Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SỬ HỌC THỜI KHÁNG CHIẾN 1950

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.14 KB, 23 trang )

SỬ HỌC THỜI KHÁNG CHIẾN 1950
1
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ CÔNG DỤNG CỦA SỬ HỌC
Muốn thấy rõ đối tượng của sử học....
... tính ra thì thấy răng một phương diện, một hình thái đặc biệt
trong cuộc sinh hoạt của loài người hay của mỗi xã hội đều có một lịch sử
riêng, như lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, lịch sử khoa hoc, lịch sửvăn
học, lịch sử nghệ thuật v.v... Vậy thời đối tượng của sử học là nghiên cứu
cuộc sinh hoạt quá khứ, của loài người, hay của từng xã hội riêng, hoặc là
nghiên cứu cuộc diễn tiến riêng của từn phương diện của cuộc sinh hoạt
ấy. sinh hoạt của ... (rách một đoạn ngắn)...
...hội cũng như nhờ các khoa xã hội học, kinh tế học, chính trị học,
chúng ta có thể hiểu biết hiện tại của xã hội. Vì cuộc sống của nhân loại
là một thể liên lạc, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai có những tương
quan mật thếit với nhau, nên có thể nói rằng chúng ta ngày nay là những
kẻ kế thừa của tổ tiên ngày trước, mà con cháu ngày sau lại là những kẻ
kế thừa của chúng ta ngày nay, hay là sự trạng xã hội ngày nay là kết quả
của sự trạng xã hội ngày trước, mà sự trạng xã hội ngày sau lại là kết quả
của sự trạng hội ngày nay. Vậy thì nghiên cứu lịch sử để biết sự trạng
ngày trước, chúng ta có thể nhờ đó mà hiểu biết thêm sự trạng ngày nay.
Đã hiểu rõ được sự trạng ngày trước và sự trạng ngày nay. Chúng ta có
thể hiểu được cái xu thế tiến triển của xã hội, nhân đó mà suy đoán được
con đường tiến triển của xã hội sau này. Nhận thấy mối liên quan mật
thiết của loài người trải qua các thời đại từ thời viễn cổ cho đến tương lai
xa xôi, chúng ta có thể nhân đó mà có một nhân sinh quan chắc chắn, có
một thái độ sinh hoạt vững vàng, có một phương pháp hoạt động thích
đáng, xem thế thì thấy sử học là một môn học vấn có công dụng giao hoà
rất mạnh nó không những bồi bổ tri thức của người ta, mà còn rèn luyện
được tâm tính chỉ dẫn được hành động của người ta nữa. Bởi thế chúng ta
không lấy làm lạ mà thấy rằng các bực vĩ nhân cải tạo thế giới, từ Khổng
tử cho đến Các-Mác, đều rất chú trọng sử học. Các nhà cách mạng đương


2
tranh đấu để cải tạo thế giới ngày nay cũng xem sử học là một môn học
vấn căn bản.
II. QUAN NIỆM VỀ LỊCH SỬ
Xưa nay, các nhà sử học cũng như người thường không hẳn là đều
đồng ý về đối tượng và công dụng của sử học như chúng tôi đã bảy tỏ ở
trên; Sở dĩ có những ý kiến dị đồng là bởi cái quan niệm lịch sử của người
ta khác nhau. Ở đây chúng tôi xin dẫn ra mấy quan niệm lịch sử trọng yếu
đã làm kim chỉ nam cho các nhà sử học xưa nay.
Khổng tử là nhà sử học đầu tiên của Trung Hoa có thể nói là của Á
Đông, là đại biểu cho cái quan niệm lịch sử duy thiên, cho rằng xã hội
cùng lịch sử là do ý chí hay mệnh lệnh của Trời quyết định Đại biểu cho ý
trí của trời, cho thiên mệnh, mà tổ chức và quản trị việc người là các đấng
thánh vương, là những bậc tài trí phi thường, là nhân cách siêu phàm có
thiên chức phải bắt chước đạo Trời mà làm thành đạo người. Những người
quân chủ “thuận theo đạo Trời thì còn”, tức chính là kẻ vương giả thay
Trời trị người “Trái đạo Trời bị mất”, tức là không xứng làm kẻ thay Trời,
phải nhường chỗ cho kẻ vương giả chân chính.
Quan niệm ấy, trong suốt hơn hai nghìn năm sau Khổng tử, các nhà
sử học Trung Hoa, các nhà sử học Việt Nam cũng vậy, đều theo đúng
hoàn toàn. Theo quan niệm ấy thì đối tượng của sử học chỉ là nghiên cứu
hành động, thi cử của kẻ vương giả, của các bậc vua chúa, cùng các văn
thần võ tướng là những người giúp vủa để trị nước an dân. Chúng ta thấy
rằng từ sách Xuân Thu của Khổng Tử, đến sách Sử ký của Tư Mã Thiên,
cho đến cả bộ Nhị thập tứ sử và các bộ sử biên niên của Trung Quốc, cùng
các bộ sử biên niên của nước ta (Đại Việt sử ký Toàn thư, Khâm định Việt
sử thông giám cương mục), đểu chỉ chép việc của vua chúa và quan liêu;
chứ tình trạng sinh hoạt của nhân dân thì không hề chép đến. Bởi thế
người ta thường nói rằng các sách lịch sử xưa của Trung - Hoa và của
nước ta chỉ là những bản gia phả của các nhà đế vương và quí tộc.

