Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 so sánh với chính thể một số nớc trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 128 trang )

Mục lục
Phần mở đầu
Chơng 1. chính thể nhà nớc - nội dung cơ bản của hiến
pháp
1.1. Khái quát về chính thể nhà nớc
1.2. Phân loại hình thức chính thể
1.3. Việc quy định chính thể trong các hiến pháp
1.4. Sự biến dạng của chính thể
Chơng 2. Chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 so sánh với
chính thể một số nớc trên thế giới
2.1. Khái quát về chính thể Nhà nớc Việt Nam Hiến pháp 1946
2.1.1. T tởng về các mô hình chính thể Nhà nớc ở Việt Nam trớc cách
mạng tháng Tám 1945
2.1.2. Cơ sở lý luận, thực tiễn và đặc điểm của chính thể cộng hoà dân
chủ nhân dân Hiến pháp 1946
2.2. Sự giống nhau và khác nhau của chính thể Hiến pháp 1946
với chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị và chính thể cộng
hoà tổng thống
2.2.1. Về Nguyên thủ quốc gia
2.2.2. Về Quốc hội
2.2.3. Về Chính phủ
2.2.4. Về T pháp
Chơng 3. Sự kế thừa, phát triển chính thể hiến pháp 1946
trong các hiến pháp việt nam và một số kiến nghị về
hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức nhà nớc
việt nam hiện nay
1
3.1. Sự kế thừa và phát triển chính thể Hiến pháp 1946 trong các
Hiến pháp Niệt Nam
3.1.1. Về tính chất của nhà nớc
3.1.2. Về các quyền tự do, dân chủ của công dân


3.1.3. Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nớc
3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô
hình tổ chức Nhà nớc Việt Nam hiện nay
3.2.1. Hình thành một hệ thống lý luận độc lập về mô hình tổ chức nhà
nớc.
3.2.2. Xác định chính thể Việt Nam hiện nay
3.2.3. Nhận thức đúng đắn nguyên tắc cả quyền lực thuộc về nhân dân,
quyền lực nhà nớc là thống nhất
3.2.4. Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, t
pháp
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
2
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử tồn tại lâu đời của nhà nớc, vấn đề trọng tâm của bất cứ
nhà nớc nào là việc tổ chức và thực hiện quyền lực của nhà nớc nh thế nào. Lý
luận và thực tiễn đã chứng mình rằng, một nhà nớc mà có cơ chế tổ chức và
thực hiện quyền lực dựa trên những luận cứ khoa học và phù hợp với những
đòi hỏi khách quan thì nhà nớc đó sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Ngợc lại,
việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc nếu chỉ dựa trên ý chí chủ quan
không có căn cứ khoa học thì sớm hay muộn chế độ nhà nớc đó cũng sẽ bị
diệt vong.
Chính vì vậy, vấn đề tìm ra một mô hình tổ chức nhà nớc khoa học phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nớc và quốc tế là công việc chính yếu của
bất kỳ một nhà nớc nào trong quá khứ, hiện tại cũng nh tơng lai.
Trong tiến trình lịch sử, ở các quốc gia khác nhau, việc nghiên cứu, tìm
tòi, sáng tạo ra các mô hình, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc tối
u, có hiệu qủa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của hiến pháp

- một đạo luật cơ bản của quốc gia, có vị trí tối cao, mà chỉ trong giai đoạn
phát triển của nhà nớc hiện đại thì mới hội đủ các điều kiện để hiến pháp xuất
hiện.
Trong một bản hiến pháp bao gồm nhiều chế định khác nhau quy định
những vấn đề cơ bản của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc và
những vấn đề cơ bản khác. Trong đó, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của bất
cứ một bản hiến pháp nào là vấn đề hình thức chính thể nhà nớc. Hình thức
chính thể nhà nớc là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao,
cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng nh mức độ
tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
ở trên thế giới, sự xuất hiện của hiến pháp đã có bề dày lịch sử, có
nhiều quốc gia đã có lịch sử lập hiến hàng trăm năm, đã có những đóng góp to
lớn cho nhân loại, đặc biệt là việc tìm ra các mô hình tổ chức quyền lực nhà n-
ớc có hiệu qủa.
So với thế giới, lịch sử lập hiến Việt Nam còn non trẻ.
Ngày 2/9/1945 tại quảng trờng Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập - một áng văn lập quốc vĩ đại, khai sinh ra nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nớc công nông đầu tiên ở Đông Nam á,
mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội. Ngày 6/1/1946, toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam đã đi
bầu cử Quốc hội đầu tiên của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày
9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá I, Quốc hội đã thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của nớc ta. Bản Hiến pháp đã đánh dấu một bớc ngoặt trên con
đờng phát triển của Nhà nớc và pháp luật Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới
cho cách mạng Việt Nam.
3
Hiến pháp 1946 thể hiện t tởng tài tình của Hồ Chí Minh và các đồng
chí của Ngời, một bản Hiến pháp không những khẳng định độc lập chủ quyền
của đất nớc, xây dựng một Nhà nớc dân chủ cộng hoà, đảm bảo tự do dân chủ
cho công dân, mà tinh thần và ý nghĩa của nó còn nguyên giá trị cho đến ngày

