâng lời". Em hãy tưởng tượng để kể một câu chuyện theo nhan đề
ấy. Em dự định sẽ kể những việc gì, diễn biến ra sao, nhân vật của em là những ai?
Gợi ý:
-Có thể kể những sự việc theo thứ tự sau;
+ Do ai làm?
+ Việc xảy ra ở đâu?
+ Chuyện xảy ra lúc nào?
+ Nguyên nhân?
+ Diễn biến ?
+ Kết quả?
II. CHỦ ĐỀ VÀ DÀN BÀI VĂN TỰ SỰ
1. Đọc truyện "Hoàng đế họ Mai"và trả lời các câu hỏi sau:
a. chủ đề của truyện trên ca ngợi ai? Sự việc nào tập trung vào chủ đề? Tìm những câu văn làm rõ chủ đề?
b. Hãy chỉ ra ba phần : mổ bài, thân bài , kết bài của truyện .
C. Trong các sự việc của truyện, sự việc nào hấp dẫn và đáng nhớ nhất?
Gợi ý :

a. Chủ đề truyện: Ca ngợi anh hùng khởi nghĩa nông dân Mai Thúc Loan. Từ đó, ca ngợi truyền thõng đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Theo dõi văn bản để tìm ra những câu văn thể hiện chủ đề .
b. Chuyện có ba phần :
- Mở bài: Từ đầu đến mẹ già: Giới thiệu hoàn cảnh đất nước và giới thiệu Mai Thúc Loan
- Thân bài : Tiếp theo đến bỏ về nước: Nhân dân bị bóc lột khổ cực đã đứng dậy khởi nghĩa dưới sự chỉ
đạo của Mai Thúc Loan và đã thắng lợi bước đầu.
Kết bài: Đoạn còn lại: Mai Thúc Loan lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Mai Hắc Đế và tiếp tục chiến đấu
chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước.
c. Trong số các sự việc trong truyện, sự việc đáng nhớ nhất, hấp dẫn nhất là: Trai tráng trên đường chở vải
ra Thăng Long đã đồng tâm nhất trí nổi dậy chống giặc.
2. Lập dàn ý cho đề bài sau: Hãy kể lại một lần về thăm quê.
Gợi ý :
- Mở bài: Giới thiệu:
+ Lí do về thăm quê.
+ Thời gian về thăm quê hoặc suy nghĩ chung về quê hương đất nước.
- Thân bài :
Việc chuẩn bị về thăm quê:
+ Bố mẹ chuẩn bị ra sao?
+ Em chuẩn bị những gì?
+ Không khí chung của cả gia đình.
Tâm trạng của em trên đường về thăm quê:
+Vui mừng, phấn khởi.
+ Nôn nóng muốn đặt chân lên mảnh đất quê hương.
+ Những suy nghĩ khác.
Cảnh vật quê hương thay đổi :
+Đời sống vật chất : cảnh đường làng ngõ xóm, cảnh các ngôi nhà mới khang trang, đẹp đẽ . Cảnh trụ sở
Uỷ ban nhân dân xã , cảnh trường học, các dịch vụ khác
+ Đời sống tinh thần: không khí sôi nổi của các cụ già , các em nhỏ, của các đoàn thể
khác

* Có thư viện với nhiều loại sách bổ ích, bưu điện văn hóa xã với nhiều báo ,tạp chí,
Tình cảm của người thân đối với mình khi về thăm quê.
+Gần gũi,chân tình, nồng hậu.
+ Thăm gia đình, họ hàng, vui chơi cùng các bạn.
- Kết bài :
+ Thời gian nhanh chóng trôi qua, phải chia tay mọi người.
+ Cảm nghĩ về sự đổi mới của quê hương và suy nghĩ về tình cảm gia đình,họ hàng, làng xóm.
III. TÌM HIỂU ĐỀ VÀ CÁCH LÀM BÀI VĂN TỰ SỰ- LỜI VĂN, ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
1. Cho đề văn: Kể về một việc tốt em đã làm.
a. Tìm hiểu đề bài trên.
b. Tìm ý cần thiết phục vụ cho đề bài.
c. Lập dàn ý cho đề bài trên.
Gợi ý:
a. Tìm hiểu đề:
- Bước 1: Đọc kĩ đề, gạch dưới những từ quan trọng( kể, việc tốt, đã làm).
- Bước 2: Theo yêu cầu của đề, xác định nội dung định viết:
+ Nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của câu chuyện.
b. Tìm ý: lựa chọn các ý tiêu biểu: việc tốt đó là gì? Đã làm như thế nào? Kết quả ra sao?
c. Lập dàn ý:
Mở bài: Giới thiệu về bản thân và câu chuyện định kể . Hoặc nêu sự việc mở đầu.
Thân bài: Tập trung vào việc tốt đã làm. Có thể kể lần lượt:
+ Từng sự việc diễn ra.
+ Tập trung vào một sự việc chính.
+ Suy nghĩ về việc làm của mình.
Kết bài: Nêu sự việc kết thúc câu chuyện.
2. Hãy viết các câu văn giới thiệu các nhân vật: Thánh Gióng, Lạc Long Quân.
Gợi ý:
Thánh Gióng: Đời Hùng Vương thứ sáu có người con trai làng Gióng đã dẹp giặc ân cứu nước nên được
vua phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Lạc Long Quân :là vị thần nòi rồng sống ở miền đất Lạc Việt.

+ Ngày xưa ở miền đất Lạc Việt có một vị thần thuộc nòi rồng tên là Lạc Long Quân.
IV. NGÔI KỂ VÀ LỜI KỂ TRONG VĂN TỰ SỰ
1. Vì sao trong các truyện truyền thuyết, cổ tích người ta hay kể chuyện theo ngôi thứ ba mà không
kể theo ngôi thứ nhất?
Gợi ý: Trong khi kể chuyện truyền thuyết và cổ tích ( kể cả các truyện dân gian khác)người ta kể theo
ngôi thứ ba mà không kể theo ngôi thứ nhất vì: tất cả các truyện cổ dân gian đều kể lại những câu chuyện
từ ngày xửa ngày xưa. Khi kể lại những câu chuyện ấy, người kể nếu tự biến mình nhân vật tôi, người
tham gia trực tiếp các câu chuyện xưa, sẽ làm cho tính chất cổ tích, truyền thuyết bị mất đi.Như vậy, kể
chuyện cổ tích, truyền thuyết theo ngôi kể thứ nhất người kể sẽ không tạo được sự hấp dẫn cho người
nghe vì người nghe không được tiếp xúc với không khí cổ xưa của cổ tích, truyền thuyết.
2. Khi viết thư em sử dụng ngôi kể nào ?
- Khi viết thư em buộc phải dùng ngôi thứ nhất.Dù có lúc người viết xưng tôi, em, cháu, chú xưng hô thế
nào tùy thuộc vào mối quan hệ giữa người nhận thư và người viết thư.
3. Thay đổi ngôi kể trong đoạn văn sau thành ngôi thứ nhất và nhận xét về ngôi kể đem lại những
điều gì khác cho bản thân.
Dùng cây bút thần, Mã Lương vẽ cho tất cả người nghèo trong làng. Nhà nào không có cày em vẽ cho
cày. Nhà nào không có cuốc em vẽ cho cuốc. Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đền. Nhà nào không có
thùng nước,em vẽ cho thùng nước.
Việc đó ai cũng biết. Rồi câu chuyện cây bút thần lọt vào tai một tên địa chủ giàu có trong làng. Hắn
liền sai đầy tớ đến bắt Mã Lương về nhà để vẽ theo ý hắn .Mã Lương tuy còn nhỏ tuổi, nhưng tính tình
khảng khái. Em biết bụng dạ tham lam của bọn nhà giàu,nên không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc cho chúng
hết lời dọa nạt.Tên địa chủ tức giận, nhốt em vào chuồng ngựa, không cho ăn uống gì.
( Cây bút thần )
Gợi ý : HS dùng ngôi kể thứ nhất, người kể xưng "tôi" thay cho từ "em, Mã Lương".
Việc chuyển đổi ngôi kể như trên làm cho đoạn văn có sắc thái tâm sự, đi vào lòng người hơn ( cách kể
như vậy đã sang loại kể chuyện sáng tạo: đóng vai nhân vật)
V. LUYỆN VIẾT VỀ KỂ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG
Tham khảo các đề sau:
Đề 1. Em hãy kể về một việc tốt mà em đã làm.
Đề 2. Kể về một kỷ niệm mà em đáng nhớ nhất về thầy, cô giáo cũ của mình.