3
Tương tự với quan niệm lịch sử của Khổng Tử ở Á đông, thì có
quan niệm duy thần của các nhà sử học cơ đốc giáo ở Tây-phương mà ta
có thể xem Bossuet là đại biểu. Trong tác phẩm Discours sur I’hisloire
universetle, Bossuel cũng cho rằng lịch sử loài người là do ý chí của
Thượng- đế chỉ huy, các bực vua chúa thần quyền (droit divin) là do
Thượng đế ban quyền cho mà thống trị thiên hạ. Nhưng cái quan niệm
lịch sử phổ thông nhất trong các nhà sử học chuyên môn ở Tây Phương là
cái quan niệm anh hùng tạo thời thế của Thomas Carlyle (một nhà sử học
người Anh, tác phẩm chủ yếu là Les héros et le culte des héros) cho rằng
lịch sử là do những vị anh hùng, những bậc vĩ nhân làm ra. Đối với các
nhà sử học ấy thì sử học chỉ chú trọng về các sự trạng chínhtrị và quân sự
là những công việc của các vĩ nhân anh hùng mà không cần chú ý đến sự
trạng sinh hoạt của dân chúng.
Theo các quan niệm kể trên, thì các công dụng cái mục đích của lịch
sử là ghi chép lại những lời nói, những tư tưởng, những hành động của
các vị đế vương, các nhà quí tộc, các bậc thánh hiền, các bực lương thần
danh tướng truyền lại để làm gương cho đời sau (tức như các sách Thông
giám gương chung) của Trung - Hoa và của nước t, hay như sách Disrours
sur I’hisloire uaiv rselle của Bossuet), để làm những bài học cho các nàh
chính trị và quân sự. Sách của Bossuet viết ra là cốt để dậy cho thái tử cái
nghề làm vua, mà các sách lịch sử của Trung - Hoa và của nước ta xưa thì
chỉ vua quan được dùng, không cho thường dân được học.
Cái quan niệm lịch sử duy thiên hay day thần cùng cái quan niệm
anh hùng tạo thời thế, đều có thể xếp vào một quan niệm chung là quan
niệm lịch sử duy tâm, cho rằng cái động lực của lịch sử là tinh thần, tinh
thần ấy hạơc là ý chí của người, hay là lý tính, hoặc là một cái sức siêu
nhiên gọi là thân hay là trời.
Cực đoan tương đối với quan niệm duy tâm là quan niệm líchử duy
vật, hay là duy vật lịch sử quan, Thuyết duy vật sử quan là thuyết duy vật