nay. Nhiều quy định của Hiến pháp 1946 đã đợc các Hiến pháp Việt Nam sau
này kế thừa và phát triển. Đặc biệt, sau khi Đảng và Nhà nớc ta thực hiện công
cuộc đổi mới, với sự ra đời của Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp 1992 đã minh chứng một cách rõ ràng cho điều đó. Đó là đã có sự
quay lại với những quy định của Hiến pháp 1946.
Trong Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra chính thể Nhà nớc
kiểu mới - một hình thức Nhà nớc dân chủ cộng hoà, Nhà nớc mà tất cả quyền
bính là thuộc toàn thể nhân dân, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo (Điều 1, Hiến pháp 1946).
Hồ Chí Minh đã để lại một di sản t tởng đồ sộ về Nhà nớc nói chung và
hình thức chính thể nói riêng. T tởng của Ngời là kim chỉ nam trong các giai
đoạn cách mạng Việt Nam. Mô hình Nhà nớc đợc tổ chức trên cơ sở t tởng Hồ
Chí Minh đã phát huy hiệu qủa trong sự nghiệp cách mạng. T tởng Hồ Chí
Minh về hình thức chính thể là một hệ thống quan điểm rõ ràng, thống nhất
phù hợp với đặc điểm và truyền thống Việt Nam dựa trên các điều kiện cụ thể
về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nớc ta và bối cảnh quốc tế, không chỉ có
giá trị trong quá khứ mà cả hiện tại và tơng lai. Khai thác t tởng Hồ Chí Minh
về hình thức chính thể Nhà nớc ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to
lớn trong công cuộc đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nớc hiện nay.
Việc nghiên cứu chính thể Hiến pháp 1946 sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
những giá trị chính thể, thấy đợc sự kế thừa và phát triển trong các Hiến pháp
Việt Nam. Cùng với việc nghiên cứu chính thể Hiến pháp năm 1946, chúng ta
nghiên cứu so sánh chính thể đó với chính thể của các nớc. Việc nghiên cứu so
sánh nh vậy sẽ cho phép chúng ta nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn các mô
hình chính thể. Muốn tìm ra một hình tổ chức quyền lực nhà nớc có hiệu quả,
cần phải so sánh, đối chiếu với nhiều mô hình tổ chức nhà nớc khác nhau, từ
đó chúng ta mới có điều kiện phân tích, lý giải tìm ra đợc những hạt nhân hợp
lý của các mô hình khác nhau. Trong điều kiện Đảng và Nhà nớc ta đang tiến
hành đổi mới hệ thống chính trị, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nớc,
xây dựng Nhà nớc Pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc làm đó là cấp bách và

hết sức cần thiết nhằm tìm ra mô hình tổ chức Nhà nớc có hiệu quả.
Với lý do nh vậy, tôi chọn đề tài: "Sự tơng đồng và sự khác biệt của
chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nớc trên thế
giới để thực hiện luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
ở nớc ta, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về Hiến pháp 1946
đã đợc các tác giả đề cập tới dới các góc độ khác nhau, ít nhiều có đề cập đến
hình thức chính thể, có thể kể đến nh: "Lịch sử lập hiến Việt Nam" của Tiến
4
sĩ Luật học Thái Vĩnh Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997.
Tác phẩm này chỉ đề cập một cách chung chung lịch sử lập hiến Việt Nam;
"Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt
Nam" của Văn phòng Quốc hội - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Nội dung
tác phẩm đề cập đến các bài viết độc lập của các tác giả khác nhau, tiếp cận d-
ới nhiều góc độ nên cha phản ánh đợc bản chất pháp lý của vấn đề; Luận án
Tiến sĩ luật học "Lịch sử lập hiến Việt Nam" của Lê Hữu Thể, Luận án nêu
lên quá trình lịch sử lập hiến của Việt Nam, đã có đề cập đến chính thể Hiến
pháp 1946 nhng chỉ ở mức độ khái quát. Các khoá luận tốt nghiệp bàn về giá
trị Hiến pháp 1946 và t tởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Hiến pháp
1946. Các ấn phẩm này đã đề cập đến việc nghiên cứu chính thể Việt Nam
Hiến pháp 1946, nhng mới chỉ dừng lại mức độ cung cấp thông tin, t liệu mà
cha đi sâu phân tích luận giải.
Bên cạnh đó, còn có các ấn phẩm khác bàn về t tởng Nhà nớc và pháp
luật của Hồ Chí Minh, có thể kể đến tác phẩm: "Chủ tịch Hồ Chí Minh sự
nghiệp xây dựng Nhà nớc kiểu mới và pháp luật ở Việt Nam" của Nguyễn
Ngọc Minh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 1982; "Nghiên cứu t tởng
Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật" do Bộ T pháp là cơ quan chủ trì, Hà
Nội 1993; "Hồ Chủ Tịch trong sự nghiệp xây dựng Nhà nớc và nền pháp lý
dân chủ, xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Hội Luật gia Việt Nam; "Pháp
quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh" của vụ Vũ Đình Hoè, Nhà xuất bản Văn hoá

