Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Nghiên cứu vấn đề thuế trong hoạt động khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 153 trang )

MỤC LỤC


1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
- Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt bằng tiếng Việt
VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
CGCN Chuyển giao công nghệ
CNSH Công nghệ sinh học
CNTT-TT Công nghệ thông tin-truyền thông
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
KH&CN Khoa học và Công nghệ
MITI Bộ Thương mại và Công nghiệp quốc tế
QLNN Quản lý Nhà nước
- Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt bằng tiếng Anh
VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
ESCAP Economic and Social Commission for
Asia and the Pacific
Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương
EU Europe Union Liên minh Châu Âu
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
OECD Organization Economic Cooporation
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D Research and Development Nghiên cứu và Phát triển
S&T Science and Technology Khoa học và Công nghệ
WB World Bank Ngân hàng thế giới
UNIDO United Nations Industrial
Development Organization


Tổ chức Phát triển của Liên hợp quốc
UNCTAD United Nations Conference on Trade
and Development
Hội nghị phát triển thương mại quốc tế
của Liên hợp quốc
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Tên bảng, biểu Trang
Bảng 1.1 Nhập khẩu trang thiết bị công nghệ của Trung Quốc những năm 50 49
Bảng 1.2 Số lượng nhập khẩu công nghệ mới của Trung Quốc 50


2
Bảng 1.3 Chuyển giao công nghệ quốc tế 52
Bảng 1.4 Số vụ nhập công nghệ qua các năm 53
Bảng 1.5 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 54
Bảng 1.6 Tình hình các ngành nhập công nghệ 54
Bảng 1.7 Con đường học tập công nghệ mới và công nghệ nước ngoài của các
doanh nghiệp Hàn Quốc
55
Bảng 1.8 Quy mô tương đối của du nhập công nghệ 57
Bảng 1.9 Loại hình công nghệ tiếp nhận 58
Bảng 1.10 Xu hướng trong chuyển giao công nghệ ở Hàn Quốc 59
Bảng 2.1 Tình hình chào bán công nghệ, thiết bị ở một số Techmart 71
Bảng 2.2 Số lượng các đơn vị tham gia một số Techmart 72
Bảng 2.3 Số liệu thống kê của các kỳ Techmart khu vực và quốc gia 73
Bảng 2.4 Phân loại các doanh nghiệp theo trình độ công nghệ 74
Bảng 2.5 Những nguyên nhân khiến thị trường công nghệ ở Việt Nam chưa
phát triển
82
Bảng 2.6 Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp từ 1981-2009 83

Bảng 2.7 Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đã được cấp từ 1990 -2009 84
Bảng 2.8 Giấy chứng nhận đăng ký NHHH đã được cấp từ 1982-2009 85
Bảng 2.9 Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý dã được cấp từ 2001-2009 86
Bảng 2.10 Số lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN từ
1995-2009
87
Bảng 2.11 Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010 89
Bảng 2.12 Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010 theo hình thức đ.tư 92
Bảng 2.13 Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010 phân theo các nước
và vùng lãnh thổ
93
Bảng 2.14 Số Hợp đồng CGCN đã được phê duyệt, đăng ký đến tháng 8/2010 97
Bảng 2.15 Số Hợp đồng được phê duyệt theo lĩnh vực, ngành kinh tế đến năm
2005
99
Bảng 2.16 Số Hợp đồng được phê duyệt theo nước chuyển giao đến 2005 100
Bảng 2.17 Số Hợp đồng CGCN được đăng ký theo lĩnh vực 101
Bảng 2.18 Số Hợp đồng CGCN đã đăng ký theo nước 102


3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khoa học và công nghệ không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp,
mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trung ương lần
thứ 2 Khoá VIII đã nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển khoa
học và công nghệ: "Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ".
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, để đổi mới và nâng cao trình độ

công nghệ của từng ngành và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đối với một nước
đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế như Việt Nam, trong những năm tới chủ
yếu phải dựa vào việc nhập các công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển nhằm
tranh thủ và tận dụng lợi thế của nước đi sau, tiết kiệm chi phí R & D trong điều
kiện đất nước còn có nhiều khó khăn về nguồn vốn cho phát triển và có thể tiếp cận
ngay được những công nghệ hiện đại, tiên tiến trên thế giới mà trong nước chưa có.
Trong những năm qua, đồng thời với việc ban hành và thực hiện các chính
sách đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc thu hút công nghệ
từ nước ngoài và đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Cùng với Luật
Đầu tư (2005) (trước đó là Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ban hành tháng 12
năm 1987 được sửa đổi, bổ sung nhiều lần), các văn bản quy phạm pháp luật về
khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ cũng đã được ban hành: Luật Khoa
học và công nghệ (2000), Luật Sở hữu trí tuệ ( 2005), Luật Chuyển giao công nghệ
(2006), Luật công nghệ cao (2008) v.v…
Tuy nhiên, hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nói riêng thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế kỹ
thuật chuyển biến chậm. Hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ đặc biệt là các hàng hóa xuất khẩu còn thấp. Năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp chậm được nâng cao. Một trong những nguyên nhân làm cho hoạt


4
động chuyển giao công nghệ chưa thực sự được đẩy mạnh là do hệ thống các chính
sách về chuyển giao công nghệ và thu hút công nghệ chưa đồng bộ, còn nhiều bất
cập, mức độ tác động còn hẹp và hiệu quả thực hiện chưa cao. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra là cần nghiên cứu một cách hệ thống, cả lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực
trạng chuyển giao công nghệ nói chung và đặc biệt chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam nói riêng, phân tích, làm rõ nguyên nhân của các hạn chế từ

khía cạnh chính sách. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục đẩy
mạnh việc thu hút công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thực hiện
thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu hẹp dần khoảng
cách công nghệ giữa nước ta với các nước trong khu vực trên thế giới.
Luận án “Chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt Nam” được
thực hiện nhằm giải quyết vấn đề đặt ra này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục tiêu của Luận án
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận, đồng thời phân tích, đánh giá thực
trạng chính sách thu hút công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, phân tích nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu đổi mới, phát triển công nghệ của các ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là các hướng công nghệ ưu tiên, Luận án đề xuất hệ thống đồng
bộ các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, hoàn thiện chính sách thu hút công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, hình thành các chính sách đủ mạnh, có
tính thực thi cao, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo môi trường thuận lợi, thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ, thu hút được công nghệ tiên tiến
của nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2015.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
- Nghiên cứu và phát triển cơ sở lý luận liên quan đến chuyển giao công
nghệ và chính sách thu hút công nghệ từ nước ngoài.
- Đánh giá thực trạng chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam thời gian qua, đặc biệt từ khi thực hiện chính sách đổi mới, phân