biện chứng của Các-Mác áp dụng vào địa hạt lịch sử. Tư tưởng danh chốt
4
của quan niệm ấy là “lịch sử là do người ta tự làm ra”, song khác với quan
niệm duy tâm cho rằng lịch sử là sự nghiệp của các bậc vĩ nhân anh hùng
tự do hành động theo ý chí riêng của mình, quan niệm duy vật cho lịch sử
là sự nghiệp của con người trong tập đoàn, là do điều kiện sinh hoạt trong
tập đoàn hậu định. Các - Mác nói : “Chính con người làm nên lịch sử của
mình, nhưng không phải làm một cách độc đoán mà phải tuỳ thuộc những
điều kiện đã định và thừa hưởng ở quá khư”. Người đồng chí đã giải thích
tư tưởng của Mác một cách xác đáng hơn hết là Ăng - ghen lại nói thêm
rằng: “Người ta tự làm nên lịch sử của mình, vô luận lịch sử ấy đi theo bộ
sậu nào; mỗi người đuổi theo những mục đích riêng, tự ý mình muố, mà
chính kết quả của tất cả các ý muốn ấy tác động theo những phương
hướng khác nhau và ảnh hưởng phức tạp của các ý ấy đối với ngoại giới là
làm thành lịch sử. Như thế thì lịch sử chính là gồm những điều muốn của
riêng mỗi cá nhân, mà ý muốn thì lại do tình cảm hay suy tưởng quy định.
Song những động lực qui định tình cảm hay suy tưởng lại là rất phức
tạp... Người ta lại cón có thể tự hỏi rằng những nguyên nhân lịch sử biến
thành những động lực ấy ở trong đầu óc những con người hoạt động đó là
những gì”. Những nguyên nhân lịch sử ấy, Các-Mắc không tìm nó ở trong
đầu óc, trong tư tưởng, trong ý thức của con người, mà tìm nó ở trong
điều kiện sinh hoạt. Người cho rằngtw tưởng hay ý thức của con người là
do thực tại xã hội của con người qui định, mà thực tại xã hội của con
người lại là do điều kiện sinh hoạt vật chất của con người ở trong xã hội
qui định.
Trong cái hệ thống những điều kiện sinh hoạt vật chất thì sự sản
xuất những của cải vật chất cần thiết cho sự sống của xã hội, hoặc phương
thức sản xuất những của cải ấy là điều kiện chính, là điều kiện quyết định
hình thái xã hội. Phương thức sản xuất là bao gồm cả những lực lượng sản
xuất và những tương quan sản xuất. Lực lượng sản xuất, tức là những

công cụ, những ngườ dùng công cụ cùng lá những kinh nghiệm trong sự
sản xuất lại do điều kiện kỹ thuật qui định. Tương quan sản xuất là mối
5
liên lạc, mối giao thiệp giữa những người tham gia vào cuộc sản xuất,
những tương quan ấy có thể là sự hợp tác bình đẳng, hoặc là sự áp chế
bóc lột.
Cái phương thức sản xuất gồm những lực lượng sản xuất và những
tương quan sản xuất, Các Mác gọi là cơ sở vật chất, là hạ tầng cơ cấu của
xã hội.
Ở trên cái hạ tầng cơ cấu ấy do những điều kiện sinh hoạt vật chất
quy định, người ta có những ý thức tương đương; do những ý thức ấy
người ta tạo ra một cơ cấu xã hội chínhtrị và ở trên hết cả, một cơ cấu ý
thức hệ gồm những hình thái ý thức như tôn giáo, đạo đức, pháp lý, triết
học, khoa học, văn chương, nghệ thuật v.v... Cơ cấu xã hội chính trị và cơ
cấu ý thức hệ do những tư tưởng, những ý thức của người ta gây nên, Các
Mác gọi là thượng tầng kiến trúc của xã hội.
Sử học không phải là chỉ tìm hết lịch trình cấu tạo của xã hội, mà
chính phải tìm biết con đường tiến hoá của xã hội, nghĩa là tìm xem xã
hội do hình thái này tiến sang hình thái khác thế nào. Do sự phát triển
của sức sinh hoạt của người, hệ thống kỹ thuật phát triển luôn luôn, khiến
lực lượng sản xuất mỗi ngày càng thêm mở rộng. Khi những lực lượng
sản xuất đã phát triển đến một trình độ tương đương thì những tương quan
sản xuất xây dựng ở trên lực lượng sản xuất cũ, tức trên phương thức sản
xuất cũ, bị đặt vào cái thế mâu thuẫn đốivới những lực lượng sản xuất mới
sinh. Giữa lực lượng sản xuất và tương quan sản xuất đã mất thế thăng
bằng, tình thế ấy không thể tồn tại mãi được. Chóng hay chầy, thế mâu
thuẫn ấy phải được giải quyết, thế thăng bằng phải được hồi phục. Những
tương quan sản xuất cũ phải nhường chỗ cho những tương quan sản xuất
mới. Ví như ở khoảng thế kỷ XVII, XVIII, tương quan sản xuất của phong
kiến chế độ đã bị xô đổ mà thay thế bằng tương quan sản xuất theo tư bản