Thông tin.
Đặc biệt, năm 1992, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nớc đã quyết định đa vào
chơng trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nớc về t tởng Hồ Chí Minh với đề
tài: "T tởng Hồ Chí Minh Nhà nớc của dân, do dân, vì dân"
Ngoài ra, còn có các bài viết trên các sách báo chính trị pháp lý đề cập
đến Hiến pháp 1946, t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật. Nội dung
của các ấn phẩm này đã phần nào lý giải những vấn đề cơ bản của t tởng Hồ
Chí Minh về Nhà nớc nói chung và hình thức chính thể nói riêng. Tuy nhiên,
do tiếp cận vấn đề ở các góc độ khác nhau nên bản chất pháp lý của vấn đề ch-
a đợc soi rọi thấu đáo.
Còn về sự so sánh giữa chính thể Việt Nam trong Hiến pháp năm 1946
với chính thể các nớc khác thì cha có một công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống, mà nó chỉ đợc đề cập một cách rời rạc trong
các công trình, ấn phẩm, các sách báo chính trị pháp lý với nội dung khái
quát, cha có sự đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá.
Nhìn chung, các ấn phẩm đã xuất bản chỉ đề cập một cách khái quát,
chung chung đến chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 và hầu nh cha nghiên
cứu nhiều đến sự so sánh chính thể đó chính thể các nớc. Do đó, cần phải có
một công trình khoa học độc lập nghiên cứu về chính thể Việt Nam Hiến pháp
1946 và sự so sánh chính thể với các nớc, trên cơ sở đó đa ra luận cứ lý luận
nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nớc Việt Nam trong giai đoạn mới.
5
3. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc về Nhà nớc và pháp luật. Tuy
nhiên, chúng tôi cũng mạnh dạn nghiên cứu những t tởng của các học giả t sản
và các học giả trong chế độ Sài Gòn "cũ" nhằm chắt lọc những đóng góp của
họ trên phơng diện chính thể nhà nớc.
Những tri thức của khoa học Lý luận về Nhà nớc và pháp luật đợc vận

dụng trong quá trình nghiên cứu. Những tri thức khoa học Luật Hiến pháp,
đặc biệt những tri thức về hình thức chính thể nhà nớc đợc sử dụng nhiều nhất
trong quá trình thực hiện đề tài. Đề tài cũng sử dụng những tri thức về luật học
so sánh trong quá trình thực hiện.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của các ngành sử học, chính trị
học, triết học, Hồ Chí Minh học, xã hội học pháp luật cũng đợc sử dụng trong
quá trình nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học này
đợc sử dụng làm cơ sở lý luận để đa ra những kết luận độc lập dới góc độ của
luật học.
3.2. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng các phơng pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, tiếp cận
hệ thống.
4. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến chính thể
Việt Nam Hiến pháp 1946. Nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về hình thức
chính thể nhà nớc. Nghiên cứu trong sự so sánh với chính thể các nớc, so sánh
với chính thể và sự kế thừa, phát triển chính thể nhà nớc trong các Hiến pháp
Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một bản luận văn cao học, đề tài chỉ tiếp cận trên phơng
diện luật học chính thể Nhà nớc Việt Nam và t tởng Hồ Chí Minh về hình thức
chính thể Nhà nớc Hiến pháp 1946.
Trong nghiên cứu so sánh chính thể một số nớc, đề tài chỉ nghiên cứu
lựa chọn với một số nớc đại diện cho các hình thức chính thể, hệ thống pháp
luật, đờng lối chính trị.
Các thiết chế nh Quốc hội (cơ quan đại diện), Chủ tịch nớc (nguyên thủ
quốc gia), Chính phủ, Toà án chỉ nghiên cứu ở mức độ cho phép xác định hình
thức chính thể Nhà nớc chứ không đi vào nghiên cứu chi tiết cụ thể. Những

kiến giải của đề tài cũng không đi vào những vấn đề cụ thể của từng chế định
6
chính trị mà chỉ giải quyết những vấn đề tạo cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện
mô hình tổ chức nhà nớc.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Trong điều kiện mà chúng ta đang đổi mới hệ thống chính trị, hoàn
thiện mô hình tổ chức nhà nớc thì việc nghiên cứu đề tài: "Sự tơng đồng và
sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của
một số nớc trên thế giới nhằm mục đích:
- Khẳng định giá trị to lớn, đặc biệt là giá trị chính thể của Hiến pháp
1946, khẳng định sự sáng tạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng
chí của Ngời trong việc xây dựng Nhà nớc kiểu mới.
- Nghiên cứu tìm ra sự giống nhau và khác nhau của chính thể Việt
Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nớc khác nhau đại diện cho các
hình thức chính thể, chế độ chính trị, hệ thống pháp luật. Từ đó có một cách
đánh giá khách quan hơn các mô hình chính thể khác nhau, ở chừng mực nhất
định lựa chọn đợc mô hình tổ chức nhà nớc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
Việt Nam.
- Qua nghiên cứu chính thể Hiến pháp 1946, ta cũng thấy đợc sự kế
thừa, phát triển chính thể trong các Hiến pháp Việt Nam.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đối tợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm
vụ:
- Nghiên cứu vị trí, vai trò của chính thể nhà nớc trong hiến pháp.
- So sánh chính thể Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nớc tiêu
biểu làm đại diện.
- Nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể Hiến pháp Việt
Nam.
- Nghiên cứu sự kế thừa và phát triển chính thể Hiến pháp 1946 đối với

các Hiến pháp Việt Nam.
6. Kết quả và đóng góp của luận văn
- Luận văn đã cố gắng hệ thống hóa nội dung, t tởng chính thể Nhà nớc
Hiến pháp 1946, làm rõ thêm những giá trị khoa học về mặt lý luận cũng nh
thực tiễn chính thể Nhà nớc Việt Nam Hiến pháp 1946 trên cơ sở kế thừa có
chọn lực những công trình của các tác giả đi trớc, đồng thời đa ra những nhận
xét, phân tích, đánh giá khoa học có tính độc lập.
- Bớc đầu luận văn đã so sánh, có sự phân tích, đánh giá chính thể Việt
Nam Hiến pháp 1946 với chính thể một số nớc, từ đó đa ra kết luận khoa học
về các mô hình chính thể.
7
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho học tập, nghiên cứu và cho những
ai quan tâm.
- Luận văn đã bớc đầu tập hợp một hệ thống danh mục các tài liệu tham
khảo trong và ngoài nớc nhằm cung cấp một lợng thông tin cần thiết cho
những ai quan tâm học tập, nghiên cứu trong lĩnh vực này.
7. ý nghĩa thực tiễn.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện những tri thức,
những hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn những giá trị chính thể của Hiến
pháp 1946 đối với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nớc và
pháp luật Việt Nam.
Trên cơ sở so sánh chính thể Hiến pháp 1946 với chính thể các nớc đã
góp phần bổ sung thêm tri thức về các loại hình chính thể nhà nớc khác nhau,
có thể lựa chọn, tiếp thu những mặt mạnh, mặt tích cực của các mô hình chính
thể nhà nớc, từ đó có thể đa ra đợc mô hình tổ chức nhà nớc tham khảo, vận
dụng và hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nớc Việt Nam.
8
Chơng 1
chính thể nhà nớc - Nội dung cơ bản
của hiến pháp