5
tích các nguyên nhân thành công và chưa thành công về mặt chính sách đối với hoạt
động thu hút chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đầu tư nước ngoài.
- Trên cơ sở phân tích xu thế phát triển khoa học và công nghệ, các xu hướng
phát triển của các tập đoàn, các Công ty xuyên quốc gia trên thế giới, đánh giá nhu
cầu phát triển công nghệ của Việt Nam, kết hợp với việc tìm hiểu kinh nghiệm về

chính sách chuyển giao công nghệ của một số nước, Luận án kiến nghị hệ thống các
giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút chuyển giao công nghệ trong
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Đối tượng nghiên cứu là chính sách thu hút công nghệ từ nước ngoài vào
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận án tập trung vào việc phân tích các chính
sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam và các kênh khác nhau từ khi thực hiện chính sách đổi
mới đến nay.
4. Tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án
Ở nước ngoài, hầu hết các nghiên cứu chỉ đề cập tới chính sách phát triển
công nghệ và chuyển giao công nghệ, hầu như rất ít công trình chuyên nghiên cứu
chính sách thu hút công nghệ nước ngoài. Đáng chú ý nhất trong số các công trình
đã được công bố (có dịch sang Tiếng Việt) là cuốn “Phát triển công nghệ và chuyển
giao công nghệ ở Châu Á” (Nhà xuất bản Bunshindo, Nhật bản) của tác giả Lâm
Trác Sử. Các tác giả chủ yếu phân tích các mô hình và chính sách phát triển công
nghệ nói chung của một số các quốc gia Đông Á, điển hình nhất là mô hình Trung
Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Công trình nghiên cứu “Technological
Independence–The Asian Experence” của United Nations University, Nhật Bản chủ
yếu nghiên cứu về chính sách công nghệ các quốc gia Châu Á trong các thời kỳ các
nước tiếp nhận công nghệ của Hoa kỳ và Châu Âu. Nhìn chung, các công trình đã
công bố trên thế giới chủ yếu tập trung nghiên cứu chính sách phát triển công nghệ


6
các nước nhằm mục đích tăng trưởng, trong đó đưa ra các mô hình thành công trong
chính sách công nghệ như “Đàn nhạn bay” của Nhật Bản, …
Ở Việt Nam, có một số công trình đã công bố phải kể đến là cuốn “ Đổi mới

cơ chế quản lý Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam” do TS. Lê Đăng Doanh chủ
biên. Tác giả đã phân tích và kiến nghị khoa học và công nghệ ở Việt Nam cần đổi
mới theo hướng nào, kênh nào trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Các tác giả cũng đặc biệt chú ý tới công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
khoa học và công nghệ.
Cuốn “Quan hệ giữa phát triển khoa học công nghệ với phát triển kinh tế - xã
hội trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam” (NXB Khoa học xã hội,
1999) của tác giả Nguyễn Danh Sơn đã phân tích được mối quan hệ qua lại giữa
phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp hóa nền kinh tế. Tác giả Nguyễn
Danh Sơn cũng làm rõ được vai trò quan trọng của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật trong chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, còn một
số công trình đã công bố nghiên cứu về các chính sách hỗ trợ khoa học công nghệ ở
Việt Nam như tác giả Hoàng Trọng Cừ với đề tài “Nghiên cứu vấn đề thuế trong
hoạt động khoa học và công nghệ” (Đề tài NCKH của Viện Nghiên cứu chiến lược
và chính sách khoa học công nghệ); tác giả Nghiêm Thị Minh Hòa “Đầu tư tài
chính cho khoa học công nghệ ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” (Báo cáo tại
Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và đào tạo sau đại học ở Việt Nam”, 2000), v.v
Trong các công trình này, các tác giả chủ yếu đưa ra các giải pháp và kiến nghị
nhằm hỗ trợ hoạt động khoa học công nghệ ở Việt Nam, chưa có đề tài nào nghiên
cứu chuyên sâu về chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Nhóm
nghiên cứu đề tài cấp Bộ Thương mại do Nguyễn Văn Hoàn làm chủ nhiệm với đề
tài “Chính sách nhập khẩu công nghệ mới, công nghệ cao đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam - thực trạng và giải pháp”, mã số 2002-78-
018. Đề tài nghiệm thu năm 2002 và đã nghiên cứu và đánh giá tình hình nhập khẩu
công nghệ của Việt Nam trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế.
Tuy nhiên, các tác giả đề tài này chưa phân tích được chính sách thu hút công nghệ
nước ngoài vào Việt Nam và cũng chỉ dừng lại xem xét tình hình nhập khẩu công


7

nghệ nói chung vào Việt Nam giai đoạn trước năm 2001 và chính sách nhập khẩu
công nghệ dưới góc độ chính sách thương mại.
Với mục đích nghiên cứu thực trạng chính sách thu hút công nghệ nước
ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua đề tìm ra những mặt được và chưa được
của chính sách, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
chính sách, NCS đã chọn đề tài “Chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; dựa vào những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về hội nhập kinh tế và phát triển đất nước làm cơ sở để phân tích đánh giá hoạt
động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như thống
kê, tổng hợp và phân tích, tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp của Luận án
Luận án có những điểm mới và các đóng góp về mặt lý luận cũng như thực
tiễn sau:
- Xác lập một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghệ, chuyển giao công nghệ và
chính sách thu hút công nghệ. Luận án chứng minh sự cần thiết xây dựng
chiến lược công nghệ quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay của Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt Nam
trong thời gian từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay. Lần đầu tiên
luận án đã đánh giá sự bất cập trong chính sách thu hút công nghệ nước ngoài
vào Việt Nam thông qua kênh FDI.
- Đề xuất các giải pháp cấp bách và lâu dài có tính khả thi nhằm đẩy mạnh việc
thu hút chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, hoàn thiện hệ
thống chính sách phát triển công nghệ tại Việt Nam.
7. Bố cục của Luận án:



8
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thu hút công nghệ
nước ngoài
Chương II: Thực trạng chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam
Chương III: Các giải pháp đổi mới chính sách thu hút công nghệ nước ngoài
vào Việt Nam trong thời gian tới


