1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của hoạt động
du lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
quốc gia và kinh tế du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới
và là nhu cầu cần thiết cho mọi người.
Nghị định 45/CP của chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành du
lịch đă coi du lịch là ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -
xă hội của đất nước.
Sự đổi mới do Đảng ta lănh đạo và khởi xướng đă thu được những thành tựu
bước đầu quan trọng trên các mặt kinh tế - xã hội - ngoại giao. Nhận thức về vai trò,
vị trí, hiệu quả nhiều mặt của du lịch trong nền kinh tế và hoạt động xã hội, ngành
kinh doanh du lịch đă cố gắng xây dựng lực lượng, phát triển cơ sở vật chất kỹ
thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng qui mô hoạt động nhằm thoả măn nhu
cầu của khách du lịch, với mục đích đem lại lợi nhuận cao, đồng thời hỗ trợ các
ngành kinh tế khác cùng phát triển mạnh lên.
Tuy nhiên trong kinh doanh du lịch còn có nhiều tồn tại cần được khắc phục
như tình trạng thất thoát, lăng phí vật liệu chế biến, tiền vốn…Điều này đòi hỏi cần
phải tăng cường quản lý chặt chẽ trong ngành du lịch mà đặc biệt là chi phí sản xuất
và tính giá thành. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là khâu quan trọng
trong toàn bộ công tác kế toán của các doanh nghiệp sản xuất nói chung, các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch nói riêng. Chi phí sản xuất là những chi phí về sử
dụng tài sản, vật liệu, lao động trong quá trình sản xuất, là cơ sở để cấu tạo nên giá
thành sản phẩm. Vì vậy việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả những loại tài
sản, nguyên vật liệu, lao động, tiền vốn đi đôi với việc phấn đấu hạ giá thành sản
phẩm phải chăng là một nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu
quản lý kinh tế của doanh nghiệp mà còn là một trong những điều kiện kiên quyết
để tăng tích luỹ xă hội, tăng tốc độ quy mô phát triển sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề
tài “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ du lịch tại Công ty cổ phần
tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh” làm đề tài nghiên cứu.
2
2. Tổng quan nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong
các doanh nghiệp
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm giữ một vai trò rất
quan trọng trong công tác kế toán của doanh nghiệp, do đó đã có nhiều công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả ở những góc độ khác nhau, trong những bối cảnh khác
nhau về đề tài này. Các nghiên cứu:
- Luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu tổ chức kế toán quản trị chi phí và giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam”, tác giả Đỗ Thị Mai Thơm
(Năm 2012) - Trường Đại học Hằng Hải Việt Nam.
Trong luận án này, tác giả đã tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để
xây dựng một mô hình tổ chức công tác kế toán quản trị chi phí và tính giá thành
vận tải biển cho các DNVTB Việt Nam. Luận án đã có một số điểm mới sau:
+ Phân tích, nhận diện chi phí vận tải theo góc độ của kế toán quản trị, ứng
dụng phương pháp xác định chi phí hỗn hợp vào công tác dự toán chi phí chuyến đi
cho tàu.
+ Xây dựng hệ thống chứng từ, tài khoản kế toán chi phí chi tiết, sổ kế toán
quản trị chi phí trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với hệ thống chứng từ, tài khoản kế toán
tổng hợp, sổ kế toán tài chính hiện hành.
- Luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản
phẩm may mặc sẵn trong điều kiện hiện nay”, tác giả Hoàng Đức Long (Năm 2000)
- Trường Đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội. Luận án này đã khái quát những cơ
sở lý luận của kế toán chi phí và giá thành sản phẩm. Phản ánh được thực trạng
công tác kế toán và đưa ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm may mặc sẵn tại các doanh nghiệp may. Một điểm
mới trong luận án này, tác giả đã đưa ra được giải pháp xây dựng mô hình kế toán
quản trị trong các doanh nghiệp may mặc, tuy nhiên tác giả nên tách biệt giữa
KTTC và KTQT trong phần cơ sở lý luận sẽ làm cho luận án cuốn hút hơn.
- Luận văn thạc sĩ: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng Hà Tây”, Nguyễn Thị Ánh
Nguyệt (Năm 2012) - Trường Học viện tài chính. Đề tài đã trình bày khái quát
những lý luận cơ bản của kế toán chi phí và giá thành trên phương diện kế toán tài
chính và kế toán quản trị, phân tích thực trạng kế toán, đánh giá được những hạn
chế và nguyên nhân khắc phục chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công
ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng Hà Tây. Trên cơ sở đó đề xuất những định
3
hướng hoàn thiện công tác kế toán của công ty trên phương diện KTTC và KTQT.
Một điểm mới của đề tài này là ứng dụng kế toán quản trị trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, cụ thể như sau:
+ Tổ chức vận dụng phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận
trong việc ra quyết định kinh doanh
+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán đảm bảo thực hiện kế toán quản trị
+ Hoàn thiện việc lập dự toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
+ Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ phục vụ cho việc quản trị nói chung và
quản trị chi phí sản xuất và giá thành nói riêng.
- Luận văn thạc sĩ: “Hoàn thịên kế toán chi phí kinh doanh và tính giá thành
sản phẩm dịch vụ buồng ngủ ở các khách sạn du lịch tại Tổng cục du lịch Việt
Nam”, Nguyễn Thị Hương, năm 2005. Đề tài đã trình bày một số vấn đề lý luận cơ
bản về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp, thực trạng công
tác kế toán, đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế, đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí kinh doanh và tính giá thành sản phẩm dịch
vụ buồng ngủ trong các khách sạn du lịch thuộc Tổng cục du lịch Việt Nam. Tuy
nhiên, luận văn chỉ đi khai thác và phân tích những khía cạnh KTTC, chưa thấy đề
cập KTQT trong hoạt động kinh doanh.
- Bài “Kế toán quản trị chi phí với hoạt động kinh doanh du lịch”, Nguyễn Đăng
Quốc Hưng (Năm 2011) - Trường trung học kinh tế kỹ thuật Đức Minh, Đà Nẵng.