1.1. Khái quát về chính thể nhà nớc.
Nội dung và hình thức là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của triết
học cùng với ba quy luật cơ bản tạo nên phép duy vật biện chứng của triết học
Mác - Lênin.
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật. Hình thức là phơng thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tơng đối bền vững giữa các yếu tố của nó [44;185].
Hình thức nhà nớc là một trong những phạm trù cơ bản của khoa học về
nhà nớc và pháp luật. Hình thức nhà nớc là một vấn đề quan trọng của nhiều
ngành khoa học xã hội. Hình thức nhà nớc đợc các ngành khoa học xã hội
khác nhau quan tâm nghiên cứu nh triết học, sử học, chính trị học, luật học
Đặc biệt, đối với khoa học pháp lý, hình thức nhà nớc là một vấn đề cơ bản,
quan trọng mà luật học nghiên cứu. Trong các ngành khoa học pháp lý có thể
kể ra các ngành khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nớc nh: Lý luận
chung về nhà nớc và pháp luật; Lịch sử nhà nớc và pháp luật thế giới, cũng nh
lịch sử nhà nớc và pháp luật của từng nớc; luật Hiến pháp Trong đó, khoa
học luật Hiến pháp là ngành khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nớc,
và hình thức nhà nớc trở thành một nội dung nghiên cứu cơ bản, quan trọng
của khoa học luật Hiến pháp.
Trong ngành luật Hiến pháp nói chung và đạo luật Hiến pháp nói riêng,
hình thức nhà nớc là một nội dung cơ bản, cốt lõi tạo thành đối tợng nghiên
cứu chủ yếu của chúng. Đối tợng nghiên cứu của một đạo luật thờng là đối t-
ợng nghiên cứu chủ yếu của ngành luật đó, hay nói cách khác, đối tợng nghiên
cứu của đạo luật gần nh trùng khít với đối tợng nghiên cứu của ngành luật mà
đạo luật đó là nội dung cơ bản. Trong ngành luật Hiến pháp cũng vậy, đối t-
ợng nghiên cứu của đạo luật Hiến pháp là nội dung cơ bản của đối tợng
nghiên cứu của ngành luật Hiến pháp. Vậy hình thức nhà nớc là gì? Mối quan
hệ giữa hình thức nhà nớc với kiểu nhà nớc và bản chất của nhà nớc là nh thế
nào?
Hình thức nhà nớc là thuật ngữ chuyên ngành luật Hiến pháp nhằm khái

quát hoá mô hình nhà nớc thông qua những đặc điểm thể hiện nội dung bên
trong của cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các tổ chức cấu thành nhà nớc
[2;71].
Từ khái niệm trên, ta có thể thấy đợc các dấu hiệu của hình thức nhà n-
ớc.
9
+ Hình thức nhà nớc khái quát lên một mô hình nhà nớc với cách thức
tổ chức quyền lực nhà nớc ấy, tức là phơng thức chuyển ý chí giai cấp thống
trị thành ý chí nhà nớc.
+ Hình thức nhà nớc thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
nhà nớc, cũng nh mức độ tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nớc.
Hình thức nhà nớc do bản chất nhà nớc và nội dung nhà nớc quy định.
Nếu bản chất nhà nớc chỉ rõ quyền lực nhà nớc thuộc về ai, phục vụ lợi ích
cho giai cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội thì hình thức nhà nớc nói lên cách
thức tổ chức quyền lực nhà nớc ấy, tức là phơng thức chuyển ý chí của giai
cấp thống trị thành ý chí của nhà nớc.
Hình thức nhà nớc đợc quy định bởi kiểu của nhà nớc. Hình thức nhà n-
ớc là cách thức tổ chức quyền lực nhà nớc, là phơng thức tồn tại và phát triển
của nhà nớc, là mối quan hệ giữa các yếu tố của nó. Kiểu nhà nớc là tổng thể
các dấu hiệu cơ bản của nhà nớc thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và
những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nớc trong một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định [29;46].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu xã hội dựa trên một phơng
thức sản xuất nhất định. Tơng ứng với một kiểu quan hệ sản xuất là một tổng
thể đặc thù các quan hệ t tởng chính trị và một kiểu thiết chế chính trị - pháp
lý nhất định. Nhà nớc là một bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thợng
tầng, cho nên bản chất, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy nhà nớc, hình thức nhà
nớc Xét đến cùng đều đợc quy định bởi cơ sở kinh tế. Do đó, tơng ứng với
một kiểu quan hệ sản xuất (cơ sở kinh tế) là một kiểu nhà nớc thích ứng.
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở của