9
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
THU HÚT CÔNG NGHỆ NƯỚC NGOÀI
1.1. Công nghệ và chuyển giao công nghệ
1.1.1 Công nghệ (Technology)
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ, sau đây luận án chỉ
đưa ra những cách hiểu thông dụng nhất để trên các khái niệm đó phục vụ cho quá
trình nghiên cứu:
Theo UNIDO: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng
cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương
pháp”(Trần Văn Thọ 2006, tr.5).
“Công nghệ là hệ thống kiến thức có thể áp dụng được vào việc sản xuất ra
các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới” (OECD, 1968, tr.3).
“Công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành hàng
hóa”(OECD, 1970).
“Công nghệ là hệ thống các kiến thức về một quy trình hoặc/và các kỹ thuật
chế biến cần thiết để sản xuất ra các vật liệu, cấu kiện và sản phẩm hoàn chỉnh”

(OECD, 1972, tr.5).
“Công nghệ là sự áp dụng khoa học vào các ngành nghề thực tiễn bằng cách
sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý có hệ thống, có phương pháp” (ESCAP,
1986).
“Công nghệ là mọi loại kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp có hệ thống
được sử dụng trong sản xuất và dịch vụ” (PRODEC, 1982).
“Công nghệ là các giải pháp dùng để biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành
các nguồn lực được sản xuất có giá trị”(APCTT-Bộ Khoa học và Công nghệ, 2001).
“Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu
và thông tin” và “Công nghệ bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị, chế tạo


10
hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý” (APCTT-Bộ Khoa học và Công nghệ,
2001).
“Công nghệ là phương pháp chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm gồm
03 yếu tố: a) Thông tin về phương pháp; b) Phương tiện, công cụ sử dụng phương
pháp để thực hiện việc chuyển hóa; c) Sự hiểu biết về phương pháp hoạt động như
thế nào và tại sao (Ngân hàng thế giới, WB, 1985).
“Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy nó được mua
bán trên thị trường như một hàng hóa, thể hiện ở những dạng sau: a) Tư liệu sản
xuất, sản phẩm trung gian được mua bán trên thị trường, đặc biệt nó gắn liền với
các thiết bị đầu tư; b) Con người, thông thường là có trình độ và có trình độ cao,
chuyên môn sâu với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và làm chủ được bộ máy; c)
Thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị
trường hay được giữ bí mật như một phần của sự độc quyền (UNCTAD, 1972).
Theo Luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2000, tại Chương I, Điều
1 nêu rõ “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” (Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam, 2000).

Qua những định nghĩa trên và hàng trăm định nghĩa khác tương tự như vậy
được các tác giả công bố trong các giai đoạn từ những năm 1960 cho tới nay, cho
thấy công nghệ là một khái niệm đang phát triển và có xu hướng ngày càng mở
rộng, ngày càng định hình hơn. Tuy nhiên, cho đến nay xuất phát từ các góc nhìn
khác nhau, các hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, các tác giả vẫn không hoàn toàn
thống nhất với nhau về định nghĩa công nghệ.
Để làm rõ và đi đến thống nhất khái niệm này, luận án sẽ phân tích trên 03
khía cạnh chủ yếu: 1) Về bản chất công nghệ là gì? 2) Công nghệ có đặc điểm chủ
yếu gì? 3) Công nghệ phục vụ cho cái gì?
Thứ nhất, cần làm rõ bản chất của công nghệ. Hầu như tất cả các tác giả đều
thống nhất với nhau rằng công nghệ là các cách thức, các kiến thức, các kỹ năng,
các quy trình, các thiết bị, các công cụ, các phương tiện, các dịch vụ công nghiệp,
các dịch vụ quản lý, vv và vv… mà ta gọi chung, trong luận án này, là các phương


11
pháp. Nhưng không phải là các phương pháp nói chung, mà là các phương pháp
được “áp dụng vào”, “được chuyển thành”, “được sử dụng” … tức là các phương
pháp có một giá trị thực tiễn nhất định để giải quyết một nhiệm vụ nhất định mà
thực tiễn đặt ra. Đó chính là giải pháp (Giải pháp: Phương pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể nào đó) (Viện Ngôn ngữ học, 2003, pp.387).
Thực chất của công nghệ chính là giải pháp thực tiễn mà con người dùng
trong quá trình giải quyết một nhiệm vụ nhất định. Theo Nawaz Sharif (Công nghệ -
công cụ biến đổi các nguồn lực, Viện Thông tin khoa học Trung ương, Ủy ban khoa
học và kỹ thuật Nhà nước, số 7, năm 1988), công nghệ có 04 thành phần cơ bản:
- Thành phần vật chất (Technoware, còn gọi là “Giải pháp đã được vật chất
hóa”): đó là công nghệ hàm chứa trong các vật thể như: máy móc, trang thiết bị,
công cụ, kết cấu, vật liệu, nhà máy, cơ sở hạ tầng, xe cộ …
- Thành phần thông tin (Inforwave, công nghệ hàm chứa trong thông tin),
như: tài liệu thiết kế, công thức, quy trình, tiêu chuẩn, định mức, cẩm nang, khái

niệm, kế hoạch …
- Thành phần con người (Humanwave, công nghệ hàm chứa trong con
người), như: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, khả năng lãnh đạo, đạo
đức nghề nghiệp.
- Thành phần thể chế (Orgawave- công nghệ hàm chứa trong thể chế), như:
cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, quan hệ trách nhiệm/quyền hạn, lề lối làm việc, kỷ
luật, sự phối hợp, chế độ thưởng phạt, vv và vv …
Tất cả 04 thành phần công nghệ đó (thành phần vật chất: Technoware, thành
phần con người: Humanware, thành phần thông tin: Inforware, thành phần thể chế:
Orgaware) đều bổ sung lẫn cho nhau và tác động qua lại với nhau một cách phức
tạp. Không thể có sự biến đổi nào (từ nguồn lực tự nhiên thành các sản phẩm hay
dịch vụ được sử dụng), mà có thể thiếu hẳn một thành phần nào đó, tức là có một
giới hạn tối thiểu cho mỗi một trong 04 thành phần, và cũng như vậy, có một giới
hạn tối đa cho mỗi thành phần. Vượt quá những giới hạn nhất định đó, công nghệ sẽ
không còn là tối ưu hay thậm chí sẽ không có hiệu quả và vì vậy người ta luôn luôn