Trong bài viết này, tác giả cũng đã trình bày được những vấn đề sau:
+ Đặc điểm kế toán quản trị chi phí trong hoạt động kinh doanh du lịch
+ Nội dung kế toán quản trị chi phí trong các đơn vị kinh doanh du lịch
+ Những tồn tại cần khắc phục trong kế toán quản trị chi phí ở các đơn vị kinh
doanh du lịch.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, luận văn tập trung phân tích và giải quyết các
vấn đề sau:
Thứ nhất, lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch là gì?
Thứ hai, thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ ăn uống tại
Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh như thế nào?
Thứ ba, những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục về kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây
dựng và du lịch Bình Minh.
4
Thứ tư, cần áp dụng những giải pháp nào để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành dịch vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch
Bình Minh cùng điều kiện thực hiện các giải pháp đó.
Trên cơ sở những vấn đề đã tập trung phân tích và giải quyết trong luận văn, tác
giả đã đặt ra vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu đó là: Xây dựng mô hình công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ du lịch nói chung cho những doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
một cách hiệu quả nhất, đáp ứng yêu cầu công việc tốt nhất.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Về mặt lý luận: Tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa, làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch.
Về mặt thực tiễn: Tìm hiểu, phân tích, đánh giá đúng thực trạng kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành dịch vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng
và du lịch Bình Minh, từ đó chỉ rõ ưu điểm, đưa ra những vấn đề tồn tại mà doanh
nghiệp cần khắc phục.
Trên cơ sở những vấn đề tồn tại và tìm hiểu nguyên nhân, đề tài đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ ăn
uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những lý luận chung về kế
toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch và thực trạng kế toán
chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm dịch vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập
đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào nghiên cứu lý luận và thực trạng kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm dịch vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng
và du lịch Bình Minh dưới góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị. Qua đó đưa
ra các kết luận và phát hiện các vấn đề tồn tại cần khắc phục nhằm hoàn thiện hơn
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ ăn uống tại Công ty.
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở số liệu kế toán tài chính năm 2011 đến năm 2012
tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đi sâu vào việc thực hiện nghiên cứu đề tài thì việc xác định các phương
pháp nghiên cứu sẽ là chìa khóa quan trọng để tác giả có thể hoàn thành mục tiêu
đề tài. Trong luận văn này tác giả đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu cơ bản
đó là phương pháp thu nhận dữ liệu và phương pháp phân tích, xử lý thông tin cụ
thể như sau:
Phương pháp thu nhận dữ liệu: Để thu thập được dữ liệu, tác giả đã sử dụng kết
hợp đồng thời một số phương pháp như: Phương pháp phỏng vấn, phương pháp
quan sát, phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn:
Được thực hiện thông qua việc tác giả chủ động gặp gỡ trao đổi với nhà
quản lý, đại diện các bộ phận trong Công ty nhằm mục đích thu thập những thông
tin mà phương pháp điều tra không thể có được về công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành. Đối tượng được tác giả tiến hành phỏng vấn là: Giám đốc, các
phó giám đốc, quản đốc bộ phận, kế toán trưởng và một số người có liên quan tới
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành, đề nghị họ mô tả lại công việc
hoặc thu thập ý kiến cá nhân để đưa ra các biện pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành dịch vụ ăn uống tại công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du
lịch Bình Minh. Tác giả tiến hành phỏng vấn gặp trực tiếp người được phỏng vấn và
sử dụng phương tiện lưu trữ thông tin như giấy bút ghi chép, máy ghi âm.
- Phương pháp quan sát:
Tác giả trực tiếp quan sát cách thức làm việc tại các bộ phận của công
ty như: Quan sát công việc thủ kho ở bộ phận kho để theo dõi về hoạt động
nhập, xuất vật liệu trong kho. Quan sát công việc của nhân viên bộ phận kế
toán như: Kế toán tiền lương, kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, kế
toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm…về quá trình luân chuyển và
tập hợp chứng từ, các loại chứng từ, báo cáo, sổ kế toán, quan sát quy trình
nhập dữ liệu vào máy và quá trình xử lý kế toán. Quan sát quá trình làm việc
của nhân viên bộ phận bếp để biết được quy trình hoạt động kinh doanh của bộ
phận. Sau đó ghi lại các thông tin đã thu thập trên vào giấy, đối với thông tin
6
chi tiết như số lượng lao động, trình độ lao động, các loại tài sản, vật tư, công
cụ dụng cụ chi tiết sẽ thực hiện thu thập dữ liệu bằng file word, exel mà phòng
kế toán cung cấp.
Thông qua phương pháp này tác giả có thể thấy được mô hình tổ chức hoạt
động kinh doanh, môi trường làm việc và tác phong giải quyết các công việc của
các bộ phận cũng như có được các thông tin dẫn liệu cơ bản về công tác kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành trong công ty.
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu giúp người đọc hiểu được lịch sử của vấn đề nghiên
cứu, thông qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu của các tác giả ở trong
nước và ngoài nước về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch.
Từ kết quả phân tích tư liệu, tác giả đã hệ thống hoá được những vấn đề nghiên
cứu trọng tâm của đề tài, xác định được những lý luận cơ bản làm cơ cở cho việc
điều tra thực tiễn.
Giai đoạn đầu tiên của phương pháp nghiên cứu tài liệu là giai đoạn chuẩn bị
và xác định tài liệu nghiên cứu. Đó là các tài liệu liên quan đến kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ ăn uống của Công ty, chế độ kế toán doanh
nghiệp và các chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực kế toán quốc tế có liên
quan; các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề này Quá trình
này nhằm thu thập kiến thức chuyên môn hình thành nên cơ sở lý luận vững chắc về
vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, xử lý thông tin:
Toàn bộ thông tin sau khi được tác giả thu nhận bằng các phương pháp khác
nhau như thông tin trên sách báo, các tạp chí webside, chế độ chính sách, luật hay
các thông tin thu nhận được qua các cuộc phỏng vấn, qua quan sát được tác giả
phân loại lại một cách khoa học, sau đó phân tích để xem xét sự phù hợp của chế độ
kế toán Việt Nam với thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ
ăn uống tại Công ty, diễn đạt kết quả và đưa ra kết luận. Từ đó làm cơ sở cho các
kiến nghị, đề xuất của luận văn tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch
Bình Minh.