VI. LUYỆN VIẾT VỀ KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG
Tham khảo các đề sau:
Đề 1: Lê Lợi đánh tan quân Minh giải phóng đất nước, lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Lê Thái Tổ, đóng đô
ở Thăng Long. Tất cả những điều ấy Rùa Vàng đều được chứng kiến , tham gia
Dựa vào Sự tích Hồ Gươm , trong vai Rùa Vàng,em hãy kể lại câu chuyện trên.
Đề 2. Tâm sự của một cuốn sách bị bỏ quên.
Đề 3. Hãy thay đổi ngôi kể để kể lại một chuyện mà em biết.
CHƯƠNG II. VĂN MIÊU TẢ
A. KHÁI QUÁT VỀ VĂN MIÊU TẢ
I KHÁI NIỆM
1. Miêu tả: là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình
dung được sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người. Hoàng Phê( chủ biên) Từ điển Tiếng Việt.
Phạm Hổ , một nhà văn có tài miêu tả đã giải thích: Miêu tả giỏi là khi đọc những gì chúng ta viết, người
đọc như thấy những cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, một dòng sông, một con vật Người
đọc có thể hình dung được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy.Thậm chí còn ngửi được cả mùi mồ
hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc Nhưng đó chỉ là miêu tả bên ngoài, còn có sự
miêu tả bên trong nữa, nghĩa là miêu tả về tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cỏ
cây
(Phạm Hổ: Văn miêu tả và kể chuyện, NXB GD, Hà Nội,1991)
Ví dụ:
Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà.Chao ôi, trông con sông , vui như thấy
nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng . Đi rừng dài ngày rồi lại bắt đầu ra
sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dù người cố nhân ấy mình biết là lắm
bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy .
( Nguyễn Tuân )
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN MIÊU TẢ
1. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ.
Dù miêu tả bất kì đối tượng nào, một em bé, một cụ già, một cánh đồng lúa chín, một dòng sông , một con
vật nuôi trong gia đình dù có bám sát thực tế miêu tả tới đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ là sự
sao chép, chụp ảnh lại những cảnh sự vật, con người một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét,

tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới mẻ , cái riêng biệt trong
cách quan sát , sau đó tiến lên thể hiện cái mới, cái riêng trong tư tưởng, tình cảm đối với đối tượng
miêu tả.
Đặc điểm này làm cho miêu tả trong văn học khác hẳn miêu tả trong khoa học
( như trong sinh học, địa lý học, khảo cổ học )
Hãy so sánh hai đoạn miêu tả cùng một con vật : con bướm.
Ví dụ 1: Đoạn trích sau được trích từ sách sinh học:
Thân bướm có ba phần: đầu, ngực, bụng. Phần ngực có bốn cánh, sau chân.
Bướm bay được nhờ hai màng rộng cơ bản. Chúng có vảy phấn phủ nên không trong như cánh chuồn.
Ví dụ 2: Ngoài giờ học chúng tôi tha thẩn ngoài bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những con bướm đủ hình
dáng, màu sắc. Con xanh biếc pha đen như nhung bay loang loáng. Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt,
ven cánh có răng cưa, lượn lờ như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, màu nâu
xỉn, có hình đôi mắt tròn vo dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng. Loạt bướm nhỏ đen
kịt, là là theo chiều gió, hệt như tàn nhang của những đám đốt nương. Còn lũ bướm vàng tươi xinh xinh
của những vườn rau thì rụt rè, nhút nhát,chẳng bao giờ dám bay ra bờ sông
Qua hai ví dụ trên, thấy rằng ở ví dụ 1, chỉ là sự miêu tả lạnh lùng, khách quan , gạt bỏ những cảm xúc
riêng của người viết. Ở đây các chi tiết nêu ra là đặc điểm chung của loài bướm, ( cấu tạo thân ,cánh )
còn bỏ qua những đặc điểm riêng của từng loài bướm.
Ở ví dụ 2, ngay từ đầu đoạn miêu tả, tình cảm của tác giả với những cánh bướm đã được xác định. Đó là
sự yêu thích, say mê bộc lộ qua hành động tha thẩn bên bờ sông để bắt bướm, qua lời phát biểu trực tiếp
chao ôi, những con bướm đủ hình dáng, màu sắc. Từng chi tiết tả loài bướm đều gắn với niềm say mê đó,
đều chứng tỏ sự gắn bó, hoà quyện tâm hồn của tác giả với thiên nhiên. Nếu không làm như vậy, làm sao
có thể nhận ra cái dáng bay của đàn bướm trắng líu ríu như hoa nắng, làm sao có thể có sự liên tưởng mới
mẻ này: loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo chiều gió, hệt như tàn nhang của những đám đốt nương.
2. Tính sinh động và tạo hình.
Đây là một đặc điểm quan trọng của văn miêu tả. Để tạo nên tính sinh động và tạo hình, miêu tả văn học
cần có những cái riêng và cái mới . Điều quan trọng là cái riêng, cái mới ấy phải giúp cho người đọc hình
dung phân biệt được cái đẹp, cái xấu và muốn vươn tới cái đẹp. Nhìn bầu trời đầy sao, Vích –to Huy –go
thấy nó giống một cánh đồng lúa chín và ở đó người ta bỏ quên lại một cái liềm con
( vành trăng non): Mai a cốp x ki thì lại nhìn thấy khác : những ngôi sao kia giống như những giọt nước

mắt của những người da đen đang khóc Lê Nin, khi biết Lê Nin vừa qua đời. Còn nhà văn Nam Cao thì
vành trăng hoặc ánh sao lại được nhìn nhận, cảm nhận theo một cách khác: Trăng là cái liềm vàng giữa
cánh đồng sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng toả mộng xuống trần gian. Trăng
tuôn suối mát để những hồn khát khao ngụp lặn hình ảnh cánh đồng lúa chín, những giọt nước mắt của
người da đen, cái liềm vàng giữa cánh đồng sao rất khác nhau nhưng đều đúng và hay. Rất riêng và rất
mới.Miêu tả cây cối, có nhà văn thấy nó giống như những con người đang im lìm tư lự ( vì trời lặng gió );
có nhà văn lại nhìn thấy chúng như những con ngựa đang phi nhanh, bờm tung ngược( vì đang có gió thổi
mạnh) có nhà văn lại thấy chúng như những cái lồng chim của thiên nhiên, trong mỗi lồng chim đang
nhảy, đang chuyền.
Bài văn miêu tả kị nhất là sự giả tạo. Nhà văn Phạm Hổ cho rằng trong bài văn miêu tả cái mới, cái
riêng phải gắn với cái chân thật. Có người lầm tưởng văn miêu tả cần phải có cái mới, cái riêng vì thế có
thể bịa ra để miêu tả. Thực tế không phải như vậy. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không
ngăn cản sự sáng tạo mới mẻ của người viết, nhưng như vậy không có nghĩa là văn miêu tả cho phép
người viết bịa một cách tuỳ tiện, muốn nói sao thì nói, muốn tả sao thì tả. Muốn miêu tả đúng, miêu tả
hay, không được thì cần phải miêu tả chân thực. Tính chân thực ở đây không phải chỉ được hiểu là chân
thực trong quan sát và sự thể hiện quan sát ấy, mà còn được hiểu là chân thực trong cách cảm, cách nghĩ
của người viết đối với đối tượng miêu tả.
3 Ngôn ngữ trong bài văn miêu tả
Đối tượng của văn miêu tả là hiện thực cuộc sống, rất phong phú, đa dạng, muôn hình muôn vẻ. Để tao
dựng lại những bức tranh về cuộc sống ấy, các nhà nghệ sĩ sử dụng nhiều chất liệu khác nhau: Nhà hoạ sĩ
miêu tả bằng màu sắc; nhà điêu khắc miêu tả bằng đường nét. Còn nhà văn sử dụng nghệ thuật ngôn từ.
Đây là mọt trong những điều quan trọng nhất để phân biệt miêu tả văn học với loại hình miêu tả khác. Bất
kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong thực tế cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Nhưng
không phải bất kì sự miêu tả nào cũng trở thành miêu tả văn học. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là ngôn ngữ
giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, âm thanh. Chỉ có như vậy ngôn ngữ văn miêu tả mới có khả
năng diễn tả cảm xúc, tạo hình đối tượng miêu tả. Qua nhiều văn bản miêu tả đã học, đã đọc, ta thấy ngôn
ngữ miêu tả thường sử dụng các tính từ, động từ, phép nhân hoá, so sánh, ẩn dụ Do sự phối hợp các tính
từ( màu sắc, phẩm chất ), của các động từ với các biện pháp tu từ, ngôn ngữ miêu tả luôn toả sáng lung
linh trong lòng người đọc, gợi lên trong lòng họ những cảm xúc, tình cảm, ấn tượng, hình ảnh về sự vật
được miêu tả.