12
đòi hỏi một hệ thống công nghệ đồng bộ. Như vậy, bản chất của công nghệ là giải
pháp.
Thứ hai, cần làm rõ công nghệ có đặc điểm chủ yếu gì. Đi sâu vào thuộc tính
hoặc đặc điểm của công nghệ có thể thấy rằng công nghệ có nhiều đặc điểm hoặc
thuộc tính khác nhau. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi bật mà phần đông các tác giả
đều nhất trí là đặc điểm có hệ thống. Điều đó có nghĩa là, một giải pháp công nghệ
riêng lẻ hoặc một tập hợp những giải pháp công nghệ hoàn chỉnh để tạo ra một sản
phẩm hay một dịch vụ nào đó đều đòi hỏi phải được chỉ rõ trật tự của giải pháp đó
nằm ở vị trí nào trong toàn hệ thống hoặc những giải pháp đó được sắp xếp như thế
nào để thành hệ thống và có thể áp dụng ngay được mà không bị sai lầm. Nếu trái
lại, giải pháp đó không còn giá trị của công nghệ.
Thứ ba, mục tiêu của công nghệ là gì và phục vụ cho cái gì. Khi nghiên cứu

nguồn gốc công nghệ, cho thấy không một tác giả nào bỏ qua vấn đề này. Về cơ
bản, các tác giả đều cho rằng, mục tiêu sơ cấp của công nghệ là để làm ra được
những sản phẩm, những hàng hóa, những dịch vụ có trình độ công nghệ nhất định
(và càng ngày, mục tiêu “dịch vụ” càng được nhiều tác giả quan tâm). Từ mục tiêu
sơ cấp đó, công nghệ có rất nhiều mục tiêu thứ cấp khác nhau và nhiều khi chính vì
mục tiêu thứ cấp này mà công nghệ cần được cập nhật, thay đổi và phát triển, thậm
chí phát triển rất nhanh chóng.
Từ những phân tích nói trên, tác giả luận án đưa ra định nghĩa một cách ngắn
gọn, đơn giản, dễ hiểu về công nghệ: Công nghệ là tập hợp các giải pháp có hệ
thống được sử dụng trong quá trình tạo ra một sản phẩm, hoàn thành một công
trình hay thực hiện một dịch vụ nhất định nhằm phục vụ cho một mục tiêu xác định.
Các giải pháp có hệ thống đó bao gồm 04 thành phần cơ bản (thành phần vật chất
hay giải pháp được vật chất hóa, thành phần thông tin, thành phần con người, thành
phần thể chế). Thông thường, để hoàn thành một mục tiêu thứ cấp (như: chế tạo một
sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ) hệ thống các giải
pháp phải bao gồm cả 04 thành phần nói trên. Nhưng trong thực tế có những mục
tiêu sơ cấp hoặc mục tiêu trung gian mà để thực hiện chúng không nhất thiết cả 04
thành phần đó phải xuất hiện trong một hệ thống công nghệ cụ thể.


13
Trong thời đại ngày nay, mỗi sản phẩm, mỗi công trình, mỗi dịch vụ đều
nhằm một mục tiêu cụ thể, xác định. Hàng ngày, trên thế giới có hàng triệu sản
phẩm, hàng triệu công trình, hàng triệu dịch vụ được tạo ra, được hoàn thành, được
thực hiện, chúng đều có mục tiêu cụ thể, xác định, không mục tiêu nào hoàn toàn
giống mục tiêu nào. Tuy nhiên, trong cơ chế kinh tế thị trường, công nghệ, suy cho
cùng, phải nhằm mục đích chủ yếu là phục vụ kinh doanh (trừ một số trường hợp
đặc biệt, trong bối cảnh đặc biệt sẽ được đề cập trong một chuyên đề khác) và trong
khuôn khổ của hoạt động kinh doanh thì công nghệ nào cũng phải đạt được một
mục tiêu chung là :

- Giành thắng lợi trong cạnh tranh
- Tối đa hóa lợi nhuận
- Phát triển Thương hiệu
Chỉ có như vậy, công nghệ mới có thể tồn tại và phát triển để phục vụ cho các
mục tiêu khác.
1.1.2. Quản lý công nghệ
Ở tầm vi mô (doanh nghiệp), quản lý công nghệ nhằm bảo đảm cho doanh
nghiệp luôn luôn giành thắng lợi trong cạnh tranh, tối đa hóa được lợi nhuận, xây
dựng được thương hiệu của doanh nghiệp ngày càng mạnh và luôn luôn phát triển
bền vững. Quản lý công nghệ ở doanh nghiệp là hệ thống các hoạt động khả thi để
làm cho công nghệ luôn luôn được duy trì và phát triển phù hợp với mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Nội dung của quản lý công nghệ trong doanh nghiệp bao gồm:
- Xây dựng hệ thống cập nhật thông tin công nghệ và xác lập các tài liệu để
có căn cứ quản lý;
- Thực hiện các nội dung quản lý kỹ thuật và quản lý chất lượng toàn diện
(như: quản lý quy trình, quản lý tiêu chuẩn, định mức, quản lý cơ điện …);
- Kiểm kê, đánh giá công nghệ và tình hình cạnh tranh;
- Dự báo công nghệ;


14
- Đổi mới và phát triển công nghệ.
Ở tầm vĩ mô (quốc gia), quản lý công nghệ nhằm đảm bảo cho quốc gia có
một nền công nghệ luôn hướng tới tính cạnh tranh và hiệu quả cao đồng thời nâng
cao được vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Quản lý công nghệ ở tầm vĩ mô là
việc Nhà nước thực thi những công cụ luật pháp và chính sách để làm cho sự phát
triển công nghệ của đất nước (trước hết là các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu
triển khai, các trường Đại học và Cao đẳng,…) luôn luôn phù hợp với những yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và sự phát triển đó không để lại