việc phân chia các nhà nớc tồn tại trong lịch sử thành các kiểu nhà nớc khác
nhau. Học thuyết Mác - Lênin đã chia lịch sử hình thành và phát triển của xã
hội loài ngời thành năm hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Chỉ trong hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyển thuỷ là hình thái đầu tiên mà ở đó cha có
các điều kiện kinh tế - xã hội để nhà nớc xuất hiện. Còn bốn hình thái kinh tế
xã hội sau này, mỗi hình thái đều tơng ứng với một kiểu nhà nớc nhất định
thích ứng với các điều kiện kinh tế - xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Mỗi một
kiểu nhà nớc đó lại chứa đựng trong mình nó một bản chất nhà nớc. Nhng bản
chất nhà nớc trong một kiểu nhà nớc có thể là một, ngợc lại hình thức nhà nớc
thể hiện bản chất nhà nớc thì lại rất đa dạng và phong phú. Ví dụ, cùng thể
hiện một bản chất của kiểu nhà nớc chiếm hữu nô lệ trong hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nô lệ nhng hình thức nhà nớc lại thể hiện hết sức phong phú,
nh: cộng hoà dân chủ; cộng hoà quý tộc; quân chủ
Kiểu nhà nớc quy định hình thức nhà nớc, do đó, cùng một hình thức
nhà nớc giống nhau nhng tồn tại trong các kiểu nhà nớc khác nhau (các điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau) thì chúng có những đặc điểm, đặc tr-
ng rất khác nhau. Ví dụ, trong mọi kiểu nhà nớc đều có một nền cộng hoà.
Nhng bản chất của nhà nớc cộng hoà chủ nô tồn tại trong hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nô lệ có những đặc điểm khác xa bản chất nhà nớc cộng hoà t
sản mà hình thái kinh tế xã hội t bản chủ nghĩa là cơ sở kinh tế cho nhà nớc đó
10
tồn tại. Nh vậy, trong quan hệ giữa kiểu nhà nớc và hình thức nhà nớc thì kiểu
nhà nớc là yếu tố quyết định. Đó là vì hình thức nhà nớc bị quy định bởi cơ sở
kinh tế - xã hội của một kiểu nhà nớc nhất định và bản chất giai cấp tồn tại
trong hình thái kinh tế xã hội đó.
Ngoài ra hình thức nhà nớc còn phụ thuộc vào:
+ Trình độ phát triển kinh tế xã hội, do tích luỹ t bản trong lòng xã hội
phong kiến mà phát triển lực lợng sản xuất t bản chủ nghĩa hình thành nên
kiểu quan hệ sản xuất mới - kiểu quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa ngay trong
lòng xã hội phong kiến. Do đó, vào giai đoạn cuối của xã hội phong kiến đã

hình thành một hình thức nhà nớc quân chủ chuyên chế.
+ Tơng quan lực lợng giai cấp, trong cuộc cách mạng t sản của một số
nớc, do lực lợng cách mạng của giai cấp tài sản không đủ mạnh để đánh đổ
hoàn toàn giai cấp phong kiến còn cha bị suy yếu nhiều. Để tồn tại, hai lực l-
ợng chính trị này đứng ra thoả hiệp với nhau nhằm phân chia quyền lực và
hình thành nên nhà nớc quân chủ lập hiến.
+ Truyền thống lịch sử và sự tác động của bối cảnh quốc tế. Các nhà n-
ớc này từ khi đợc hình thành và phát triển cho đến nay vốn đã vậy mà không
có sự thay đổi nhiều về hình thức nhà nớc. Ví dụ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
Cộng hoà Liên bang Đức, khi sinh ra đã là nhà nớc liên bang; các nhà nớc
nh Vơng quốc Anh, Nhật Bản, Thái Lan, do một truyền thống lâu đời là nhà
nớc quân chủ, các hình thức truyền ngôi, thế tập đã ăn sâu vào tiềm thức của
các thế hệ ngời dân của các nớc đó.
+ Do ảnh hởng của các vấn đề dân tộc, sắc tộc trong một quốc gia, thì
vấn đề dân tộc, sắc tộc và việc giải quyết những vấn đề đó sẽ ảnh hởng đến
việc lựa chọn một hình thức nhà nớc thích hợp: nhà nớc đơn nhất hay nhà nớc
liên bang, và trong nhà nớc đó có thành lập khu tự trị hay không. Điều đó
hoàn toàn phụ thuộc vào việc giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc.
+ Và yếu tố cuối cùng, là do hậu quả việc xâm lợc của thực dân, đế
quốc, mà các nhà nớc thuộc địa sau khi giành độc lập có hình thức nhà nớc bị
ảnh hởng tác động bởi hình thức nhà nớc của nhà nớc mẫu quốc. Ví dụ, sau
khi giành độc lập từ thực dân Pháp thì Nhà nớc Angiêria là một Nhà nớc cộng
hoà đại nghị, hay sau khi giành độc lập từ Vơng quốc Anh thì Nhà nớc
Pakixitan vẫn duy trì chế độ quân chủ [2;75].
Nh đã nói ở trên, hình thức nhà nớc bị quy định bởi bản chất nhà nớc,
kiểu nhà nớc trong một hình thái kinh tế xã hội (cơ sở kinh tế) nhất định. Nh-
ng hình thức nhà nớc không chỉ phản ánh một cách thụ động các điều kiện
kinh tế - xã hội, mà ngợc lại hình thức nhà nớc tác động trở lại đối với các
hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Việc tác động trở
lại của hình thức nhà nớc mang tính tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào

mô hình tổ chức, cách thức tổ chức quyền lực nhà nớc mà giai cấp thống trị
lựa chọn để biến ý chí của giai cấp mình thành ý chí của nhà nớc. Sự tác động
đó là tích cực khi giai cấp cầm quyền lựa chọn đợc một hình thức nhà nớc phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong đó nó tồn tại, khi đó, nó sẽ tạo động
lực cho đất nớc phát triển. Ngợc lại, khi hành thức nhà nớc đó đã lỗi thời,
11
không còn phù hợp nữa hoặc có thể là một hình thức nhà nớc đợc xây dựng
qúa cao so với điều kiện mà đất nớc cha đạt tới. Điều đó, ngợc lại, sẽ dẫn tới
sự kìm hãm phát triển của xã hội, dẫn tới nhiều hậu của kinh tế xã hội tiêu cực
khó có thể mà lờng tới. Do đó, vấn đề đặc biệt quan trọng khi lựa chọn hình
thức nhà nớc, những ngời cầm quyền phải xuất phát từ các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nớc. Ngoài các yếu tố đó ra, khi lựa chọn hình thức
nhà nớc chúng ta phải biết kết hợp với các yếu tố khác nữa nh: trình độ phát
triển kinh tế xã hội; tơng quan lực lợng giai cấp; lịch sử truyền thống dân tộc;
bối cảnh quốc tế; xu hớng của thời đại; các vấn đề dân tộc, sắc tộc;
Hình thức nhà nớc bao gồm hai yếu tố: hình thức chính thể và hình thức
cấu trúc. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên
cứu vấn đề hình thức chính thể nhà nớc, còn hình thức cấu trúc nhà nớc chỉ đ-
ợc xem xét, tìm hiểu ở những khía cạnh, phơng diện nhất định nhằm làm sáng
tỏ hình thức chính thể nhà nớc.
1.2. Phân loại hình thức chính thể
Khi phân tích các hình thức chính thể, chủ yếu chúng ta tập trung vào
mô hình nhà nớc, trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nớc ở
trung ơng: nguyên thủ quốc gia; lập pháp; hành pháp; t pháp. Trong đó, đầu
tiên chúng ta xem xét nguyên thủ quốc gia, sau đó là mối quan hệ giữa
nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nớc khác.
Do đó, để phân biệt các mô hình chính thể nhà nớc, trớc hết chúng ta
dựa vào cách thức thành lập hay là nguồn gốc của nguyên thủ quốc gia cũng
nh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chức vụ đó.
Dựa trên cơ sở đó, hình thức chính thể đợc bao gồm hai dạng cơ bản là

chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà
ở đó nguyên thủ quốc gia do thế tập, quyền ngôi mà ra, quyền lực nhà nớc có
nguồn gốc thần bí, từ cõi h vô, do thợng đế định đoạt. ở chính thể này, quyền
lực nhà nớc tối cao tập trung toàn bộ hay một phần trong tay ngời đứng đầu
nhà nớc (vua, hoàng đế ), và nhà nớc đó là nhà nớc quân chủ. Chính thể cộng
hoà là chính thể mà nguyên thủ quốc gia do bầu cử (trực tiếp hoặc gián tiếp)
lập nên, và nguồn gốc của quyền lực nhà nớc xuất phát từ nhân dân. Quyền
lực nhà nớc đợc thực hiện bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời
hạn nhất định, và nhà nớc đó gọi là nhà nớc cộng hoà.
Chính thể quân chủ đợc chia thành quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn
chế. Chính thể quân chủ tuyệt đối là chính thể mà quyền lực nhà nớc tập trung
vào ngời đứng đầu nhà nớc. Vua, hoàng đế có quyền lực vô hạn định mà
không bị hạn chế bởi bất cứ một giai cấp, một thế lực quyền thế hay một cá
nhân nào. Còn trong nhà nớc quân chủ hạn chế, quyền lực nhà nớc tối cao
không chỉ đợc trao cho ngời đứng đầu nhà nớc mà còn đợc trao (đợc phân
chia) cho các cơ quan cấp cao khác một cách hạn chế, ví dụ, nghị viện trong
12
chính thể quân chủ lập hiến hay hội nghị đại diện đẳng cấp thờng thấy xuất
hiện trong một số nhà nớc phong kiến.
Trong chính thể quân chủ hạn chế (quân chủ lập hiến) lại đợc chia ra
thành hai hình thức chính thể nhà nớc: quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại
nghị.
Quân chủ nhị nguyên là loại hình tổ chức nhà nớc, trong đó quyền lực
nhà nớc đợc chia đều cho hai cơ quan trong cấu trúc quyền lực nhà nớc, đó là
quyền lực của cá nhân nhà vua và quyền lực của tập thể nghị viện. Đây là loại
hình chính thể nhà nớc xuất hiện sau các cuộc cách mạng t sản, là mô hình tổ
chức nhà nớc chuyển tiếp từ nhà nớc phong kiến sang nhà nớc t sản, và nó tồn
tại không lâu trong thực tế. Các bộ trởng đều do vua bổ nhiệm, vừa chịu trách
nhiệm trớc nhà vua, vừa chịu trách nhiệm trớc nghị viện.
Hình thức nhà nớc quân chủ hạn chế thứ hai là quân chủ đại nghị. ở