7
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh mục
sơ đồ hình vẽ, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được tác giả
chia thành ba chương như sau:
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ ăn
uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch
vụ ăn uống tại Công ty cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh.
8
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH
1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tác động đến kế toán chi
phí và giá thành sản phẩm.
1.1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú,
ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang hiệu
quả cao, bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau, đa dạng phong phú về mặt hoạt
động. Tuy nhiên, các hoạt động đó có thể phân về các loại sau:
- Hoạt động mang tính dịch vụ đơn thuần: Thuộc loại này bao gồm các hoạt
động như hướng dẫn du lịch, vận tải hàng hóa, kinh doanh khách sạn, nhà hàng,
kinh doanh các dịch vụ vui chơi, giải trí…
- Hoạt động mang tính kinh doanh hàng hóa: Kinh doanh hàng hóa lưu niệm,
kinh doanh các vật phẩm phục vụ du khách.
- Hoạt động mang tính sản xuất: Sản xuất hàng lưu niệm, sản xuất bánh kẹo,
đồ uống, đồ hộp hoặc chế biến các món ăn…
Ngành kinh doanh dịch vụ du lịch nói chung là một ngành công nghiệp
không khói. Hiện nay, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu của con người
trong đời sống công nghiệp hiện đại. Trong xu thế quốc tế toàn cầu hóa thì ngành
du lịch giữ vai trò đặc biệt quan trọng cho thu nhập kinh tế quốc dân. Đặc biệt, xu
thế hiện nay là xu thế mở cửa về kinh tế ở trong nước, trong khu vực và trên toàn
thế giới. Ngành du lịch cũng theo đó đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu
vô hình và xuất khẩu tại chỗ, thu nhiều nguồn ngoại tệ về cho đất nước, giải quyết
nạn thất nghiệp có xu hướng gia tăng, khai thác các nguồn lao động dư thừa, thúc
đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Thông qua phát triển du lịch, thế giới hiểu
hơn về đất nước và con người. Phát triển trên cơ sở khai thác có hiệu quả về lợi thế
tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong
nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
9
Kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển đã trở thành một lĩnh vực giữ vị trí ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia. Với nước ta, phát triển lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ du lịch càng trở nên cấp thiết và hiện Chính phủ cũng có
nhiều chính sách khuyến khích đầu tư phát triển lĩnh vực này. Bên cạnh đó, mức
sống của người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu của con người về chất lượng
dịch vụ càng khắt khe hơn. Do đó, kinh doanh dịch vụ du lịch cũng cần phải được
cải thiện để phù hợp với sự phát triển của xã hội và xác định cho mình một hướng
phát triển hiện đại, chất lượng cao, phục vụ tốt nhu cầu của du khách.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch
Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh du lịch thường lớn vì đặc điểm của
ngành này yêu cầu chất lượng phục vụ cao, thời gian thu hồi vốn nhanh, tỷ lệ lợi
nhuận trên vốn đầu tư lớn, là ngành kinh tế có hiệu quả cao. Đối tượng phục vụ của
ngành du lịch luôn di động và phức tạp
Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm nhiều ngành hoạt động
khác nhau như: Kinh doanh hướng dẫn du lịch, kinh doanh hàng hoá, kinh doanh
vận tải, kinh doanh ăn uống, khách sạn…Các hoạt động này có quy trình công nghệ
khác nhau, chi phí kinh doanh cũng không giống nhau.
Sản phẩm du lịch phần lớn là dịch vụ, không mang hình thái vật chất cụ thể
như hàng hóa thông dụng khác, quá trình sản xuất ra sản phẩm đồng thời là quá
trình tiêu thụ, nghĩa là các dịch vụ được thực hiện trực tiếp với khách hàng như
hướng dẫn viên du lịch, vận chuyển hành khách du lịch, kinh doanh buồng ngủ,
kinh doanh dịch vụ ăn uống.
Hoạt động kinh doanh du lịch vừa mang tính sản xuất, vừa mang đặc điểm
kinh doanh dịch vụ và mang tính chất văn hóa xã hội. Trong đó, mặt sản xuất kinh
doanh dịch vụ là cơ bản và là một ngành đặc biệt mang tính chất pha trộn đặc điểm
của nhiều ngành. Các hoạt động khác nhau đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức
các đơn vị, bộ phận thực hiện từng loại hoạt động với các yếu tố vật chất đặc điểm
kỹ thuật khác nhau nhằm phục vụ đầy đủ nhu cầu của khách du lịch trong thời gian
lưu trú tại địa điểm du lịch. Điều này đã dẫn đến nhiều quan hệ chi phí phát sinh về
cung cấp dịch vụ lẫn nhau.
Hoạt động kinh doanh mang tính thời vụ rõ rệt, phụ thuộc vào nhiều điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, điều kiện di sản lịch sử văn hóa, phong
cảnh độc đáo, hấp dẫn.
10
Tính pha trộn phức tạp trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch dẫn đến
sản phẩm du lịch biểu hiện rất đa dạng. Chi phí cấu thành trong sản phẩm du lịch
cũng rất phức tạp, điều này không những gây khó khăn cho việc xác định nội dung
phạm vi của các khoản mục chi phí trong giá thành sảm phẩm, mà trong nhiều
trường hợp còn rất khó khăn trong việc phân định biến phí và định phí, cũng như
việc tổ chức kế toán quản trị chi phí.
Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ du lịch diễn ra cùng lúc nên
sản phẩm du lịch về cơ bản là không thể lưu kho được nên hầu như không phát sinh
chi phí tồn kho thành phẩm. Sản phẩm du lịch có chu kỳ sản xuất rất ngắn và quá
trình tiêu thụ đồng thời nên không xuất hiện sản phẩm dở dang. Vì vậy, tổng giá
thành các sản phẩm dịch vụ du lịch bằng với tổng chi phí phát sinh liên quan đến
từng hoạt động.