những hậu quả tiêu cực (như ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái, phá hoại cảnh quan,
…).
Ở tầm quốc gia, quản lý công nghệ có những nội dung chủ yếu sau:
- Xác lập và đưa vào hoạt động một hệ thống thống kê, theo dõi công nghệ ở
cấp quốc gia để thường xuyên đánh giá được trình độ công nghệ của quốc gia so với
trình độ chung trên thế giới;
- Tạo ra một nhận thức chung trong xã hội về sự cần thiết phải phát triển trên
cơ sở công nghệ (đặc biệt là trong giới doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà
nước, các cơ quan nghiên cứu, triển khai);
- Xây dựng Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Chính
sách phát triển công nghệ quốc gia;
- Xây dựng và phát triển các cơ cấu hạ tầng của công nghệ, bao gồm: Các
trung tâm nghiên cứu - triển khai, marketing công nghệ (thuộc Nhà nước và các
thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là kinh tế tư nhân); các trung tâm đánh giá
năng lực, nhu cầu công nghệ và dự báo công nghệ (ở tầm quốc gia, ngành, khu
vực); các trung tâm liên kết giữa các Bên sử dụng công nghệ với các Bên có công
nghệ (tư vấn, môi giới …); các trung tâm dịch vụ thông tin công nghệ phục vụ cho
giám sát, đánh giá và ra quyết định công nghệ; các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng
nguồn nhân lực làm công tác quản lý công nghệ ở tầm vi mô và vĩ mô cho các thành
phần kinh tế; các trường Đại học và các cơ sở bồi dưỡng chuyên gia về công nghệ;
ban hành các chính sách của luật pháp để hướng toàn xã hội vào việc phát triển


15
công nghệ theo những trọng tâm mà “Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
quốc gia” và “Chính sách phát triển công nghệ quốc gia” đã vạch ra.
- Lập và đưa vào hoạt động các Quỹ để hỗ trợ và khuyến khích việc phát
triển công nghệ.
- Lập và đưa vào hoạt động Hội đồng tư vấn công nghệ quốc gia có uy tín để
định kỳ đánh giá tình hình quản lý công nghệ ở tầm vĩ mô và đề xuất những biện

pháp điều chỉnh cần thiết.
1.1.3. Đổi mới và phát triển công nghệ
Đổi mới công nghệ là một phần quan trọng của quá trình quản lý công nghệ,
trong quá trình đổi mới công nghệ, người ta lựa chọn, thay thế một phần hoặc toàn
bộ những giải pháp (hàm chứa trong 04 thành phần: vật thể, thông tin, con người,
thể chế) tập hợp trong một hệ thống đang được sử dụng bằng những biện pháp mới
để tạo ra một sản phẩm, một công trình hoặc một dịch vụ tiến bộ hơn, với tiêu hao
vật tư, năng lượng và làm ô nhiễm môi trường ít hơn; Đổi mới công nghệ cũng có
nghĩa là tạo dựng những hệ thống công nghệ hoàn toàn mới theo hướng hiện đại của
thế giới để làm ra những sản phẩm, những công trình, những dịch vụ mới thích hợp
với yêu cầu của thời đại.
Đổi mới công nghệ (đổi mới một phần hoặc toàn bộ những giải pháp đang
được áp dụng) có các nội dung chủ yếu sau:
- Đánh giá công nghệ đang sử dụng (xét khả năng công nghệ có còn làm ra
sản phẩm, công trình, dịch vụ được thị trường chấp nhận không, công nghệ còn
mang lại hiệu quả không, duy trì công nghệ có ảnh hưởng đến công nghệ không,
nếu không thì phải đổi mới những gì, đổi mới một phần hay toàn bộ hệ thống công
nghệ).
- Nghiên cứu quy cách, mức chất lượng của sản phẩm, công trình, dịch vụ;
Nghiên cứu thị trường mục tiêu của sản phẩm, công trình, dịch vụ; Nghiên cứu, làm
rõ môi trường hoạt động của công nghệ; Nghiên cứu xác định tính cạnh tranh và
hiệu quả của công nghệ (trường hợp làm ra những sản phẩm, công trình, dịch vụ
hoàn toàn mới hoặc có những tính năng mới với giá cả mới).


16
- Nghiên cứu nhận dạng những đặc điểm chủ yếu của công nghệ sẽ tạo dựng
(đặc biệt, làm rõ tính đồng bộ của công nghệ, tính hiện đại của công nghệ, tính thích
hợp của công nghệ, tính thân thiện môi trường của công nghệ …) và định hướng lựa
chọn vào một vài dạng công nghệ, chủ yếu là những công nghệ còn đang sung sức

trong vòng đời của nó.
- Nghiên cứu khả thi Dự án Đổi mới công nghệ để bảo đảm chắc chắn rằng
dự án là khả thi và không có những rủi ro ngoài tầm kiểm soát, phê duyệt dự án
đồng thời chuẩn bị những điều kiện để đầu tư (vốn, người quản lý dự án, các nguồn
cung cấp cho dự án …).
- Thực hiện dự án: ký các Hợp đồng tư vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị, xây
lắp, đào tạo, chuyển giao công nghệ, vv và vv… quản lý Hợp đồng để bảo đảm cho
dự án hoàn thành đúng tiến độ và có chất lượng.
- Vận hành và khai thác dự án.
- Định kỳ đánh giá, rút kinh nghiệm về quá trình đổi mới công nghệ.
Các nguồn cung cấp công nghệ cho hoạt động đổi mới công nghệ ở hầu hết
các nước thông thường bao gồm:
- Các nguồn tại chỗ (các nguồn trong Công ty, Tập đoàn …).
- Từ người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài sinh sống
và làm việc tại Việt Nam.
- Từ các cơ sở nghiên cứu - triển khai như: các Viện, các Trung tâm nghiên
cứu, các trường Đại học (thường là ở trong nước).
- Từ các doanh nghiệp trong và nhất là các doanh nghiệp ngoài nước (nếu
chuyển giao từ các doanh nghiệp ngoài nước cho các doanh nghiệp trong nước, thì
gọi đó là “chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam”).
1.1.4. Chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là mang kiến thức kỹ thuật vượt qua sự giới hạn
trong hay ngoài nước từ các công ty, các trường đại học, các viện nghiên cứu, các
phòng thí nghiệm, các doanh nghiệp khoa học ươm tạo công nghệ,… đến những nơi