chính thể này, nguyên thủ quốc gia là vị hoàng đế đợc thành lập theo phơng
thức thế tập, truyền ngôi kế thừa cho con cháu. Bộ máy hành pháp đợc thành
lập và hoạt động khi nào vẫn còn có tín nhiệm của nghị viện.
Chính thể cộng hoà cũng có hai hình thức chủ yếu là cộng hoà dân chủ
và cộng hoà quý tộc. Trong nhà nớc cộng hoà dân chủ, pháp luật quy định
quyền của công dân tham gia bầu cử thành lập các cơ quan đại diện của nhà n-
ớc. Trong nhà nớc cộng hoà quý tộc (dới chế độ nô lệ và chế độ phong kiến),
quyền tham gia bầu cử để thành lập các cơ quan đại diện của nhà nớc chỉ dành
riêng cho giới quý tộc và những ngời có của, và quyền đó đợc quy định trong
pháp luật.
Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà trong những giai đoạn lịch sử
cụ thể có những đặc điểm khác nhau phụ thuộc vào các hình thái kinh tế xã
hội (cơ sở kinh tế) mà nó tồn tại với các kiểu nhà nớc tơng ứng, và còn phụ
thuộc vào các hoàn cảnh cụ thể của từng xã hội, nh: trình độ phát triển của lực
lợng sản xuất; truyền thống lịch sử, văn hoá, xã hội; tơng quan lực lợng giai
cấp; Do đó, khi phân biệt các hình thức chính thể ta không những chỉ phân
biệt chúng trong các chế độ nô lệ, phong kiến, t bản, xã hội chủ nghĩa mà còn
có các biến dạng của chúng phụ thuộc vào các yếu tố nêu trên.
Trớc khi đi vào phân loại các hình thức chính thể, đầu tiên chúng ta sẽ
xem xét một cách khái quát vấn đề sự lựa chọn ngời cầm quyền và cơ cấu tổ
chức chính quyền.
* Sự lựa chọn ngời cầm quyền
Giá trị của một chế độ tuỳ thuộc phần lớn vào những ngời cầm quyền
trong chế độ ấy. Nếu lựa chọn đợc những ngời tiêu biểu cho chế độ sẽ giúp
cho việc giữ vững và phát huy đợc bản chất của chế độ đó, đa đất nớc tiến lên
phía trớc. Ngợc lại, nếu những ngời cầm quyền không đợc lựa chọn một cách
thích hợp và phù hợp với chế độ sẽ là một lực cản lớn cho sự phát triển của đất
nớc và cho sự bền vững của chế độ đó.
Trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những yếu tố truyền
thống lịch sử, trình độ phát triển khác nhau thì phơng pháp lựa chọn ngời

13
cầm quyền là khác nhau. Do vậy, các phơng pháp lựa chọn ngời cầm quyền đã
trở thành một trong những nền tảng của chế độ. Các phơng pháp đợc áp dụng
cho tới nay, trên phơng diện tích cực là nhằm để hạn chế quyền lực, ngăn chặn
chúng không đi đến chỗ lạm dụng, đồng thời cũng là nhằm thực hiện những
yêu sách của chủ nghĩa tự do. Xét đến cùng, sự khác biệt sâu rộng của những
chính thể, chế độ chính trị khác nhau là dựa trên phơng thức, cách thức lựa
chọn những ngời cầm quyền có xuất phát từ những hình thức tự do, dân chủ
hay không.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều phơng pháp, cách thức để lựa chọn những
ngời cầm quyền của một quốc gia: phơng pháp truyền ngôi kế vị; bầu cử tự
do; bầu cử hội đồng tuyển trạch lựa chọn; hay do sự chinh phục bằng võ lực,
Chung quy lại, ngời ta có thể tập hợp những phơng pháp trên thành hai loại
phơng pháp cơ bản. Thứ nhất, nếu việc lựa chọn những ngời cầm quyền đợc
giao cho dân chúng (có thể bằng hình thức trực tiếp hay gián tiếp) thì phơng
pháp này đợc gọi là dân chủ. Thứ hai là, nếu sự lựa chọn đó đã lọt khỏi tay
dân chúng mà rơi vào một hoặc một số cá nhân hay những nhóm ngời có thế
lực thì đó là phơng pháp phi dân chủ hay đợc mệnh danh là độc tài.
Những phơng pháp thứ nhất (phơng pháp dân chủ) phù hợp với chủ
nghĩa tự do, là cơ sở của nền tảng dân chủ bởi vì chúng làm hạn chế quyền lực
của những ngời cai trị, làm tiêu diệt chủ nghĩa độc đoán cá nhân. Những ph-
ơng pháp thứ nhì thì trái lại, chúng thích nghi với chủ nghĩa độc đoán, chuyên
quyền, là điều kiện cho những ngời cầm quyền thâu tóm quyền lực, và làm teo
tóp nền tảng tự do, dân chủ. Giữa hai phơng pháp đó, ngời ta lại tìm ra những
phơng pháp hỗn hợp trung hoà trong đó có kết hợp của sự lựa chọn dân chủ và
sự lựa chọn độc tài. Ngày nay, ở những nớc còn qúa lạc hậu hay ở những quốc
gia trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, ví dụ, ở một số nớc thờng thấy sự
thay đổi chính quyền bằng cách dùng lực lợng quân đội để làm đảo chính nh ở
Pakistan vào năm 2000 hay năm 1999 ở Miến Điện.
Trái lại, chế độ dân chủ ngày càng phát triển hơn thể hiện tính quy luật