Ví dụ : ( trang 90)
4. Một đặc điểm cần quan tâm nữa là trong văn miêu tả, người viết không chỉ dùng ngôn ngữ miêu
tả mà còn phải biết kết hợp với ngôn ngữ của văn tự sự trong văn miêu tả. Bởi lẽ vừa tường thuật,
vừa tả thì mới tạo cho bài văn có sinh khí và hấp dẫn hơn- Chính việc sử dụng các thể văn trong văn bản
một cách linh hoạt, đa dạng về sắc thái phong cách mới tạo sự lôi cuốn, thuyết phục người đọc.
Ví dụ, đoạn văn sau phối hợp vừa thuật vừa tả.
Khoảng nửa đêm, chúng tôi giật mạnh chiếc giường bạt. Bên ngoài, trời tối như chụp bưng. Bóng tối
quánh lại, dày đặc như cái chảo đen khổng lồ úp chụp xuống. Gío rít từng cơn hất tung nước biển lên sàn
ràn rạt. Con tàu lắc lư, dềnh lên, dập xuống Biển vẫn gào thét. Gío từng cơn đẩy nước dồn ứ lại, rồi đột
ngột giãn ra. Con tàu vẫn lặn hụp như con cá kình giữa muôn nghìn lớp sóng.
( Đình Kính- Trong cơn lốc biển)
Tác giả đã tường thuật bằng cách trình bày sự việc theo thời gian và diễn biến của cơn lốc. Mặt khác, tác
giả phối hợp với miêu tả để thấy cảnh cơn lốc biển trong đêm và những sức mạnh ghê gớm của nó đối với
đoàn tàu chở vũ khí tiếp viện vào miền Nam trong những ngày cuối cùng chống Mĩ. Tuy vậy, các chiến sĩ
của đoàn tàu với quyết tâm cao đã vật lộn với sóng dữ, với biển cả và cuối cùng đã chiến thắng thiên
nhiên để mờ sáng hôm sau đưa cả đoàn tàu đến điểm tập kết đúng thời gian qui định .
III . CÁC KIỂU BÀI VĂN MIÊU TẢ THƯỜNG GẶP .
Văn miêu tả rất phong phú, đa dạng nhưng có thể quy về một số dạng văn miêu tả thường gặp như sau:
- Bài văn miêu tả viết theo một đề tài cho trước. Đó là một con vật, một đồ vật, một loài cây Ngay cả
một đề bài có vẻ tự do như: Tả một người mà em yêu thích, thực ra người làm bài cũng bị giới hạn vào
trong đề tài rồi.
- Bài văn miêu tả viết theo một kiểu bài qui định. Đó là kiểu bài tả đồ vật hay tả loài vật, tả người hay tả
cảnh
1. Tả cảnh : có tả phong cảnh và cảnh sinh hoạt
1.1. Tả cảnh thiên nhiên.
1.1.1. Đối tượng miêu tả.
Đó là những cảnh thiên nhiên quen thuộc mà chúng ta đã chứng kiến. Có thể là:
- Những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử- văn hoá có ở khắp đất nước.
- Những điểm du lịch được nhiều người biết đến.
- Những phong cảnh thiên nhiên gây nhiều ấn tượng với chúng ta, những cảnh vật quen thuộc gắn bó với

con người.
1.1.2. Nội dung miêu tả.
Cảnh vật đưa vào văn bản miêu tả rát đa dạng. Mỗi cảnh vật lại có phần trọng tâm, có miêu tả được phần
đó mới làm nổi bật được cảnh cần tả. Đối với danh lam thắng cảnh, nét càn miêu tả là những điểm hấp
dẫn, kì thú của cảnh vật; đối với di tích lịch sử có địa hình, địa vật, là những chiến công, những dấu ấn
lịch sử còn để lại; với phong cảnh thân thuộc, có nhiều kỷ niệm thì đó là những cảnh vật gần gũi, gắn bó
với cuộc sống thường ngày. Có lựa chọn đúng chi tiết miêu tả , bài viết mới có sức hấp dẫn và gây được
nhiều ấn tượng cho người đọc.
Bên cạnh miêu tả đường nét, hình khối, việc miêu tả phong cảnh cần chú ý đến màu sắc, âm thanh, hương vị
Chính việc sử dụng tất cả các cảm giác trong văn miêu tả như vậy sẽ tạo được những cảnh vật không những có góc
cạnh, đường nét mà còn có cả âm thanh và nhịp điệu.
Trong bài văn tả cảnh, trọng tâm là chọn chi tiết cảnh vật, ngoài ra cần tả hoạt động của con người trong
cảnh, hoạt động của chim chóc, ong, bướm trong cảnh để làm cho bức tranh thiên nhiên sinh động như
ngoài đời.
Nên tả theo trình tự từ bao quát đến cụ thể, chi tiết, theo không gian từ gần đến xa và ngược lại, từ thấp
đến cao và ngược lại, từ phải sang trái theo một quy ước thống nhất và có thể tả theo trình tự thời
gian( sáng, chiều, tối) nếu thấy phù hợp với đối tượng miêu tả.
Tả xong, người viết cần nêu nhận xét, suy nghĩ của mình về cảnh được tả. Lời phát biểu này có thể trình
bày trực tiếp bằng những ngôn ngữ của tác giả cũng có thể gián tiếp thông qua ngôn ngữ tả cảnh hoặc lời
nói của người trong cảnh.
1.1.3. Ngôn ngữ miêu tả.
- Để tăng sức gợi tả, văn miêu tả phong cảnh thường sử dụng nhiều tính từ chỉ màu sắc và những từ co sức
diễn tả hình khối đường nét.
- Các từ chỉ địa điểm, vị trí không gian được sử dụng phổ biến
Ví dụ : ( trang 93)
1.2.Tả cảnh sinh hoạt
1.2.1. Đối tượng miêu tả.
Đó là những cảnh sinh hoạt diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta. Đó có thể là buổi lao
động, một tiết bài kiểm tra, một buổi tối thứ bảy cả gia đình sum họp, một phiên chợ, một cuộc liên hoan
Trong cảnh sinh hoạt ấy, hoạt động của con người là chủ yếu.

Ví dụ : ( trang 96)
1.2.2. Nội dung miêu tả.
Hoạt động là thành phần chính tạo nên cảnh sinh hoạt. Vì vậy khi miêu tả cảnh sinh hoạt nội dung chính
là tả hoạt động của con người. Trong văn tả người, miêu tả hoạt động nhằm làm nổi rõ tính cách, tính
nết của con người. Còn trong văn tả cảnh sinh hoạt, các hoạt động của từng cá nhân nào đó lại không
nhằm vào mục đích phác họa riêng lẻ mà nhằm đạt tới việc làm nổi bật cái chung, cụ thể hơn về cái chung
một cách sinh động, đa dạng. Tả học sinh vui chơi trong giờ ra chơi không phải nhằm làm nổi bật tính nết
từng em mà nhằm làm rõ bức tranh sân trường vào lúc đó với nhiều hoạt động khác nhau: em nhảy dây,
em chơi trốn tìm, em trò chuyện với bạn Các hoạt động vui chơi tạo nên không khí sôi nổi, vui vẻ của
giờ ra chơi. Do vậy các hoạt động được tả phải hướng vào làm nổi bật hoạt động chung của cảnh. Nếu
hoạt động của từng người được miêu tả rời rạc, riêng lẻ, bài văn không còn là bài miêu tả cảnh sinh hoạt.
Ví dụ : ( trang 97)
Trong văn tả cảnh sinh hoạt người viết cần xen lẫn tả cảnh thiên nhiên, tả người, tả vật ở một mức độ
nhất định để làm nền khung cảnh cho hoạt động của con người.
Cuối cùng , khi tả, người viết có thể phát biểu cảm tưởng, suy nghĩ, nhận xét của mình về cảnh sinh hoạt
được tả. Những suy nghĩ này có thể được trình bày trực tiếp bằng lời của người viết, cũng có thể đưa vào
một cách gián tiếp ( vừa là của người trong cảnh, vừa là của tác giả)
1.2.3.Ngôn ngữ miêu tả .
Tả cảnh sinh hoạt chứa đựng nhiều yếu tố của tả người, tả phong cảnh vì vậy ngôn ngữ trong bài văn
tả cảnh sinh hoạt thường đa dạng, nhiều hình vẻ. Tuy vậy, điểm nổi bật nhất vẫn là sử dụng một số lượng
khá lớn các động từ chỉ hoạt động của con người. Không ở loại văn bản miêu tả nào số lượng số động từ
chỉ hoạt động của con người lại nhiều và đa dạng như ở văn bản miêu tả cảnh sinh hoạt
Chính nhờ hệ thống động từ phong phú như vậy mà văn tả cảnh sinh hoạt bao giờ cũng sống động, đầy
âm thanh, màu sắc, hành động như thực tế vốn có của đối tượng miêu tả.( ví dụ trang 99 )
2. Tả người :
2.1 Đối tượng miêu tả:
Đối tượng miêu tả của văn tả người thường nhằm vào những người thân, những gương tốt, gần gũi quen
thuộc và để lại nhiều ấn tượng cho người viết. Đó có thể là ông, bà, bố, mẹ , anh, chị , em, thầy cô giáo,
bạn bè cùng trường lớp, khối phố Cũng có thể là những người lạ, nhưng để lại ấn tượng mạnh nên cũng
có thể trở thành đối tượng miêu tả.