17
có nhu cầu tiếp nhận công nghệ. Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa về chuyển
giao công nghệ, luận án chỉ xin nêu một số định nghĩa như sau:
Chuyển giao công nghệ là sự trao đổi tri thức kỹ thuật, dữ liệu, các bản vẽ

thiết kế, các phát minh, sáng chế, các bí quyết, các thiết bị, các quy trình sản xuất,
vận hành và các kỹ năng quản lý từ một tổ chức này sang một tổ chức khác.
Chuyển giao công nghệ là việc có được công nghệ nước ngoài và là một quá
trình vật chất về cơ bản, một mặt đi liền với việc đào tạo toàn diện và mặt khác là sự
hiểu biết và học hỏi (ESCAP, 1986).
Chuyển giao công nghệ thường là cách gọi việc mua công nghệ mới. Nó
thường xảy ra do có sự tồn tại của “người mua” và “người bán”. Người bán thường
được gọi là “người giao hay bên giao công nghệ” và người mua thường được gọi là
“người nhận hay bên nhận công nghệ” của quá trình hoạt động chuyển giao công
nghệ.
Ở quy mô toàn cầu, chuyển giao công nghệ thường diễn ra: giữa hai nước
phát triển; giữa hai nước đang phát triển; giữa một nước phát triển và một nước
đang phát triển.
Theo quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2005 (Chương III, Phần thứ 6), các
đối tượng chuyển giao công nghệ trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm:
- Các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa có hoặc không kèm theo máy
móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao.
- Các bí quyết (Know-how) hay kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới
dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ,
phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ
đồ kỹ thuật có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị.
- Các dịch vụ kỹ thuật, đào tạo nhân viên kỹ thuật, cung cấp thông tin
về công nghệ chuyển giao.
- Các giải pháp hợp lý hóa sản xuất.


18
Như vậy, có thể rút ra những đặc trưng bản chất của chuyển giao công nghệ
gồm 3 điểm sau đây:

Thứ nhất, chuyển giao công nghệ phải là một hoạt động bao gồm hai bên:
Bên giao và Bên nhận. Nếu chỉ có một bên thì không thể tạo nên hoạt động CGCN
và cũng rất hiếm trường hợp (nói đúng hơn là không có trường hợp nào) có từ ba
bên trở lên trong chuyển giao công nghệ và nếu có thì các bên đó cũng cấu tạo
thành các Bên giao và các Bên nhận, tức là thực chất chỉ có hai bên. Tuy nhiên,
ngoài khái niệm chuyển giao công nghệ, trong thực tế còn có khái niệm “chuyển
dịch công nghệ” (ví dụ trường hợp doanh nghiệp nước ngoài đưa công nghệ vào
thực hiện dự án của họ tại Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn của
họ).
Thứ hai, trong hoạt động đó, đối tượng được Bên giao “chuyển giao” cho
Bên nhận chính là các giải pháp (có thể bao gồm các giải pháp được vật thể hóa, tức
là máy móc, thiết bị hoặc không bao gồm).
Thứ ba, tại sao thường gọi là “chuyển giao công nghệ” mà không gọi là mua
bán công nghệ (ít nhất là trên đa số trường hợp). Vậy thì chuyển giao công nghệ có
những đặc điểm gì để phân biệt với những trường hợp mua, bán thông thường khác.
Xét một cách tổng thể ta thấy “chuyển giao công nghệ” có hai đặc điểm cơ
bản mà những trường hợp mua, bán thông thông thường không có, đó là:
Trong những trường hợp mua, bán thông thường, Bên bán trao hàng (sản
phẩm hoặc dịch vụ cuối cùng) cho Bên mua và Bên mua trao tiền cho Bên bán,
cuộc mua, bán coi như hoàn thành. Còn trong “chuyển giao công nghệ”, thì Bên
giao chuyển giao cho Bên nhận một tập hợp giải pháp công nghệ để Bên nhận có
thể sản xuất một sản phẩm (chẳng hạn, chiếc xe máy Honda) giống y như của Bên
giao thì cũng chỉ là bước đầu. Bên giao phải bằng những kết quả nghiên cứu, triển
khai, chuyển giao tiếp cho Bên nhận hàng loạt giải pháp công nghệ để trình độ công
nghệ của Bên nhận luôn luôn “tương đương” với trình độ của Bên giao trong nhiều
năm sau này nữa. Chỉ có như vậy, Bên nhận mới không sa vào cái “Bẫy công nghệ”
của Bên giao hoặc của một bên thứ ba khác. Trong quá trình chuyển giao như vậy,
Bên nhận phải theo dõi chặt chẽ mọi động thái cạnh tranh của Bên giao để đòi hỏi



19
Bên giao làm đúng nghĩa vụ của mình. Bởi vì, nghĩa vụ của Bên giao là phải giúp
Bên nhận cập nhật được công nghệ, thông thường là ngang bằng với trình độ của
Bên giao trong mọi thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng CGCN. Tuy nhiên, trong
từng thời gian lại thường có những yếu tố bất trắc mà không ai có thể quy định cụ
thể trước được (một trong những yếu tố đó là tình hình cạnh tranh: ta không biết sức
cạnh tranh của các đối thủ khi nào mạnh, khi nào yếu, sức cạnh tranh đó đến từ các
đối thủ nào, thủ đoạn cạnh tranh cụ thể là gì, vv và vv…). Như vậy, hai Bên phải
phối hợp chặt chẽ để cập nhật và xử lý các tình huống sao cho có sức cạnh tranh tốt
nhất. Chuyển giao công nghệ phải là một quá trình lâu dài hai bên tiếp tục quan hệ
với nhau, trao đổi với nhau, chuyển giao cho nhau, chứ không phải chỉ chuyển giao
một đợt là xong (vì nếu như vậy, rất có thể Bên nhận sẽ rơi vào chiếc “Bẫy công
nghệ” như trên đã nói). Về nguyên tắc, quá trình chuyển giao chỉ chấm dứt khi Bên
nhận đã “tự túc được công nghệ”. Bên cạnh đó, bản thân Bên nhận cũng phải nỗ lực
tối đa để tiếp nhận thành công “hàng hóa” của Bên giao, thực tế, không phải Bên
nhận nào cũng tiếp nhận thành công. Quá trình mua, bán hàng hóa thường không có
đặc điểm này.
Trong mua, bán hàng hóa thông thường, giá cả được thỏa thuận ngay từ lúc
giao kết Hợp đồng, kể cả trường hợp mua, bán trả góp, thì giá cả và nói chung là
những nghĩa vụ, quyền lợi của hai bên cũng đã tương đối rõ ràng. Còn trong “chuyển
giao công nghệ”, người ta rất khó nói trước Hợp đồng chuyển giao công nghệ đó có
giá bao nhiêu, bởi vì:
Thứ nhất, quy mô sản xuất (dịch vụ) của các Bên nhận là rất khác nhau.
Trong chuyển giao công nghệ, có một nguyên tắc là, Bên nhận thu lợi càng nhiều từ
công nghệ chuyển giao (cũng có nghĩa là, Bên nhận có quy mô càng lớn) thì “phí
chuyển giao” phải trả cho Bên giao cũng càng lớn.
Thứ hai, cho dù quy mô (công suất) sản xuất (dịch vụ) không đổi, nhưng phí
chuyển giao (mà Bên nhận phải trả cho Bên giao) là một số tiền thay đổi hàng năm
(vì phí chuyển giao theo “kỳ vụ” thường tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) của giá bán
tịnh hoặc lợi nhuận hoặc doanh thu mà những khoản tiền này còn phụ thuộc thị