chế độ. Song sự thay đổi của những tương quan sản xuất ấy xẩy ra thế
nào?
6
Những tương quan ấy đặt những người ở trong xã hội vào những thứ
bực khác nhau, ví dụ có những người có quyền sở hữu đối với những
phương tiện sản xuất không phải làm việc sản xuất mà được hưởng những
sở đắc của sự sản xuất, tức là những người bóc lột và thống trị, lại có
những người không có gì cả ngoài sức lao động của mình, chính mình
phải làm việc sản xuất, mà bao nhiêu sở đắc thì cung cho những người
khác hưởng, mình chỉ được hưởng một phần rất nhỏ để có thể sống vật vờ
thôi, tức là lớp người bị bóc lột áp bức. Những tương quan kinh tế cũ có
lợi cho lớp người áp bức cũ nên họ lợi dụng tất cả cái kho tàng đồ sộ của
cơ cấu xã hội chínhtrị và cơ cấu ýthức hệ cũ mà duy trì lấy. Song cái lớp
người bị áp bức nhận thấy ở trong sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cái
ý nghĩa giải thoát cho mình, nên họ lại tạo ra những tư tưởng mới, những
ý thức hệ mới để chủ trương lật đổ những tương quan cũ. Tất cả những
hình thái ý thức hệ có ở một xã hội nào trong một thời gian nào, đại khái
đều là hoặc thuộc về loại ý thức hệ thống trị của giai cấp trên dùng để
duy trì địa vị của mình, hoặc là thuộc về loại ýthức hệ cách mệnh của giai
cấp dưới dùng để dành lấy địa vị cho mình. Cái thế đối lập, cái thế mâu
thuẫn giữa hai lớp người trong lịch trình tiến triển của xã hội, Các - Mác
gọi là giai cấp tranh đấu, là cái hiện tượng chủ yếu thúc đẩy cho xã hội
tiến lên cho lịch sử đi tới, tức là nguyên động lực của lịch sử.
Duy vật sử quan chỉ để ý đến sự hoạt động của những tập đoàn, của
những giai cấp, nhất là của những giai cấp bị trị, của dân chúng là vai chủ
động trong vận động lịch sử, mà không để ý dến hoạt động của cá nhân
hoặc có để ý đến hoạt động của những bực vĩ nhân xuất chúng thì cũng
xem họ là những nhân vật tiêu biểu cho giai cấp hay cho dân chúng, chỉ
làm những công việc mà giai cấp hay dân chúng uỷ cho mà thôi.
Theo sự trình bầy sơ lược những qui luật chi phối lịch trình cấu tạo

và lịch trình tiến triển của xã hội loài người như thế, chúng ta thấy rõ
rằng. Các - Mác không hề phủ nhận mà lại nêu cao vai trò chủ động của
con người ở trong lịch sử, nhất là củấcc giai cấp và của dân chúng. Các -
7
Mác tuy là nhấn mạnh vào ảnh hưởng quyết định của các điều kiện kinh
tế, nhưng không hề phủ nhận ảnh hưởng của các yếu tố ý thức hệ. Sở dĩ
người ta thường ngộ nhận mà gán cho Các - Mác cái tư tưởng máy móc
cho rằng con người và những ý thức hệ do đầu óc của người tạo ra là hoàn
toàn thụ động theo các điều kiện sinh hoạt vật chất, là vì Các - Mác và
Ăng - Ghen, đương khi phải bài xích cái tư tưởng sùng bái vĩ nhân ở
đương thời, đã phải chuyên chú nêu cao cái vai trò chủ động của nền tảng
kinh tế mà không có thì giờ và cơ hội để nói kỹ đến công dụng của ý thức
hệ. Chính vì trong các thư tịch cổ điển của học thuyết Các - Mác, dịch ra
pháp văn, người ta thấy chữ reftets hay illusions thường được dùng để chỉ
các hình thái ý thức hệ, nên người ta lại càng tưởng rằng những cái
“bóng” ấy tất không cso thể có tác động tích cực gì được. song ở nhiều
nơi, Các Mác, nhất là Ăng - ghen, đã nêu ra cái qui luật hỗ trương tác
động (action réceproque): giữa các yếu tố kinh tế và các yếu tố ý thức hệ,
khi nào cũng có ảnh hưởng đi lại với nhau mật thiết. Ở vãn thời, Ăng -
ghen lại nhiều lần cắt nghĩa vì sao Các - Mác và người đã thiên trọng quá
về các yếu tố kinh tế, và đã đính chính lại cho người ta khỏi hiểu lầm.
Người nói rằng: “Xét đến cùng nhân tố quyết định trong lịch sử là sự sản
xuất. Mác và tôi không nói gì khác thế. Nếu có kẻ vặn quanh ý kiến của
chúng tôi và cho rằng chỉ có kinh tế là nhân tố quyết định thì họ đã biến
câu nói của chúng tôi thành trống rỗng, trừu tượng và vô nghĩa... Tình
trạng kinhtế vốn là nền tảng... Nhưng các bộ phận của thượng tầng kiến
trúc... cũng có tác động đối với bộ điệu của những cuộc tranh đấu lịch sử,
và trong nhiều trường hợp lại qui định cái hình thức của những cuộc tranh
đấu âý một cách quan trọng hơn cả. Các yếu tố ấy vốn tác động qua lại lẫn
nhau, và ở khoảng giữa các yếu tố ấy thì trốt cuộc vận động kinh tế tự