2.2 Nội dung miêu tả.
Có thể tạm thời chia việc miêu tả thành hai phần: phần miêu tả bên ngoài ( hình dáng ) và phần miêu tả
bên trong ( đời sống nội tâm). Việc miêu tả bên ngoài như: đôi mắt, làn da, hàm răng, mái tóc, dáng
người, đôi tay, tuổi tác, cách ăn mặc là cần thiết nhưng phải biết tập trung vào những nét ngoại hình tiêu
biểu nhất, những nét riêng cá biệt.
Ví dụ : ( trang 102)
2.3. Ngôn ngữ miêu tả.
Trong cuộc sống có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu tính cách. Mỗi người mỗi vẻ khác nhau. Thể
hiện tính cách riêng đó chủ yếu là lời ăn tiếng nói trong quá trình giao tiếp của mỗi người. Vì thế có thể
chia ngôn ngữ trong văn tả người thành hai loại: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người viết.
-Ngôn ngữ nhân vật gồm có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại; ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ
bên trong. Ngôn ngữ nhân vật đòi hỏi phải cá thể hoá cao. Vì sự đa dạng này, khi miêu tả chi tiết của đối
tượng, người viết phải sử dụng ngôn ngữ đa dạng và sinh động sao cho người đọc không chỉ qua hình
dáng, diện mạo mà qua cả lời ăn tiếng nói của đối tượng có thể nhận ra họ là ai và như thế nào. Có lẽ,
người viết phần nào hoá thân, nhập vai với người được tả để mà ăn nói mà giao tiếp, mà xử lí sao cho phù
hợp với đối tượng. Lời nói của nhà giáo sẽ khác với lời nói của kẻ đi buôn, lời nói của kẻ “ đâm thuê chém
mướn” sẽ khác với lời nói của một triết gia, của một em bé ba tuổi sẽ khác với một cụ già Trong từng
hạng người, mỗi cá nhân có sắc thái ngôn từ riêng: kẻ thì từ tốn , chậm rãi, người thì đanh đá chua
ngoa Trong mỗi ngữ cảnh, ngôn từ cũng có sự thay đổi để phù hợp với đối tượng giao tiếp. Vì vậy cần
phải tạo cho mỗi nhân vật một ngôn ngữ riêng phù hợp với các thành phần xã hội, với hoàn cảnh sống, với
cá tính, để qua lời nói, người đọc có thể nhận ra con người đó.
- Ví dụ ( trang 106)
B. PHƯƠNG PHÁP LÀM VĂN MIÊU TẢ
I. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH MIÊU TẢ.
Bài văn miêu tả nào cũng nhằm một mục đích nào đó. Chính mục đích của bài văn miêu tả sẽ định
hướng cho việc tìm ý, lập dàn ý và quy định nội dung và giọng điệu bài văn. Khi tả cảnh thiên nhiên hay
tả cảnh sinh hoạt, điều đầu tiên là phải xác định rõ phạm vi không gian, thời gian của cảnh được miêu tả
và nội dung chủ yếu cần làm toát lên từ cảnh đó. Ví như tả cảnh sinh hoạt đầm ấm trong một gia đình vào
một buổi tối thì nên chọn phòng nào gia đình có mặt đông đủ nhất, thời điểm nào ông, bà, bố, mẹ, anh chị
em hay có mặt bên nhau nhất, còn các phòng khác hay cảnh ngoài đường, những âm thanh từ nơi khác

vọng tới chỉ làm tôn thêm vẻ đầm ấm của gia đình, tuyệt nhiên không được tả lan man làm loãng cảnh
trung tâm. Tất cả hoạt động của con người trong nhà cũng phải toát lên vẻ sum họp đầm ấm. Còn nếu tả
cánh đồng lúa bị hạn hán, nếu để người đọc thấy được quyết tâm của người nông dân đang vắt đất ra nước
, thay trời làm mưa, chiến thắng hạn hán thì bên cạnh chi tiết tả cánh đồng khô nứt nẻ phải có nhiều chi
tiết tả các cô, bác nông dân đang bơm nước, tát nước, dẫn nước vào đồng. Nước đi đến đâu, cây lúa hồi
sinh đến đó. Nếu tả cánh đồng hạn để nêu lên nỗi khổ của người nông dân thì cần tô đậm chi tiết tả cây lúa
, cây ngô đang rũ ra chết vì thiếu nước, ruộng khô nứt toác, bùn đặc quánh, khô cứng.
Muốn xác định mục đích bài tả cảnh, cần trả lời các câu hỏi sau:
-Bài tả cảnh gì?
-Bài tả cảnh cho ai đọc?
-Bài tả cảnh nhằm mục đích gì?
Với bài văn tả người, cần xác định được hình dáng, tính tình, hành động của con người phụ thuộc vào
tuổi tác. Mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển riêng về cơ thể, sẽ có những nét tâm lí riêng biệt và có
những hành động tương ứng. Ví dụ, tả một cô lao công sẽ không giống tả một cô ca sĩ, tả một cậu thiếu
niên sẽ không giống tả một bác trung niên.
Trong bài văn tả người, giới tính ( nam hay nữ) cũng có ảnh hưởng lớn trong việc xác định mục đích
miêu tả. Bởi vậy, các em hãy quan sát chính các bạn trong lớp, các thành viên trong gia đình để xác định
được mục đích miêu tả chính xác.
Ở tuổi trưởng thành, nghề nghiệp sẽ để nhiều dấu vết ngay từ hình dáng đến tính tình, cử chỉ của mỗi
người. Một trí thức hay tiếp xúc với sách vở, với khoa học thì dễ bị cận thị hơn một bác công nhân. Một
dân chài sẽ có nước da đen sạm và khoẻ mạnh, bắp tay săn chắc, hơn là một nhà nghiên cứu khoa học suốt
ngày làm quen với phòng thí nghiệm, máy tính.
Như vậy, khi làm bài văn tả người, các em cần lưu ý rằng tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh sống và điều
kiện sống, nghề nghiệp sẽ tạo nên những điểm khác nhau ở từng tầng lớp người và mỗi con người.
Tuy nhiên các em cũng cần lưu ý rằng : mỗi con người tự thân còn mang những nét riêng biệt không thể
trộn lẫn. Bởi vậy, khi miêu tả, các em cần tập trung vào việc làm nổi bật được những cái chung và cái
riêng của con người được miêu tả.
II. TÌM Ý CHO BÀI VĂN MIÊU TẢ.
1. Quan sát.
Muốn viết được bài văn miêu tả cần phải có ý. Những ý này có thể có được nhờ vào việc đọc sách, báo,