trường, cạnh tranh,… chứ không hoàn toàn phụ thuộc Bên giao hay Bên nhận nên


20
không định trước được). Đó là chưa kể giá của “chuyển giao công nghệ” còn phụ
thuộc một phần rất lớn vào công nghệ được chuyển giao đang ở thời kỳ nào (thương
mại hóa, đang sung sức, ở đỉnh điểm, hay bắt đầu có dấu hiệu bão hòa và lỗi thời).
Chính vì những điểm khác nhau đó, mà người ta thường gọi là “chuyển giao
công nghệ” chứ ít gọi là “mua đứt, bán đoạn” hay “mua, bán” công nghệ. Lưu ý ở
đây chuyển giao chứ không phải cho không, hay biếu tặng công nghệ, vì bản chất là
mua bán công nghệ - một loại hàng hóa đặc biệt.
Với 03 đặc điểm nổi bật như vậy, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn, dễ
hiểu: Chuyển giao công nghệ là hoạt động bao gồm 2 bên (Bên giao và Bên
nhận), trong đó, hai bên phối hợp các hoạt động thực tiễn và/hoặc các hành vi
pháp lý sao cho Bên nhận có được một năng lực công nghệ cần thiết, trong suốt
thời gian cần thiết để thực hiện được mục tiêu đã xác định.
Hoạt động chuyển giao công nghệ thường diễn ra dưới 02 hình thức chủ yếu
sau:
Chuyển giao công nghệ theo chiều ngang (Horizontal Technology Tranfer) là
đưa công nghệ đang được áp dụng ở một đơn vị (doanh nghiệp) này sang áp dụng ở
một đơn vị (doanh nghiệp) khác. Trong chuyển giao ngang, các hành vi Bên giao và
Bên nhận, tương quan quyền lợi/nghĩa vụ giữa các bên, đều có thể xác định tương
đối rõ. Rủi ro trong chuyển giao ngang rất ít xảy ra và nói chung có thể kiểm soát
được, vì công nghệ chuyển giao đã được áp dụng thành công ở Bên giao và Bên
giao đã sở hữu kinh nghiệm trong quá trình vận hành.
Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc (Vertical Technology Transfer) hay
triển khai công nghệ là hoạt động trong đó công nghệ không chỉ được chuyển từ
đơn vị này sang đơn vị khác, mà quan trọng hơn là, cùng với điều đó, công nghệ
được chuyển hóa từ giai đoạn thấp hơn sang giai đoạn cao hơn trong “vòng đời” của
nó (các trường hợp thường gặp từ giai đoạn thử nghiệm - trình diễn sang giai đoạn

ứng dụng - thương mại hóa).
Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc thường là chuyển giao công nghệ từ
một đơn vị nghiên cứu, triển khai sang một đơn vị sản xuất. Hình thức chuyển giao
này đòi hỏi:


21
- Đơn vị sản xuất (Bên nhận, tức Doanh nghiệp) có lực lượng triển khai, và
công nghệ triển khai bao gồm cả thiết kế tương đối mạnh, đồng thời có cơ chế tài
chính cho hoạt động triển khai.
- Đơn vị nghiên cứu (Bên giao) biết cách làm việc với các doanh nghiệp để
triển khai kết quả nghiên cứu của mình.
- Hoạt động triển khai như vậy được Nhà nước bảo hộ bằng luật pháp để Bên
giao và Bên nhận có thể chia sẻ rủi ro và “ăn chia” lợi nhuận một cách sòng phẳng,
có lợi cho cả đôi bên.
Hiện nay, ở Việt Nam những điều kiện nói trên chưa có đủ, cho nên chuyển
giao công nghệ theo chiều dọc rất hiếm xảy ra và nếu có xảy ra thì cũng không theo
luật điều chỉnh nên không kiểm soát và thống kê được.
CGCN theo chiều dọc thường là CGCN giữa Bên giao là các cơ sở nghiên
cứu - triển khai (các Viện, Trường Đại học…) hoặc các “tổ chức CGCN” của các cơ
sở đó cho các Bên nhận có những điều kiện vật chất - kỹ thuật và nhân lực nhất
định. Chuyển giao dọc có ưu điểm: 1) Công nghệ thuộc thế hệ mới chưa từng được
áp dụng ở đâu; 2) Bên nhận công nghệ có khả năng độc quyền sản xuất một loại sản
phẩm do công nghệ mới tạo ra; 3) Bên nhận công nghệ có khả năng chia sẻ lợi
nhuận tương đối sòng phẳng với Bên giao. Nhưng chuyển giao dọc cũng có nhược
điểm là: Bên nhận công nghệ có thể phải chia sẻ rủi ro với Bên giao trong trường
hợp công nghệ không thành công và nếu Bên nhận thiếu kinh nghiệm trong đàm
phán và giao kết Hợp đồng thì Bên nhận sẽ phải gánh chịu phần lớn rủi ro.
Đó là những hoạt động chuyển giao công nghệ trong những trường hợp cụ
thể (chuyển giao công nghệ vi mô). Theo Phan Xuân Dũng và các cộng sự nêu

trong cuốn “Chuyển giao công nghệ - thực trạng và giải pháp” năm 2004 thì, trong
phạm vi vĩ mô, chuyển giao công nghệ là sự dịch chuyển toàn bộ hay một phần
công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác, là một lĩnh vực hoạt động
nhằm đưa công nghệ từ nơi có trình độ công nghệ cao hơn đến nơi có trình độ công
nghệ thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên đối tác. Thuật ngữ
“Chuyển giao công nghệ” được coi như là những dòng lưu thông công nghệ hay quá
trình phổ biến công nghệ. Thuật ngữ này chỉ sự dịch chuyển công nghệ từ một thực