Từ các đặc điểm nêu trên ta thấy trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi một
số lượng lớn vật tư hàng hóa đa dạng về dịch vụ. Do vậy, việc phát triển du lịch
chẳng những có ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo ra công ăn việc làm cho nhân dân địa
phương, tăng thu nhập quốc dân mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội là thay
đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở các vùng du lịch. Vì vậy, nội dung hạch toán chủ yếu
của đơn vị du lịch là hạch toán nghiệp vụ kinh doanh hàng hóa và cung cấp dịch vụ
cho khách du lịch. Thu nhập chủ yếu của các đơn vị du lịch là số chênh lệch giữa
tiền thu của khách du lịch với số chi phí đã thực hiện cho các dạng hoạt động kinh
doanh hàng hóa. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ là chỉ tính được giá
thành thực tế của khối lượng dịch vụ đã thực hiện, tức là khối lượng dịch vụ đã
được coi là tiêu thụ. Kỳ tính giá thành là hàng tháng hoặc hàng quý.
1.2. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch
1.2.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ du lịch
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là quá trình tiêu
dùng các yếu tố sản xuất kinh doanh (tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức
lao động) để tạo ra các sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu
cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Trong quá trình này, một mặt doanh nghiệp
tiêu dùng một bộ phận nguồn lực (làm phát sinh chi phí), mặt khác doanh nghiệp
tạo ra nguồn lực mới dưới dạng sản phẩm, công việc, lao vụ. Khái niệm chi phí
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa đơn giản nhất chi phí được sử
11
dụng để phản ánh giá trị của các nguồn lực đã hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm hoặc dịch vụ nào đó.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 “Chi phí là tổng giá trị các khoản
làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các
khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở
hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”. Như vậy, chi
phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được kế toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ,
tài liệu, bằng chứng chứng minh việc phát sinh của chúng. Định nghĩa này phù hợp
khi đứng trên góc độ của đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính, chủ yếu là
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
Như vậy, chi phí sản xuất dịch vụ du lịch là toàn bộ các hao phí về lao động
sống và lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp chi ra trong
quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ du lịch biểu hiện bằng thước đo
tiền tệ, được tính cho một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Trên góc độ của kế toán tài chính, chi phí được nhìn nhận như những khoản
phí tổn đã phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các chi phí
phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh
nghiệp và các chi phí khác. Những chi phí này phát sinh dưới dạng tiền, các khoản
tương đương tiền, hàng tồn kho, khấu hao máy móc, thiết bị, được kế toán ghi nhận
trên cơ sở chứng từ, tài liệu bằng chứng chứng minh việc phát sinh của chúng. Ví
dụ, khi xuất kho vật liệu dùng vào sản xuất kinh doanh, tạo ra chi phí gây ra sự
giảm đi của giá trị hàng tồn kho, gắn liền với sản xuất kinh doanh và được chứng
minh bằng chứng từ là phiếu xuất kho vật tư.
Trên góc độ của kế toán quản trị: Mục đích của kế toán quản trị chi phí là cung
cấp thông tin thích hợp về chi phí, kịp thời cho việc ra quyết định của các nhà quản
trị doanh nghiệp. Vì vậy, đối với kế toán quản trị chi phí không đơn thuần nhận
thức chi phí như kế toán tài chính, mà chi phí còn được nhận thức theo cả khía cạnh
nhận dạng thông tin để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Vì vậy, chi phí
có thể là phí tổn thực tế đã chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định và cũng có thể là chi phí
ước tính khi thực hiện dự án hay giá trị lợi ích mất đi khi lựa chọn phương án, hoạt
12
động này mà bỏ qua cơ hội kinh doanh khác. Khi đó, trong kế toán quản trị chi phí
lại cần chú ý đến việc nhận diện chi phí phục vụ cho việc so sánh, lựa chọn phương
án tối ưu trong từng tình huống ra quyết định kinh doanh cụ thể, mà ít chú ý hơn
vào chứng minh chi phí phát sinh bằng các chứng từ kế toán.
Bản chất kinh tế của chi phí được thể hiện ở các điểm sau:
Nội dung của chi phí có thể biểu hiện bằng công thức: C + V +M1
Trong đó: C là hao phí lao động vật hóa – giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao như
khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ.
V là hao phí lao động sống như chi phí về tiền lương (tiền công) phải trả cho
người lao động tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh
M1 là một phần giá trị mới sáng tạo ra như các khoản trích theo tiền lương:
BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN; các khoản thuế có tính chất chi phí như thuế tài
nguyên, thuế môn bài, thuế nhà đất, chi phí lãi vay.
- Các chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong một
khoảng thời gian xác định (tháng, quý, năm)
- Xét ở góc độ doanh nghiệp, chi phí luôn có tính cá biệt, nó bao gồm tất cả các
khoản chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và hoạt động
- Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
+ Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong một thời gian nhất định
+ Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền công của một đơn vị lao động đã
hao phí
Không ít các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh còn nhầm lẫn
giữa chi phí và chi tiêu. Vậy chi phí khác chi tiêu như thế nào?
Chi tiêu của doanh nghiệp là sự chi ra, sự giảm đi đơn thuần của tài sản bằng
tiền trong doanh nghiệp, không kể các khoản chi tiêu đó dùng vào việc gì, dùng như
thế nào. Chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm: Chi cho quá trình mua hàng
(chi mua sắm vật tư, hàng hóa…), chi cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho
sản xuất chế tạo sản phẩm), chi cho quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa (chi vận
chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…), chi cho hoạt động quản lý và cho các hoạt động khác
của doanh nghiệp.