tài liệu. Nhưng phần lớn những ý này do việc quan sát mà có. vì thế, việc quan sát là rất cần thiết để chuẩn
bị cho nội dung bài văn miêu tả.
Quan sát là nhìn, là xem xét, nhân biết một vật, một người, một cảnh nào đó phát hiện những cái khác
biệt của nó. Quan sát tinh vi, thấu đáo, bài viết sẽ đặc sắc, hấp dẫn. Quan sát hời hợt phiến diện bài viết sẽ
khô khan, nông cạn. Xét cho cùng, mọi bài văn thuộc thể bài văn sáng tác đều phụ thuộc vào khả năng
quan sát của người viết. Nhưng kết quả của văn miêu tả là kết quả trực tiếp, dễ nhận thấy nhất của quan
sát. Chính vì thế, đối với các nhà văn, kĩ năng quan sát đóng một vị trí hết sức quan trọng, thậm chí được
coi là yếu tố khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác cũng như quyết định cho sự thành công của quá trình
miêu tả hiện thực cuộc sống. Không thể ngồi trong bốn bức tường để dựng lại những bức tranh về thiên
nhiên, loài vật và con người. Trí tưởng tượng dù có phong phú tới đâu cũng không thể nào sánh với hiện
thực cuộc sống.
Khi quan sát , chúng ta cần phải chú ý:
1.1.Chọn vị trí quan sát.
Vị trí quan sát tốt giúp chúng ta xem xét cảm nhận cảnh vật và con người một cách cụ thể, rõ ràng và
tinh tế hơn. Và do vậy, miêu tả cũng hồn nhiên và sinh động và hấp dẫn hơn.
Ví dụ ; chọn được vị trí quan sát tốt có ý nghĩa quan trọng khi làm bài văn miêu tả. Văn bản “Sông nước
Cà Mau” trích “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi” tác giả đã chọn vị trí quan sát là trên con thuyền
xuôi theo các dòng kênh rạch nhỏ về phía sông lớn Năm Căn và dừng lại ở chợ Năm Căn. Vị trí quan sát
và miêu tả này rất phù hợp với việc miêu tả một dòng sông nước rộng lớn, theo một trình tự hợp lí, từ xa
đến gần, từ khái quát đến cụ thể. Đặc biệt với vị trí quan sát này giúp cho người viết vừa miêu tả các lần
lượt các kênh, rạch, sông theo hành trình của con thuyền; vừa có thể miêu tả cảnh quan hai bên bờ lẫn
cảnh vật vùng sông nước Cà Mau.
1.2.Quan sát phải nắm được những đặc điểm riêng biệt của đối tượng miêu tả.
Mỗi đối tượng miêu tả có một đặc điểm riêng, quan sát trong văn miêu tả cần phải chú ý tới đặc điểm
riêng của từng cá thể, đồng thời nhận xét các đặc điểm này thông qua tình cảm và cảm xúc của mình. Đây
là những nhận xét của Tô Hoài về một lão nông dân : Hình thù một người tiêu biểu lao động như cụ Sóng,
có những nét đặc sắc: da đỏ lịm, tóc bạc cứng dựng đứng. Ngực cao ngang cằm, vai và lưng nở múi, gồ
ghề, lồi lõm. Bắp thịt lúc nào cũng cuộn lên. Hai chân thì thật là như hai chiếc vồ đứng. Những nét cằm,
nét má, nét môi vạc xuống, nhác trông khoằm khoặm, đăm chiêu, nhưng thỉnh thoảng cả khuôn mặt lại
sáng lên, hóm hỉnh thật vui Trong phần miêu tả trên, Tô Hoài chú ý tới màu đỏ lịm của da, cái dáng

cứng dựng đứng của bộ tóc bạc, cái độ cao ngang cằm của ngực vì đó là những đặc điểm riêng vừa chỉ
ra tuổi tác của cụ Sóng, vừa phân biệt cụ với các cụ già khác. Trong khi vận dụng các giác quan để quan
sát đồng thời chúng ta phải huy động trí óc làm việc: phán đoán, phân tích, lí giải Nhờ sự kết hợp đó các
tài liệu quan sát được trở nên sâu sắc, phản ánh đúng bản chất của hiện tượng, sự vật. Về điểm này Tô
Hoài đã phân tích Đừng bỏ qua nhiều quan sát bé nhỏ nhưng rất quý quanh mình.
1.3.Câu chữ phải chứa đựng tình cảm chân thực.
Trong miêu tả, điều tối kị nhất là quan sát không chân thực. Muốn làm tốt bài văn miêu tả, phải quan sát
nhiều lần, tỉ mỉ và mài sắc các giác quan.Gô-gôn đã tâm sự: Tôi cần quan sát xã hội đến nơi đến chốn chứ
không phải liếc nhìn nó trong khi khiêu vũ hay đi dạo.
Ngay đối với những người, những vật quen thuộc, chúng ta cũng cần có tác phong quan sát tỉ mỉ. Mặt
khác phải biết vận dụng thành thạo các giác quan. Cũng quan sát bằng mắt, nhưng ta phải biết xem xét
nhiều khiá cạnh của sự vật ấy.
Tóm lại, mục đích của việc quan sát là để tìm ý, để xác định nội dung cho bài văn miêu tả. Vì thế việc
quan sát cần phải kĩ, phải nắm bắt cho được cái thần, cái hồn và nét riêng biệt của đối tượng miêu tả.
Chính những nét riêng ấy tạo nên cái mới và độc đáo cho nội dung miêu tả.
2.Hồi tưởng và tưởng tượng trong văn miêu tả.
Có thể khẳng định rằng không có kĩ năng tưởng tượng thì bài văn miêu tả chắc chắn sẽ không thể hay
được, dù là văn tả thực. Làm nghệ thuật nói chung và viết văn miêu tả nói riêng không thể chấp nhận kiểu
sao chép hiện thực cuộc sống một cách khô cứng , máy móc. Nếu chỉ quan sát và ghi chép vào bài làm
đúng y nguyên những điều đã quan sát ấy thì bức tranh được miêu tả sẽ không sinh động và thiếu sức hấp
dẫn. Vì vậy cần tưởng tượng và sáng tạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho bức tranh
miêu tả trở nên phong phú hấp dẫn hơn.
Khi quan sát và hồi tưởng, người quan sát thường từ những chi tiết mình quan sát được nhớ tới hình ảnh
này, hình ảnh khác tương tự. Đó là quá trình tưởng tượng, liên tưởng. Nhờ sự tưởng tượng phong phú, táo
bạo, mới mẻ, người quan sát có nhiều nhận xét mới mẻ, tạo nên sức hấp dẫn cho đoạn văn miêu tả, có tác
động mạnh đến độc giả.
Bởi vậy, khi viết bài văn miêu tả, các em cần lưu ý, bên cạnh kĩ năng quan sát, thì yếu tố hồi tưởng,
tưởng tượng là vô cùng quan trọng. Quan sát chưa đủ, để có bài văn miêu tả hay, độc đáo thì cần có khả
năng hồi tưởng, tưởng tượng. Muốn có kĩ năng này, các em phải huy động được những hiểu biết, các cảm
xúc, các nhận xét đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả. Các nhà văn khi miêu tả những cảnh không

có trên trái đất( cảnh địa ngục, cuộc sống trên các hành tinh xa xôi ), những cảnh bản thân họ không thể
trải nghiệm được( cẩm giác của người sắp chết, của người gặp tai nạn bất ngờ ) họ lại dùng phương pháp
hồi tưởng kết hợp với tưởng tượng để nhào nặn những tài liệu đã có, tạo thành chất liệu miêu tả.
Ví dụ ( trang 117)
3. So sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
3.1. So sánh trong văn miêu tả:
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng nào đó, hình ảnh
của đối tượng ấy ( từ màu sắc đến hình dáng, từ kích thước đến trạng thái) thường gợi cho người ta đến
hình ảnh khác có nét tương đồng nào đó. Chính sự liên tưởng so sánh này làm cho bài văn miêu tả hay
hơn, đối tượng miêu tả hiện lên rõ hơn, hấp dẫn hơn.
Nếu xét về đối tượng, hiện tượng so sánh trong văn miêu tả hết sức đa dạng và phong phú:
- So sánh đối chiếu sự vật này với sự vật khác có sự tương đồng về hình dáng: Trăng như cái liềm vàng,
trăng như cái đĩa bạc.
So sánh đối chiếu sự vật, hiện tượng này với sự vật với sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng về độ
cao: Rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.
- So sánh đối chiếu sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng về cấu tạo:
Những ngọn cỏ gãy rạp y như có nhát dao vừa lia qua.
Trong các văn bản nghệ thuật, đặc biệt trong văn miêu tả, so sánh thường dùng với mục đích tu từ, vì thế
nếu lược bỏ so sánh , câu văn sẽ mất đi tính sinh động và gợi tả rõ rệt.
Ví dụ1: Có dùng so sánh:
Chợ Hòn Gai buổi sáng la liệt tôm cá. Những con cá song khoẻ mạnh, vớt lên hàng giờ vẫn giãy đành
đạch, vảy xám hoa đen lốm đốm. Những con cá chim mình dẹt như hình con chim lúc sải cánh bay, thịt
ngon vào loại nhất nhì. Những con cá nhụ béo nhúc, trắng lốp, bóng mượt như được quét một lớp mỡ
ngoài vảy. Những con tôm he tròn, thịt căng từng ngấn như cổ tay của trẻ lên ba, da xanh ánh, hàng
chân choi choi như muốn bơi.
( Thi Sảnh )
Ví dụ 2: Không dùng so sánh:
Chợ Hòn Gai buổi sáng la liệt tôm cá.Những con cá song khoẻ mạnh, vớt lên hàng giờ vẫn giãy đành
đạch, vảy xám hoa đen lốm đốm. Những con cá chim mình đẹt, thịt ngon vào loại nhất nhì. Những con cá
nhụ béo núc, trắng lốp, bống mượt. Những con tôm he tròn, thịt căng từng ngấn, da xanh ánh, hàng chân