vạch lấy con đường của mình như một cái gì tất yếu lách quavô số những
việc ngẫu nhiên”. Câu ấy chứng tỏ rằng Ăng - ghen, phụ diễn tư tưởng
của Các Mác thừa nhận minh bạch cái công dụng thự tế của ý trhức hệ,
điều kiện kinh tế hoạt động ở trong khoảng các yếu tố ấy chỉ là khiến cho
8
chúng có một tính chất tất nhiên hay nói một cách khác chỉ là đặt cái giới
hạn căn bản, cái khuôn khổ mà chúng không có thể vượt ra ngoài để lêu
lổng giữa khoảng trống được.
Sau khi đã nhận rõ tư tưởng chính xác của các nhà sáng lập ra duy
vật sử quan như thế, chúng ta có thể tóm tắt mà nói rằng sử học theo quan
niệm mới, so với sử học theo quan niệm cũ, có những đặc sắc sau này: Sử
học mới nghiên cứu một cách rộng rãi và xâu xa tất cả những lịch trình
lịch sử, từ các hình thái kinh tế và xã hội cho đến các hình thái ý thức hệ,
và khảo xét những ảnh hưởng đi lại của các yếu tố ấy, để tìm ra ảnh
hưởng của yếu tố kinh tế đối với các yếu tố tinh thần, và ảnh hưởng trở lại
của các yếu tố tinh thần đối với cơ sở kinh tế, chứ không phải chỉ là chú
trọng vào những sự tình chínhtrị và quân sự thội; sử học mới để ý đặc biệt
đến sự sinh hoạt và hành động của dân chúng là vai trò chủ động của lịch
sử, mà không để ý đến tư cách và hành động của cá nhân, dù là những vị
đế vương quý tộc hay những vị hào kiệt nah hùng; sử học mới không tìm
những sự tình lịch sử là xẩy ra và diễn tiến một cách ngẫu nhiên, mà cố
tìm ra những quy luật khách quan chi phối cuộc diễn tiến của những sự
tính ấy. Khi người ta đã nắm được những quy luật ấy thì người ta có thể
áp dụng những qui luật ấy vào sự hành động của mình để hướng dẫn sự
liễn tiến của xã hội cho đúng đường, tức là để cải tạo xã hội.
III. PHƯƠNG PHÁP CỦA SỰ HỌC
Các nhà sử học, cũng như các nhà học giả khác, đều thừa nhận rằng
sử học ngày nay đã là một khoa học chứ không phải là một nghệ thuật như
xưa nữa. Song phần nhiều các nhà sử học, nhất là các nhà giáo sư sử học
ở các nước tư bản, lại cho rằng sử học vẫn còn là một khoa học có giới

hạn rất chật hẹp. Nhiệm vụ của nhà sử học chỉ là tìm tòi, thu thập rất
nhiều tài liệu, xét đoán những tài liệu ấy rất kỹ càng để gắng tìm lại sự
thật ở quá khứ, còn sự đối với sự lýgiải thuyết minh những sự thực ấy thì
phải hết sức thận tọng, chứ không có thể suy luận khái quát về qui luật là
việc thuộc về lịch sử - triết học. Ở trên cái quan niệm về sử học như thế,
9

×