Còn chi phí chỉ bao gồm những hao phí về tài sản và lao động có liên quan
đến việc tạo ra doanh thu và thu nhập để hình thành lợi nhuận của kỳ hạch toán chứ
không phải mọi khoản chi trong kỳ
13
Giữa chi tiêu và chi phí có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở
phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có phát sinh chi phí. Nhưng chi tiêu
và chi phí là hai khái niệm khác nhau. Giữa chi tiêu và chi phí của doanh nghiệp
trong cùng một thời kỳ có sự khác nhau về lượng và về thời gian
*) Sự khác nhau về lượng: Chi phí của doanh nghiệp không bao gồm các khoản chi
tiêu có đặc điểm sau:
- Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản bằng tiền nhưng làm tăng tài sản khác trong
doanh nghiệp (Ví dụ: Dùng tiền mặt, TGNH mua hàng hóa, công cụ dụng cụ…)
- Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản nhưng đồng thời cũng làm giảm một khoản nợ
phải trả của doanh nghiệp (ví dụ: Dùng tiền để nộp thuế, trả nợ người bán, trả lương
cho nhân viên…)
Sự khác biệt này sẽ làm tổng chi tiêu và tổng chi phí của doanh nghiệp trong
một kỳ không bằng nhau.
*) Sự khác nhau về thời gian: Do có sự không phù hợp về thời gian phát sinh các
khoản chi tiêu và thời gian phát huy tác dụng của nó đối với thu nhập của doanh nghiệp
- Có những khoản chi tiêu ở kỳ này nhưng còn được chờ để phân bổ vào chi phí của
kỳ sau (chi phí trả trước)
- Có những khoản chưa chi tiêu ở kỳ này (sẽ chi ở kỳ sau) nhưng đã được tính trước
vào chi phí của kỳ này (chi phí phải trả)
Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí của một kỳ trong doanh nghiệp
là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại
tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh cũng như yêu cầu của hạch toán.
Tại các doanh nghiệp, chi phí bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế, công
dụng khác nhau và yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Việc quản lý
chi phí không chỉ căn cứ vào số liệu tổng chi phí mà phải theo dõi, kiểm soát dựa
vào số liệu của từng loại chi phí. Bởi vậy, muốn quản lý tốt chi phí tất yếu phải
phân loại chi phí
1.2.1.1. Phân loại chi phí sản xuất dịch vụ du lịch dưới góc độ kế toán tài chính
Theo quan điểm kế toán tài chính thì chi phí được nhìn nhận như những khoản
phí tổn phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một sản
phẩm, lao vụ dịch vụ nhất định. Nó được xác định bằng một lượng tiền chi ra, một
mức giảm sút giá trị tài sản, một khoản phí tổn làm giảm vốn chủ sở hữu của doanh
14
nghiệp. Đặc biệt nó phải được xác định trên cơ sở các chứng từ, tài liệu chắc chắn.
Trong dịch vụ du lịch được tiến hành theo nhiều tiêu thức khác nhau:
* Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí.
* Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí.
* Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí và đối tượng chịu
chi phí.
a. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Đây là cách phân loại chi phí mà các chi phí có cùng nội dung bản chất kinh tế
thì được xếp chung vào một yếu tố, một nhóm, chúng không phân biệt chi phí đó
phát sinh ở lĩnh vực sản xuất nào, ở đâu và mục đích tác dụng của chi phí đó ra sao
trong quá trình sản xuất. Theo Chế độ kế toán hiện hành thì chi phí theo yếu tố được
chia ra làm năm yếu tố sau đây:
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên
liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế dùng cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả nhân viên, tiền
trích BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN trên tiền lương và các khoản khác phải trả cho
người lao động.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số trích khấu hao của
những tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền trả cho các dịch vụ mua
ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí
điện, nước, điện thoại…
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm toàn bộ các chi phí khác phát sinh dùng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài bốn chi phí nói trên.
Phân loại chi phí theo tiêu thức này cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi
phí sản xuất mà doanh nghiệp đã chi ra để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính,
phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí cho kỳ sau.
b. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí.
Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh tại các phân xưởng, tổ đội,
bộ phận sản xuất gắn liền với hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm của doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm các loại chi phí sau đây:
15
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là toàn bộ chi phí nguyên liệu phát sinh
liên quan trực tiếp đến kinh doanh dịch vụ du lịch. Trong từng hoạt động kinh
doanh, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không giống nhau.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Là các khoản chi phí phải trả cho công nhân
trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các dịch vụ, bao
gồm lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền công và các khoản trích theo
tiền lương (BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN) được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ
của công nhân trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất.
+ Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí còn lại mà doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ chi ra trong phạm vi các bộ phận kinh doanh.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này giúp quản lý định mức chi phí, cung
cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
c. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí và đối tượng
chịu chi phí.
Theo tiêu thức này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí trực
tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó:
+ Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp
chi phí. Chi phí trực tiếp có thể căn cứ vào chứng từ gốc để ghi trực tiếp vào đối
tượng tập hợp chi phí như: Chi phí nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, tiền
lương công nhân sản xuất.
+ Chi phí gián tiếp: Là những chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp
chi phí. Về phương diện kế toán, chi phí gián tiếp không thể căn cứ vào chứng từ
gốc để ghi trực tiếp vào từng đối tượng chịu chi phí mà phải tập hợp chung chi phí
có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí vào một tài khoản riêng, cuối kỳ tính
toán phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí theo những tiêu thức hợp lý. Trong
doanh nghiệp, thuộc loại chi phí gián tiếp bao gồm: Chi phí nhân viên quản lý ở các
bộ phận, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí công cụ, dụng cụ, chi phí dịch vụ mua
ngoài, chi phí khác bằng tiền.
Phân loại chi phí theo cách này giúp xác định phương pháp kế toán tập hợp
và phân bổ chi phí cho các đối tượng được đúng đắn và hợp lý.