choi choi như muốn bơi
Qua hai đoạn văn trên, đoạn 1 dùng nhiều hình ảnh so sánh, tạo cho người đọc có một ấn tượng mạnh về
đối tượng được so sánh. Đoạn 2, không dùng so sánh, đối tượng miêu tả trở nên khô cứng, lạnh lùng,
không tạo được ấn tượng của người độc với đối tượng miêu tả.
3.2. Nhận xét trong văn miêu tả .
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ quan ấy chính là
sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biểu lộ thái độ, tình cảm của riêng mỗi người với đối tượng
miêu tả. Một nhà văn Pháp đã viết: Một trăm cây bạch dương giống nhau cả trăm. Một trăm ánh lửa giống
nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì thân cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa
nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy mỗi người mỗi khác nhau, không ai
giống ai. ( Dẫn theo Tô Hoài - Một số kinh nghiện vết văn miêu tả ).
Không chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cần ý thức được điều này. Nhận xét
trong bài văn miêu tả giúp tạo nên dấu ấn chủ quan cho người viết đối với đối tượng miêu tả. Qua những
nhận xét chính xác, tinh tế của người viết giúp người đọc cảm nhận rõ hơn, sâu sắc hơn về đối tượng miêu
tả.
Mỗi đối tượng miêu tả có những nét khác nhau, có những dấu ấn riêng, vì vậy, người viết phải biết dùng
cách nhận xét như thế nào để tạo được sự hấp dẫn cho đối tượng miêu tả.
III. LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN MIÊU TẢ.
. Dàn ý chung cho bài văn miêu tả.
(1).Mở bài :
-Giới thiệu tên của đối tượng miêu tả( đồ vật, loài vật, cây cối, con người, cảnh vật, )
-Giới thiệu những điểm cần thiết khác tuỳ thuộc vào đối tượng miêu tả( thấy 1đối tượng miêu tả ở đâu,
vào lúc nào, quan hệ ra sao )
(2).Thân bài:
Trong phần thân bài có thể tả theo nhiều cách :tả theo trình tự không gian, tả theo trình tự thời gian, tả
theo trình tự các đặc điểm Tuỳ đối tượng miêu tả mà lựa chọn cách tả sao cho phù hợp.
Có thể tả lần lượt theo trình tự sau:
a) Tả bao quát những nét chung nhất
- Đối với vật là hình dáng, màu sắc, chất liệu và các bộ phận tạo thành ( đồ vật, cây cối).
- Đối với cảnh là những đường nét, hình khối, không gian bao quanh.

- Đối với người và loài vật là ngoại hình, dáng vẻ, tính nết, hoạt động.
b) Tả những nét riêng cá biệt, đặc sắc của đối tượng
- Tả những điểm khác biệt, độc đáo của đối tượng so với các đối tượng cùng loại khác( về hình dáng, chất
liệu, màu sắc, đường nét, tính nết )
- Tả chi tiết, cụ thể về một đặc điểm đáng chú ý nhất, gây nhiều ấn tượng cho người viết. Ví dụ, khi tả đồ
vật có thể tả sâu một vài bộ phận tiêu biểu; khi tả cây cối có thể tả dáng cây, tán cây, hoa trái; khi tả người
có thể tả sâu một vài hoạt động và nội tâm của những mối quan hệ xã hội của người đó Với mỗi loại đối
tượng khác nhau nên chọn những khía cạnh khác nhau để miêu tả cho phù hợp.
c) Nêu suy nghĩ riêng của bản thân về đối tượng miêu tả.
-Nêu những cảm nghĩ riêng của người viết đối với đối tượng miêu tả.
-Nêu công dụng ( với đồ vật), lợi ích ( với cây cối, loài vật ) quan hệ tình cảm( với người) và những suy
nghĩ khác đối với đối tượng miêu tả.
(3) Kết bài:
- Những ấn tượng sâu đậm đối với đối tượng miêu tả.
- Những liên tưởng, những suy nghĩ khác về đối tượng.
2.Lập dàn ý cho bài văn tả cảnh thiên nhiên.
A. Mở bài: Giới thiệu sẽ tả cảnh gì? Ở đâu? Vào lúc nào?( có thể thêm lí do tả hoặc hoàn cảnh tiếp xúc
với cảnh).
B. Thân bài:
- Tả bao quát những nét chung nổi bật nhất của toàn cảnh.
- Tả từng bộ phận của cảnh theo một trình tự hợp lí, có trọng tâm( chú trọng đường nét, màu sắc, hình
khối và tình cảm của người đối với cảnh)
C. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về cảnh được tả.
Ví dụ: Em hãy tả lại cánh đồng lúa chín vào một buổi sáng đẹp trời. ( trang 121)
3. Lập dàn ý cho bài văn tả cảnh sinh hoạt.
A. Mở bài: Đó là cảnh sinh hoạt gì, diễn ra ở đâu, vào lúc nào, em có tham gia hay chứng kiến cảnh đó
như thế nào?
B. Thân bài: Tuỳ theo đề bài mà chọn cảnh miêu tả cho phù hợp.
-Cách 1. Miêu tả từ bao quát đến từng nhóm người và các nhân vật tiêu biểu.
a. Tả những nét bao quát khi thoạt nhìn cảnh: quang cảnh chung, cảm tưởng chung về cảnh( đông vui

hay trang nghiêm).
b. Tả hoạt động của từng nhóm người trong cảnh: từng nhóm người tụ lại như thế nào, hoạt động nào
là chính? Từng nhóm người hoạt động ra sao( công việc, tinh thần, thái độ tham gia). Tả khung cảnh xen
lẫn tả hoạt động.
c. Tả hoạt động của một vài người tiêu biểu trong một thời điểm đáng chú ý nhất.
Theo cách này thì ý b và c là trọng tâm của bài và có thể kết hợp tả với nội dung ý c trong ý b.
-Cách 2.Miêu tả theo thứ tự không gian( nếu cảnh sinh hoạt diễn ra trong cùng một thời gian).
a. Tả khái quát cảnh chung.
b. Tả diễn biến hoạt động của khu vực 1.
c. Tả diễn biến hoạt động của khu vực 2
Theo cách này, khu vực nào là chủ yếu của cảnh sinh hoạt thì đó là trọng tâm của bài và được miêu tả kĩ
hơn.
-Cách 3. Miêu tả theo thứ tự thời gian( nếu cảnh sinh hoạt diễn ra cùng ở một thời điểm):
a.Tả cảnh tượng trước lúc sinh hoạt.
b.Tả cảnh tượng trong lúc sinh hoạt( là trọng tâm cần tả kĩ).
c.Tả cảnh tượng sau lúc sinh hoạt.
C.Kết luận: Cảm tưởng và suy nghĩ của em đối với cảnh sinh hoạt đó.
Chú ý: Dù lựa chọn cách nào thì miêu tả các hoạt động trong cảnh sinh hoạt cũng cần kết hợp tỏ rõ tình
cảm và ý nghĩ của mình trước cảnh ấy nhưng ở phần kết luận cần nêu tổng quát và tập trung những cảm
nghĩ sâu sắc nhất của mình.
Ví dụ : Tả quan cảnh trường em lúc tan học ( trang 124)
4. Tả người ( có thể tả hình dáng, tính tình hoặc có thể tả hoạt động)
4.1. Tả hình dáng tính tình.
(1). Mở bài: Giới thiệu người được tả: gặp ở đâu? Trong dịp nào hoặc quen biết đã lâu ? Có quan hệ gia
đình hay xã hội với mình ra sao?
(2). Thân bài :
a. Tả hình dáng:
- Tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, tầm vóc, quần áo, dáng điệu,
- Những chi tiết cụ thể về làn da, khuôn mặt, mái tóc, mắt, mũi, miệng, ( những nét đặc sắc đáng chú ý
nhất).