22
thể sở hữu công nghệ (Bên giao) tới bên khác, và việc chuyển giao công nghệ này
chỉ thành công khi thực thể nhận công nghệ (Bên nhận) hiểu đúng cách và sử dụng
có hiệu quả công nghệ. Nếu Bên nhận công nghệ không thể hiểu và sử dụng công
nghệ một cách có hiệu quả, việc chuyển giao được coi là chưa hoàn thành.
Trung tâm các Công ty xuyên quốc gia của Liên Hiệp Quốc đã chia các hình
thức (các kênh) chuyển giao công nghệ ra làm 07 loại, gồm:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài kiểu cổ điển (phía nước ngoài kiểm soát, điều
hành);
- Liên doanh hay là một hình thức mới của đầu tư trực tiếp;
- Mua bán li xăng;
- Các hợp đồng quản lý dịch vụ, kỹ thuật;
- Tiếp thị;
- Hợp đồng chìa khóa trao tay;
- Các hợp đồng phụ.
Còn với các nước Đông và Đông Nam Á, chuyển giao công nghệ thường được
tiến hành theo một số hình thức sau:
- Các Doanh nghiệp ký kết hợp đồng với các Công ty nước ngoài để công
nghệ được chuyển giao;
- Mua sản phẩm mà họ muốn làm, tháo gỡ và sao chép lại;
- Mua máy móc và chuyển giao công nghệ trên thương trường;

- Chuyển giao công nghệ qua việc khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Điều cần lưu ý là, công nghệ nước ngoài sẽ không có tác dụng gì nếu không
bám rễ vào trong nước, nghĩa là đất nước đó phải có một tiềm năng, nội lực nhất
định về KH&CN để biến công nghệ được chuyển giao thành công nghệ nội sinh
(Phan Xuân Dũng, 2004).
1.2. Chính sách thu hút công nghệ nước ngoài trong Chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ quốc gia


23
1.2.1. Chính sách thu hút công nghệ và phát triển công nghệ quốc gia
Từ chính sách được sử dụng hết sức phổ biến từ những nội dung vĩ mô như
chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách tài khóa,… đến tầm vi mô
trong chính sách của các công ty. Mỗi khi có vấn đề nổi cộm trong xã hội, công
chúng lại trông chờ vào phản ứng của chính quyền. Những phản ứng đó khi định
hình và thể hiện một cách chính thức được gọi dưới cái tên “chính sách”. Chính
sách cũng có thể hàm chứa những tính toán, định hướng dài hơi của chính phủ, mối
quan tâm đến một số nhóm đối tượng đặc biệt nào đó hay đơn thuần chỉ là sự áp đặt
mang tính áp đặt của Nhà nước. Trong phạm vi luận án, chỉ tập trung tới chính sách
công không đề cập tới chính sách doanh nghiệp, thuật ngữ chính sách được sử dụng
với hàm ý chính sách công, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ thể.
Khái niệm chính sách. Khi làm rõ các khái niệm chính sách cần lưu ý 3 câu
hỏi được đặt ra: 1) Chính sách là gì? 2) Tại sao một số chính sách thành công trong
khi một số khác lại thất bại, tại sao có chính sách được người dân vui sướng đón
nhận, một số lại gặp phải những phản đối quyết liệt, hay thờ ơ; 3) Làm thế nào để
xây dựng một chính sách thành công? Thông thường để trả lời các câu hỏi này là
nhiệm vụ của môn Khoa học Chính sách (Policy Science).
Hiện cũng tồn tại nhiều định nghĩa về chính sách. Một khái niệm đơn giản và
dễ nhớ nhất là của Thomas R. Dye (1984): chính sách công là cái mà chính phủ lựa
chọn làm hay không làm hay. Ngoài ra còn một số định nghĩa khác về chính sách

như: Chính sách là quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một
nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson,
2003); Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); Chính
sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm
cả các quyết định không hành động, do các cơ quan Nhà nước hay các quan chức
Nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992); Theo Charles O. Jones (1994), chính sách
công là một tập hợp các yếu tố gồm: Dự định (intentions) - mong muốn của chính
quyền; Mục tiêu (goals) - dự định được tuyên bố và cụ thể hóa; Đề xuất (proposals)


24
- các cách thức để đạt được mục tiêu; Các quyết định hay các lựa chọn; Hiệu lực
(effects).
Trong luận án này tác giả lựa chọn định nghĩa dưới đây, bởi nó phù hợp với
điều kiện thể chế hiện tại của việt nam và phù hợp với cách hiểu và diễn giải của
những người tham gia hoạch định chính sách cũng như những người thực thi chính
sách.
Chính sách là những nguyên tắc, chuẩn mực hành động để hoàn thành
những nhiệm vụ trong một thời kỳ lịch sử nhất định mà một chính đảng, một nhà
nước, một doanh nghiệp chế định ra và tuân thủ (cũng có thể định nghĩa:“chính
sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất định dựa
trên đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra” (Viện Chiến lược và
Chính sách KH&CN, 2003).
Trong hệ thống quản lý khoa học và công nghệ, ở nhiều nước trên thế giới , ở
tầm vĩ mô các văn bản sau đây được hoạch định và ban hành (hoặc bởi các cơ quan
Chính phủ, hoặc bởi các Hội đồng do Chính phủ thành lập ).
- Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia;
- Chính sách phát triển khoa học quốc gia;

- Chính sách phát triển công nghệ quốc gia.
Thông thường, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia thường
được xây dựng cho một thời gian dài (cho 15 - 20 năm) các nước phát triển (Mỹ,
Nhật, Đức, Pháp, Anh, Italia, Canada) và đang phát triển hàng đầu (Trung Quốc, Ấn
Độ, Brazil, Achentina, Thổ Nhĩ Kỳ …) không nước nào không theo đuổi một chiến
lược khoa học và công nghệ nhất quán và rõ ràng chiến lược khoa học và công nghệ
đó đã góp phần làm cho các nước ấy có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.
Đối với các nước đang phát triển, xuất phát điểm cho việc xây dựng Chiến lược
là lấy kinh tế - xã hội làm mục tiêu, lấy khoa học - công nghệ làm phương tiện. Các
nội dung chiến lược thường xác lập và dự báo bối cánh phát triển kinh tế - xã hội ,
môi trường, khoa học và công nghệ trong nước và thế giới cho từng thời kỳ (chẳng
hạn: 10 năm). Trên cở sở đó, hoạch định những mục tiêu phát triển khoa học và


25

×