16
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất dưới góc độ kế toán quản trị.
a. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ của chi phí với các khoản
mục trên Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Theo cách phân loại này, chi phí của doanh nghiệp được chia thành chi
phí sản phẩm và chi phí thời kỳ
- Chi phí sản phẩm là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất
chế tạo sản phẩm hay quá trình mua hàng hóa để bán. Đối với doanh nghiệp sản
xuất thì chi phí sản phẩm là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung, còn đối với doanh nghiệp thương mại chi phí
sản phẩm chính là giá mua hàng hóa và chi phí mua hàng hóa
Đặc điểm của chi phí sản phẩm là khi sản phẩm, hàng hóa chưa được bán
ra thì chi phí sản phẩm được phản ánh trong giá thành hàng tồn kho trên Bảng
cân đối kế toán. Khi sản phẩm, hàng hóa được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ
được chuyển vào chỉ tiêu giá vốn hàng bán trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Như vậy, một vòng luân chuyển của chi phí sản phẩm có thể ảnh hưởng
đến kết quả hoạt động kinh doanh của nhiều kỳ, gắn liền với nhiều rủi ro tiềm
tàng từ sự biến động của thị trường.
+ Chi phí thời kỳ: Là những chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ
không tạo nên giá trị hàng tồn kho mà trực tiếp làm giảm lợi nhuận của kỳ mà
chúng phát sinh. Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp
Chi phí thời kỳ phát sinh ở thời kỳ nào được tính ngay ở thời kỳ đó, ảnh
hưởng đến lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Còn chi phí sản phẩm chỉ phải
tính ở thời kỳ mà sản phẩm được tiêu thụ không phải tính ở thời kỳ mà chúng
phát sinh.
b. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt
động (hay theo cách ứng xử của chi phí)
Theo tiêu thức này, chi phí được phân thành 3 loại: Biến phí (chi phí khả
biến), định phí (chi phí bất biến) và chi phí hỗn hợp
- Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ với sự thay đổi của
mức độ hoạt động. Về phương diện lý thuyết, biến phí có hai dạng sau:
17
+ Biến phí tỷ lệ: Là những khoản biến phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ thuận
với sự thay đổi của mức độ hoạt động như: Chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp trả theo sản phẩm, hoa hồng bán hàng.
Về mặt toán học, biến phí tỷ lệ có thể được biểu diễn bằng phương trình:
Y = b.x (Với Y là tổng biến phí; b là biến phí đơn vị; x là mức độ hoạt động)
Sơ đồ 1.1: Đồ thị biến phí tỷ lệ
+ Biến phí cấp bậc: Là những biến phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động
thay đổi đến một phạm vi giới hạn nào đó. Khác với biến phí tỷ lệ, biến phí cấp bậc
cũng được xem là một loại biến phí nhưng cách ứng xử của nó không giống như
biến phí tỷ lệ (không tuyến tính với sự thay đổi của mức độ hoạt động).
Về toán học, tổng biến phí cấp bậc có thể biểu diễn bằng phương trình:
Y = ∑b
i
*x
i
(Với b
i
là biến phí một đơn vị mức độ hoạt động ở phạm vi i)
Sơ đồ 1.2: Đồ thị biến phí cấp bậc
- Định phí: Là những khoản chi phí không thay đổi về tổng số khi mức độ
hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp. Định phí sẽ luôn tồn tại cho dù doanh
nghiệp có hay không có hoạt động. Trong doanh nghiệp sản xuất hay thương mại,
định phí luôn luôn xuất hiện như chi phí khấu hao, chi phí thuê nhà xưởng, chi phí
quảng cáo…những chi phí này luôn tồn tại và mức độ sản xuất kinh doanh tăng lên
Y = bx
Y
x0
Mức độ hoạt động
Chi phí
0
18
thì mức phí trên một đơn vị sản phẩm sẽ giảm dần. Định phí tồn tại dưới các hình
thức sau:
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không dễ dàng thay đổi bằng hành động
quản trị. Định phí bắt buộc thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức cơ bản
của một doanh nghiệp. Thuộc loại định phí này có các chi phí như chi phí khấu hao
nhà xưởng, bảo hiểm, lương của ban quản lý…
Về phương diện toán học, định phí bắt buộc thể hiện bằng phương trình
Y = A (A là hằng số)
Sơ đồ 1.3: Đồ thị định phí bắt buộc
+ Định phí tuỳ ý (Định phí không bắt buộc): Là những định phí có thể thay đổi
một cách nhanh chóng bằng hành động quản trị. Định phí tuỳ ý có thể được thay đổi
trong quyết định hàng năm của nhà quản trị như chi phí quảng cáo, chi phí nghiên
cứu, chi phí đào tạo nhân viên. Về mặt toán học, định phí tuỳ ý được biểu diễn bằng
phương trình sau:
Y = A
i
với A thay đổi theo bậc i
Sơ đồ 1.4: Đồ thị định phí tùy ý
Việc phân chia định phí thành định phí bắt buộc và định phí không bắt buộc
tuỳ thuộc vào quan điểm cả nhà quản trị, không có ranh giới vững chắc, chỉ mang
tính tương đối.
Y = A
Mức độ hoạt động
Tổng định phí
bắt buộc
Mức độ hoạt động
Tổng định phí tuỳ ý
19
- Chi phí hỗn hợp: Là những khoản chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và
định phí.
Về mặt toán học, chi phí hỗn hợp thể hiện qua phương trình sau: Y = A + bx
Sơ đồ 1.5: Đồ thị chi phí hỗn hợp
c. Phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định
Theo cách phân loại này chi phí được chia thành:
+ Chi phí kiểm soát được: Là những chi phí mà các nhà quản trị ở một cấp
quản lý nào đó xác định được lượng phát sinh của nó, có thẩm quyền quyết định về
sự phát sinh chi phí đó, cấp quản lý đó kiểm soát được những chi phí này.
+ Chi phí không kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị ở một cấp
quản lý nào đó không thể dự đoán chính xác sự phát sinh của nó, và không có thẩm
quyền quyết định đối với khoản chi phí đó.
d. Phân loại chi phí theo việc lựa chọn các phương án
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất gồm:
+ Chi phí chênh lệch: Là những khoản chi phí có ở phương án này nhưng
không có hoặc chỉ có một phần ở phương án khác.
+ Chi phí chìm: Là loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ vẫn phải chịu
cho dù doanh nghiệp chọn phương án hay hành động nào. Chi phí chìm xuất hiện ở
mọi phương án xem xét, nên cho dù chọn phương án nào nhà quản trị vẫn phải chấp
nhận khoản chi phí này.