b. Tả tính tình:
- Những lời nói, cử chỉ, việc làm, cách cư xử thông thường biểu lộ từng mặt cụ thể thuộc tính tình.
- Một vài dẫn chứng trong hoàn cảnh đặc biệt khi học tập, làm việc sinh hoạt thể hiện rõ tính tình.
(3) Kết luận : Cảm nghĩ của bản thân đối với người mình tả ( người đó đã để lại những ấn tượng hay ảnh
hưởng gì đậm nét đối với mình )
4.2. Tả hoạt động:
(1) Mở bài: Giới thiệu khung cảnh ( thời gian, địa điểm, sự hoạt động chung ) của người được tả hoạt
động.
(2) Thân bài:
a. Nêu sơ lược vài nét về giới tính, tuổi tác, tầm vóc, nghề nghiệp, quần áo của người được tả ( chọn
những nét tiêu biểu làm rõ thêm sự hoạt động của người đó).
b. Tả tỉ mỉ, cụ thể thứ tự các động tác cho thấy rõ việc làm , cách làm, kết quả công việc của người được
tả,( Có thể thêm lời nói, cử chỉ, thái độ trong công việc và những nét thuộc hình dáng được biểu hiện trong
đó ).
Chú ý : Mọi chi tiết được tả đều phải góp phần làm rõ tính tình người đó.
(3) Kết bài: Cảm nghĩ về công việc họ đang làm và về người được tả.
IV. VIẾT BÀI VĂN.
Khi đã có dàn ý, chúng ta có thể viết thành bài văn.
1. Viết phần mở bài:
Phần mở bài cần giới thiệu được đối tượng miêu tả. Phần này có thể viết theo kiểu trực tiếp đối tượng
cần miêu tả hoặc giới thiệu theo kiểu hoàn cảnh xuất hiện của đối tượng hoặc giới thiệu theo kiểu phát
biểu cảm nghĩ về đối tượng.
Ví dụ 1: Giới thiệu theo kiểu trực tiếp:
Dương Văn Minh là em trai tôi. Cậu ta bước sang tuổi thứ năm, rất thông minh và hiếu động. Trò chơi
yêu thích của cu Minh là mở vi tính để chơi trò Tac-zan và bi-a 3D, còn nhỏ nhưng lúc nào cậu ta cũng
mơ ước lớn lên sẽ trở thành tổng thống. Cả nhà tôi ai cũng yêu thương chú cún con bé bỏng này.
Ví dụ 2: Giới thiệu hoàn cảnh xuất hiện:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Câu hát của người xưa cứ ngân trong tâm trí chúng tôi trên con đường về quê Bác. Nhưng tranh hoạ đồ

giờ đây không chỉ có non xanh nước biếc như xưa, chúng tôi mải mê ngắm nhìn những cánh đồng chiêm
mơn mởn, những chiếc cầu sắt mới tinh duyên dáng, những mái trường, những mái nhà tươi rói bên cạnh
rặng tre non và những nhà máy mới cứ mọc lên trên đất nước chúng ta như những giấc mơ kì diệu.
( Hoài Thanh- Thanh Tịnh-Phong cảnh quê Bác)
Ví dụ 3: Phát biểu cảm nghĩ:
Thời thơ ấu . Mỗi khi nhắc đến ba tiếng ấy, trái tim em lại thổn thức.Bao kỉ niệm êm đềm về thời thơ ấu ,
nhưng chỉ có rừng thông xanh là em yêu quý nhất. Đã bao lần em xao xuyến về cái tên ấy. Ôi, rừng thông
xanh của em.
Mỗi bài văn miêu tả cho thấy một cách mở bài khác nhau. Nhưng tất cả các cách mở bài đều cần bảo
đảm yêu cầu; dẫn vào bài làm một cách ngắn gọn, tạo sự hấp dẫn đối với người đọc, người nghe.
2. Viết phần thân bài:
Là phần chính của văn bản nên phần này gồm nhiều đoạn văn và chứa nhiều ý nghĩa quan trọng nhất.
Phần này tập trung vào miêu tả những nét nổi bật, riêng biệt của đối tượng. Các ý phải được sắp xếp hợp lí
để đối tượng miêu tả hiện lên rõ nét, sinh động.
Điều quan trọng ở phần thân bài là phải biết cách trình bày các ý thành những đoạn văn. Mỗi đoạn văn
nên tập trung làm rõ ý miêu tả. Có thể đó là một ý về không gian, một ý về thời gian, hoặc một đặc điểm
nào đó của đối tượng được tách riêng ra để miêu tả. Không nên nhập các ý trong phần thân bài thành một
hoặc hai đoạn văn.
Trong phần thân bài, có thể chia đoạn văn theo trình tự thời gian, không gian, hoặc theo đặc điểm của
đối tượng miêu tả.
2.1.Chia đoạn theo trình tự thời gian: là kiểu chia đoạn vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một
ngày thì có sáng, trưa, chiều, tối; trong một mùa thì có xuân, hạ, thu, đông; trong một quá trình thì có bắt
đầu, diễn biến, kết thúc; theo một chu kì thì có còn nhỏ, trưởng thành, về già,
Ví dụ ( trang 128) Một ngày ở Đê Ba.
2.2. Miêu tả theo trình tự không gian: đòi hỏi người làm bài quan sát đối tượng ở nhiều góc độ và nhiều
hướng khác nhau: từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên
Ví dụ: Hai chiếc máy bừa sơn đỏ, lấm lem bùn đất, lắp bánh lồng kềnh càng, đang nối đuôi nhau chạy
những vòng cuối cùng trên khu đất ruộng nước. Sóng dào dạt xô bờ, cuốn theo những đám bọt vàng sánh
như riêu cua. Một đàn chim sáo, én, dẽ giun chao lượn sát mặt ruộng, rối rít tranh mồi, kêu rẹc, rẹc.
Quanh bờ, khoảng ba bốn chục người, già, trẻ, gái, trai, trong đó có nhiều người chủ hộ nhận ruộng

khoán sản phẩm cuối cùng với hợp tác xã, đang chăm chú theo dõi đường bừa của máy.
( Đỗ Vĩnh Bảo)
2.3. Miêu tả theo đặc điểm của đối tượng được miêu tả: Mỗi đặc điểm tính chất được tách ra thành một
đặc điểm độc lập để miêu tả trong một đoạn văn độc lập.
Ví dụ: Ôi, cái tên bé Sóc sao mà dễ thương thế. Mà cả con người bé cũng dễ thương làm sao. Bé có đôi
mắt đen nháy, luôn mở to như muốn dò hỏi mọi người xung quanh. Trông kìa, khi bé chớp mắt, hàng mi
dài nổi lên, ánh mắt ngây thơ. Cái miệng bé chúm chím, khi nói, khi cười. Bé đã nói được thành câu, tuy
còn là câu ngắn nhưng nghe rất rõ tiếng. Khuôn mặt bé bầu bĩnh như vành trăng tròn có hai lúm đồng tiền,
khi cười nói thì lúm rõ sâu.
( Dẫn theo Nguyễn Quốc Siêu)
3. Viết phần kết bài:
Phần kết bài trong văn miêu tả làm nhiệm vụ khép lại nội dung và phát biểu cẩm nghĩ của người viết.
Tuỳ theo đối tượng miêu tả, tuỳ theo nội dung triển khai trong phần thân bài, phần kết bài văn miêu tả
cũng có nhiều kiểu khác nhau. Nhưng dù kết luận theo kiểu nào thì cũng cần đảm bảo yêu cầu sau: Bộc lộ
cảm xúc trực tiếp, hoặc bộc lộ cảm xúc gián tiếp ( qua một chi tiết miêu tả cảnh vật giàu ý nghĩa khái
quát ) của người viết.
Ví dụ 1: Kết thúc bài Một ngày ở Đê Ba, tác giả Đình Chung đã bộc lộ cảm xúc gián tiếp của mình
thông qua hình ảnh: Buổi tối ở làng thật vui. Lớp thánh niên ca hát, nhảy múa. Tiếng chiêng, tiếng cồng,
tiếng đàn tơ- rưng dìu dặt vang lên.
Ví dụ 2: Kết thúc bài Phong cảnh quê Bác, tác giả Hoài Thanh- Thanh Tịnh đã cảm nhận về cuộc sống
quê Bác: Cả cánh đồng thu gọn trong tầm mắt, làng nối làng, ruộng tiếp ruộng. Cuộc sống ở đây có một
cái gì mặn mà, ấm áp.
Ví dụ 3: Kết bài có khi lại là một nhận xét ngắn gọn nhưng bộc lộ được tình cảm của người viết đối với
đối tượng miêu tả: Bé Sóc thật đáng yêu làm sao.
4.Viết thành bài văn
Bài văn hoàn chỉnh thường bao gồm phần mở bài, thân bài và kết bài với nhiều đoạn văn liên kết chặt
chẽ với nhau. Khi làm bài văn miêu tả, các em cần đảm bảo có sự liên kết chặt chẽ về các ý giữa các câu
trong đoạn để cùng tả một bộ phận( hình dáng bên ngoài của một con người) hoặc tả những đối tượng có
quan hệ với nhau trong một cảnh ( tả một người để lại cho mình nhiều ấn tượng, ). Sự liên hệ của các
câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết, phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng Đoạn