+ Chi phí cơ hội: Là một lợi ích tiềm tàng bị mất hoặc phải hi sinh khi lựa
chọn một hành động này để thay thế một hành động khác. Khác với các khoản
Biến phí
Định phí
Y
0
x
A
Y = A + bx
20
chi phí khác, chi phí cơ hội không được phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng lại
rất quan trọng cần phải được xem xét cân nhắc mỗi khi lựa chọn quyết định
kinh doanh.
Cách phân loại này là căn cứ cho việc lựa chọn phương án kinh doanh phù
hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Giá thành và phân loại giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí sản xuất dùng để sản xuất hoàn thành
một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu
mang tính giới hạn và xác định, vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan và là
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình
SXKD cũng như hiệu quả công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao
động sống cần thiết, lao động vật hóa và một số khoản chi phí khác mà doanh nghiệp
đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, có chức
năng đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giá
thành phản ánh kết quả của việc sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình
sản xuất, đánh giá hiệu quả của các giải pháp, phương án kinh doanh, đánh giá tính
đúng đắn của các biện pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật, quản lý tác động đến hoạt
động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm nâng cao năng suất
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất, cung ứng dịch vụ, hạ thấp chi
phí, tăng lợi nhuận. Chính vì vậy, kế toán phải tính toán đầy đủ, chính xác các
khoản chi phí sản xuất kinh doanh và những khoản chi tuy không phải là chi phí sản
xuất kinh doanh nhưng phát sinh và liên quan đến quá trình sản xuất ra sản phẩm
dịch vụ du lịch và phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch bao gồm các yếu tố:
(1)Yếu tố chi phí liên quan đến hao phí lao động vật hóa. Đây là các khoản chi phí
liên quan tới đối tượng lao động và tư liệu lao động mà doanh nghiệp thực sự bỏ ra
trong quá trình sản xuất sản phẩm. Yếu tố chi phí này của sản phẩm bao gồm: Chi
phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao TSCĐ và một số chi phí khác.
21
(2) Yếu tố chi phí liên quan đến hao phí lao động sống: Yếu tố chi phí này bao gồm
tiền lương của công nhân viên, BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN tính trên tiền lương.
(3) Các chi phí chung khác: Đây là những khoản chi phí như công cụ, dụng cụ, chi
phí tiền điện, tiền nước…
Ngoài những khoản mục chi phí trên không được tính vào giá thành sản
phẩm dịch vụ du lịch những khoản chi phí do các nguồn vốn khác tài trợ như khen
thưởng, phúc lợi.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng
lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Giá
thành luôn luôn chứa đựng hai mặt khác nhau là chi phí sản xuất đã chi ra và lượng
giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm đã hoàn thành. Như
vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí
vào những sản phẩm đã hoàn thành. Trong phạm vi doanh nghiệp, nếu giá thành sản
phẩm càng thấp thì hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh càng cao. Để có
những biện pháp hữu hiệu nhằm hạ giá thành sản phẩm thì trước hết phải xác định
được nội dung kinh tế chi phí trong giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch.
1.2.2.1. Phân loại giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch theo phạm vi chi phí trong
giá thành.
Trong kế toán quản trị, chỉ tiêu giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch có thể
được xác định theo các phạm vi chi phí khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng
thông tin về giá thành sản phẩm của các nhà quản trị doanh nghiệp. Theo phạm vi
chi phí trong giá thành cần phân biệt các loại giá thành sau đây:
+ Giá thành sản xuất toàn bộ (Z
sx
toàn bộ): Là loại giá thành mà trong đó bao
gồm toàn bộ biến phí và định phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm dịch vụ du lịch hoàn thành.
Thông tin về giá thành sản xuất toàn bộ thường đóng vai trò chủ yếu trong
các quyết định mang tính chất chiến lược dài hạn. Vì vậy, đây là chỉ tiêu giá thành
có ý nghĩa quan trọng trong quản trị doanh nghiệp
+ Giá thành sản xuất theo biến phí (Z
sxbp
): Là loại giá thành mà trong đó chỉ
bao gồm biến phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
22
tiếp, chí phí sản xuất chung (biến phí sản xuất) tính cho sản phẩm dịch vụ du lịch
hoàn thành.
Với phương pháp này thì toàn bộ định phí sản xuất được tính toàn bộ vào
báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ chúng phát sinh, để tham gia xác định kết quả
kinh doanh, mà không nằm trong giá thành sản xuất sản phẩm dịch vụ du lịch.
Chỉ tiêu này được tính toán nhanh chóng, đơn giản nhưng có vai trò quan
trọng trong việc phục vụ cho việc đưa ra các quyết định ngắn hạn
+ Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý định phí sản xuất (Z
sxhl
): Là loại giá
thành trong đó bao gồm toàn bộ biến phí sản xuất tính cho sản phẩm dịch vụ du lịch
hoàn thành và một phần định phí sản xuất được phân bổ trên cơ sở mức hoạt động
thực tế so với mức hoạt động theo công suất thiết kế (mức hoạt động chuẩn). Phần
định phí còn lại là chi phí hoạt động dưới công suất được coi là chi phí thời kỳ. Chỉ
tiêu này được sử dụng trong kiểm soát quản lý
Công thức:
Z
sxhl
= Bpsx + Đpsx * n
N
Trong đó:
Z
sxhl
là giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý định phí sản xuất
Bpsx là biến phí sản xuất trong giá thành sản xuất dịch vụ du lịch
Đpsx là tổng định phí sản xuất
N là mức hoạt động chuẩn, n là mức hoạt động thực tế
Phần định phí sản xuất còn lại:
Đpsx * N – n
N
+ Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ (Z
tb
): Bao gồm giá thành sản xuất
và chi phí ngoài sản xuất tính cho sản phẩm dịch vụ du lịch tiêu thụ. Chỉ tiêu giá
thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ chỉ xác định khi sản phẩm đã được tiêu thụ và
được sử dụng để xác định kết quả.
Công thức:
Z
tb
= Z
sx
toàn bộ + CP bán hàng + CP QLDN
23
1.2.2.2. Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành.
Theo tiêu thức này giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại như sau:
+ Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch được tính trên cơ
sở chi phí sản xuất kế hoạch, số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch. Giá thành kế
hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp tính trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm dịch vụ du lịch. Nó là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp,
là căn cứ để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ
giá thành của doanh nghiệp.
+ Giá thành định mức: Là giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch được tính trên
cơ sở định mức chi phí hiện hành. Việc tính giá thành định mức được tiến hành
trước khi bước vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm dịch vụ du lịch. Nó là
thước đo để xác định kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh
nghiệp để đánh giá các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đang áp dụng.
+ Giá thành thực tế: Là loại giá thành dịch vụ du lịch được xác định trên cơ sở
số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ. Giá thành
thực tế chỉ có thể xác định được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản
phẩm dịch vụ du lịch. Nó là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc tổ chức, áp dụng các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, là cơ sở để
xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định
nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước cũng như với các bên liên quan.
1.2.2.3. Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch là hai khái niệm khác
nhau nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết. Cả chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm đều biển hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật
hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra, là các chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế, phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với
doanh thu, kết quả lãi, lỗ, hoạt động sản xuất kinh doanh do vậy được chủ doanh
nghiệp rất quan tâm.
Việc sử dụng tiết kiệm chi phí sản xuất dịch vụ du lịch có ảnh hưởng trực tiếp
đến giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau:
24
- Chi phí sản xuất dịch vụ du lịch gắn liền với kỳ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
- Chi phí sản xuất dịch vụ du lịch gắn liền với khối lượng sản phẩm dịch vụ
chưa hoàn thành, trong khi đó giá thành lại liên quan đến khối lượng sản phẩm dịch
vụ đã hoàn thành.
- Chi phí sản xuất dịch vụ du lịch chỉ tính những chi phí phát sinh trong một
kỳ nhất định (tháng, quý, năm), còn giá thành liên quan đến cả chi phí của thời kỳ
trước chuyển sang (chi phí dở dang đầu kỳ) và chi phí của kỳ này chuyển sang kỳ
sau (chi phí dở dang cuối kỳ). Giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch thường không có
sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ, do đó giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch
trùng khớp với chi phí sản xuất dịch vụ du lịch.
- Chi phí sản xuất dịch vụ du lịch phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá
thành sản phẩm dịch vụ du lịch là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả việc sử
dụng các tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tính đúng đắn của
những quyết định của nhà quản lý trong mục tiêu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá
thành và nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp
1.3. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dịch vụ du lịch trong các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ theo quan điểm kế toán tài chính
1.3.1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ
du lịch
1.3.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh
Hạch toán quá trình kinh doanh sản phẩm dịch vụ du lịch nói chung bao gồm
hai giai đoạn có mối quan hệ với nhau. Giai đoạn đầu tập hợp các chi phí kinh
doanh dịch vụ phát sinh trong kỳ theo từng đối tượng chịu chi phí như từng hoạt
động kinh doanh, từng hợp đồng kinh doanh, từng địa điểm kinh doanh và phân tích
các chi phí đó theo yêu cầu quản lý cụ thể như theo khoản mục chi phí, theo yếu tố
chi phí…Giai đoạn hai là tính giá thành sản phẩm dịch vụ theo từng đối tượng tính
giá thành trên cơ sở số liệu của chi phí đã tập hợp được.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất dịch vụ du lịch là phạm vi, giới hạn để
tập hợp chi phí nhằm đáp ứng kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ
du lịch. Giới hạn (phạm vi) để tập hợp chi phí kinh doanh dịch vụ có thể là:
25
- Nơi phát sinh chi phí: Đội, tổ phục vụ kinh doanh, các bộ phận chức năng
- Đối tượng chịu chi phí: Sản phẩm dịch vụ du lịch
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ du lịch thực chất là
xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Việc lựa chọn các đối
tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp có sự khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc
điểm, tình hình tổ chức kinh doanh, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Theo tình hình đặc điểm tổ chức hoạt động của doanh nghiệp tiến hành các
loại hoạt động kinh doanh như kinh doanh hướng dẫn du lịch, kinh doanh vận
chuyển, kinh doanh buồng ngủ, kinh doanh ăn uống thì đối tượng tập hợp chi phí
là từng hoạt động kinh doanh cụ thể. Trong từng hoạt động kinh doanh cụ thể mà có
nhiều chủng loại sản phẩm dịch vụ ví dụ như đối với dịch vụ ăn uống có sản phẩm
ăn theo suất, theo bàn hoặc đặt tiệc buffett theo yêu cầu của khách. Đối với dịch vụ
buồng ngủ có các sản phẩm dịch vụ cụ thể như: Buồng đơn, buồng đôi, buồng tập
thể thì đối tượng tập hợp chi phí chi tiết cho từng loại sản phẩm dịch vụ cụ thể đó.
Theo yêu cầu và trình độ quản lý, nếu tiến hành hạch toán kinh tế nội bộ trong
doanh nghiệp thì chi phí có thể được tập hợp theo từng cơ sở, từng địa điểm kinh
doanh tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, phân tích và xác định kết quả hạch
toán kinh tế của từng cơ sở.
Như vậy, việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất dịch vụ du lịch
theo đúng đối tượng quy định là khâu đầu tiên quan trọng của công tác kế toán tập
hợp chi phí, có tác dụng tích cực cho việc tăng cường quản lý kinh doanh và chi phí
kinh doanh, cho công tác hạch toán kinh tế (nội bộ và toàn đơn vị), phục vụ kịp thời
cho công tác tính giá thành sản phẩm dịch vụ. Xác định đúng đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất dịch vụ du lịch là một trong những điều kiện chủ chốt để tính giá thành
sản phẩm dịch vụ được chính xác.
1.3.1.2. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử dụng để tập
hợp, phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ theo các đối tượng
tập hợp chi phí đã xác định. Nội dung cơ bản của phương pháp kế toán tập hợp chi
phí sản xuất là căn cứ vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định để mở