nào không đảm bảo các yêu cầu trên sẽ trở nên lộn xộn, thiếu mạch lạc, văn bản sẽ không có sự liên kết.
Một bài văn hay là một bài văn giữa các phần , các đoạn trong văn bản phải hướng tới một chủ đề, liên kết
với nhau về mặt hình thức.
Ví dụ:
Hằng năm, cứ mùa xuân đến , tiết trời ấm áp thì đồng bào Ê-đê, Mơ-nông lại tưng bừng mở hội đua voi.
Hàng trăm con voi đồ sộ như những tảng đá xám nục nịch kéo đến. Mặt trời chưa mọc, bà con trong các
buôn nườm nượp đổ ra. Kẻ khua chiêng, người thổi tù và. Các chi mặc những chiếc váy thêu rực rỡ đeo
vòng bạc.
Trường đua voi là một con đường rộng, phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang
lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang nơi xuất phát. Trên lưng mỗi con ngồi hai chàng “man
gát”. Người ngồi phía trên cổ, có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời.
Trông họ rất bình tĩnh và họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất trong các cuộc săn trâu bò rừng.
Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì chậm chạp
thường ngày biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Những chàng “ man-gát” phải
rất gan dạ và khéo léo điều khiển chú voi của mình về đến đích trước đều ghìm đà, huơ vòi chào, khán giả
đã nhiệt liệt cổ vũ , khen ngợi chúng.
Ngày trước, hội đua voi có khi kéo dài đến hai ba ngày. Đó là một dịp vui chơi và trổ tài huấn luyện,
điều khiển voi của Tây Nguyên thượng võ.
( Lê Tấn- Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên)
Bài viết ngắn gọn, sinh động, lột tả được những nét đặc sắc của hội đua voi ở Tây Nguyên. Các phần mở
bài, thân bài, kết bài trong bài viết được liên kết chặt chẽ với nhau theo trình tự diễn biến của hôi thi.
+ Phần mở bài: giới thiệu hội đua voi.
+ Phần thân bài: gồm ba đoạn văn, đoạn một tả cảnh đàn voi và người xem trên đường đến hội. Đoạn hai
tả cảnh trường đua voi trước giờ xuất phát. Đoạn ba tả cảnh đua voi.
+ Phần kết bài: nói lên ý nghĩa của hội đua voi.
Các đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau theo một chủ đề Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên.
5. Ngôn ngữ miêu tả trong bài.
Việc lựa chọn ngôn ngữ trong bài văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, vì ngôn ngữ góp phần làm cho bài
văn tả cảnh sinh động, giàu hình ảnh, có sức hấp dẫn đối với độc giả. Tuy nhiên, việc lựa chọn ngôn ngữ
không đơn giản, đòi hỏi phải đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì trước hết phải có

một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lũy vốn từ cần được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức:
thông qua giờ học ngữ văn; thông qua giao tiếp hàng ngày, qua sách báo , đọc tài liệu tham khảo đến văn
miêu tả. Nhưng có một vốn từ phong phú chưa hẳn đã có một bài viết súc tích, giàu hình ảnh. Điều quan
trọng là phải biết lựa chọn từ ngữ phù hợp với ngữ cảnh. Khác với một số thể loại làm văn khác, bài văn
miêu tả thường sử dụng nhiều động từ, tính từ, dùng nhiều biện pháp tu từ, trong đó đáng chú ý là so sánh,
ẩn dụ, nhân hoá.
Nghệ thuật miêu tả không phải chỉ tạo hình ảnh. Nhưng ma thuật của hành văn, sức sống của bài văn
miêu tả lại nằm trong hình ảnh. Hình ảnh thật sự làm cho bài văn gây ấn tượng mạnh đối với người đọc,
làm cho sự vật được miêu tả trở nên sinh động. Nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh tạo nên hình
ảnh sinh động.
Ví dụ : Biển đẹp
Buổi sớm nắng sáng.Những cánh buồm nâu trên biển, được nắng chiếu vàng hồng rực lên như đàn
bướm múa lượn giữa trời xanh.
Lại đến buổi chiều, gió mùa đông bắc vừa dừng. Biển lặng đỏ, đục, đầy như mâm bánh đúc, loáng
thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên.
Rồi một ngày mưa rào. Mưa giăng giăng bốn phía. Có những quãng nắng xuyên xuống biển, óng ánh đủ
màu xanh lá mạ, tím phớt, hồng, xanh biếc Có quãng thâm sì, nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn
mưa ướt đẫm , thẫm lại, khoẻ nhẹ bồi bồi, như ngực áo bác nông dân cày xong thửa ruộng về bị ướt.
Có buổi nắng sớm mờ, biển bốc hơi nước, không nom thấy đảo xa, chỉ một màu trắng đục. Không có
thuyền , không có sóng, không có mây, không có sắc biếc của da trời.
Một buổi chiều lạnh, nắng tắt sớm. Những đảo xa lam nhạt pha màu trắng sữa. Không có gió mà sóng
vẫn vỗ đều đều, rì rầm. Nước biển dâng đầy, quánh đặc một màu bạc trắng, lấm tấm như bột phấn trên da
quả nhót.
Chiều nắng tàn, mát dịu. Biển xanh veo màu mảnh trai. Đảo xa tím pha hồng. Những con sóng nhè nhẹ
liếm trên bãi cát, bọt sóng màu bưởi đào.
Mặt trời xế trưa bị mây che lỗ đỗ. Những tia nắng dát vàng một vùng biển tròn, làm nổi bật những cánh
buồm duyên dáng, như ánh sáng chiếc đèn sân khấu khổng lồ đang chiếu cho các nàng tiên trên biển múa
vui.
Thế đấy, biển luôn thay đổi màu tuỳ theo sắc mây trời.Trời xanh thắm biển cũng thắm xanh, như dâng
lên cao, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám

xịt nặng nề. Trời ầm ầm, biển đục ngầu giận giữ Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt lạnh
lùng, lúc sôi nổi hả hê, lúc đăm chiêu gắt gỏng.
Biển nhiều khi rất đẹp, ai cũng thấy như thế. Nhưng có một điều ít ai chú ý là : vẻ đẹp của biển , vẻ đẹp
của kiêu kì muôn màu, muôn sắc ấy phần lớn do mây, trời và ánh sáng tạo nên.
( Vũ Tú Nam, Văn miêu tả tuyển chọn )
Biển đẹp của Vũ Tú Nam là một văn bản giàu hình ảnh, sinh động và hấp dẫn. Tác giả đã rất kì công
trong việc vận dụng từ ngữ miêu tả màu nước biển thay đổi theo trạng thái khác nhau của tiết trời: khi gió
đông bắc vừa dừng thì biển lặng đỏ đục; khi trời nắng thì biển óng ánh đủ màu: xanh lá mạ, tím phớt
hồng, xanh biếc. Khi mưa rào thì biển

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×