của sự phát triển dân chủ. Về mặt lịch sử, chế độ dân chủ phát sinh trong
những đô thị Hy Lạp cổ đại, nhng đó chỉ là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ
chỉ với một nhóm thiểu số. Đó là vì rằng, chỉ những ngời tự do mới đợc có mặt
trong các hội nghị (các thiết chế dân chủ) để tham gia lựa chọn những ngời
đại diện. Những ngời nô lệ và những ngời thuộc tầng lớp dới của xã hội không
đợc hởng bất cứ một quyền dân sự, quyền chính trị nào.
Cùng với sự tiến triển của lịch sử, chế độ dân chủ cũng có những bớc
phát triển thăng trầm, nhng nhìn chung cha tạo ra đợc những đột biến lớn. Chỉ
đến khi nổ ra các cuộc cách mạng t sản, từ đó đã tạo ra bớc ngoặt to lớn cho
sự phát triển của chế độ dân chủ, hình thành nên một hình thức dân chủ mới.
Mà giai cấp t sản đã tuyên bố rằng, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
dân đợc quyền tham gia vào việc lựa chọn những ngời đại diện thành lập nên
các cơ quan nhà nớc. Vì tất cả công dân không thể tham gia chính phủ, họ sẽ
phải lựa chọn những ngời đại diện vào trong nghị viện, do đó mới có cụm từ
dân chủ đại nghị, đó là một chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ từ đây có cơ sở
14
và đồng nghĩa với những cuộc bầu cử trong một thời hạn nhất định những ngời
cầm quyền do dân chúng bầu lên. Những phơng pháp bầu cử cũng nh số
những nghị viện (cơ quan đại diện) có thể khác nhau ở những nớc khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia, và sự tổ chức, mối quan
hệ giữa cơ quan lập pháp với cơ quan hành pháp có thể không giống nhau do
các hình thức chính thể khác nhau nhng mục đích cuối cùng là tạo ra một chế
độ dân chủ khi mà những cuộc bầu cử ấy đợc tổ chức một cách tự do và thành
thật. Dới hình thức ấy, chế độ dân chủ lần đầu tiên đã trở thành tiêu chí mà
mọi quốc gia đều phải hớng tới, cũng lần đầu tiên nó đã chinh phục hầu hết
các nớc văn minh.
Từ khi ra đời, chế độ dân chủ đại nghị đã trải qua hai cuộc biến thiên
chính: đó là sự chấp nhận phổ thông đầu phiếu và sự xuất hiện của những
đảng chính trị có tổ chức. Trong thời kỳ khá lâu sau các cuộc cách mạng t sản,
chế độ dân chủ chỉ có tính cách cục bộ, khép kín, những ngời cầm quyền đợc

bầu lên chỉ bởi một nhóm thiểu số dân chúng (nhng ngời có của). Dần dần
cùng với sự phát triển, số cử tri đợc tăng lên do áp lực của những nguyên tắc
dân chủ.
Tuy nhiên, khi các chính đảng ra đời và tham gia vào bầu cử thì phần
nào nguyên tắc bầu cử dân chủ bị xâm phạm, bởi vì những ban lãnh đạo các
chính đảng có khuynh hớng muốn thay thế cho những ngời đợc bầu cử, hay
khi sự lựa chọn những ngời đại diện vào viện dân biểu lại đợc chuyển từ tay cử
tri qua tay các chính đảng.
Bây giờ, ta hãy nói tới những chế độ hỗn hợp (chế độ dung hoà giữa
độc tài và dân chủ).
Một chế độ đợc gọi là hỗn hợp khi những ngời cầm quyền đợc lựa chọn
bằng phơng pháp dung hoà. Cuộc bầu cử không hoàn toàn bị loại trừ, song nó
không đóng vai trò quyết định. Tuỳ thuộc vào phơng thức dung hoà ngời ta có
thể phân biệt những chế độ hỗn hợp sau: hỗn hợp bằng cách tiếp nối; hỗn hợp
bằng kết hợp; hỗn hợp bằng hợp nhất.
Thứ nhất, trong chế độ hỗn hợp bằng cách tiếp nối, ngời ta thấy hai cơ
quan chính quyền đứng bên nhau, một cơ quan có tính cách dân chủ và một cơ
quan có tính cách chuyên chế, có thể phân biệt chế độ này thành các hình thức
sau đây:
+ Sự nối tiếp giữa một nghị viện dân chủ và một vị vua có quyền độc
đoán, nghị viện do nhân dân bầu ra đứng bên cạnh một ngôi vua do cha truyền
con nối.
+ Sự tiếp nối trong nội bộ, cơ quan đại diện (nghị viện) đợc cơ cấu làm
hai viện: một viện do dân bầu ra, và một viện đợc chỉ định bởi một phơng
pháp độc đoán (nh do truyền ngôi, thế vị, do tuyển trạch hay đợc bổ nhiệm )
+ Sự tiếp nối giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán ở
trong cùng nội bộ một nghị viện (Thợng nghị viện Pháp năm 1875 bên cạnh
225 Thợng Nghị sĩ do dân bầu ra, còn có 75 Thợng nghị sĩ đợc lựa chọn theo
lối tuyển trạch).
15

Thứ hai, chế độ hỗn hợp do kết hợp, là chế độ mà trong đó có một cơ
quan chính quyền đợc chỉ định theo phơng pháp phức tạp vừa dân chủ, vừa
độc đoán. Đó là trờng hợp có cuộc "đầu phiếu để chuẩn y" một chính phủ đợc
lựa chọn theo một phơng pháp độc đoán nào đó (do bổ nhiệm, do thế vị, ).
Chính phủ ấy chỉ đợc tấn phong sau một cuộc bỏ thăm của dân chúng (trng
cầu dân ý) để chuẩn y sự lựa chọn đã đợc ấn định trớc. Ví dụ, ở Pakixtan vào
thánh 5/2002, Tổng thống đơng nhiệm (do đảo chính quân sự) Pevec
Maussarap muốn cầm quyền thêm một nhiệm kỳ nữa đã không tổ chức cuộc
tuyển cử tự do mà đa sự việc ra từng cầu dân ý một cách áp đặt.
Trong chế độ hỗn hiệp do kết hợp, một phơng pháp có thể gọi là có một
trình tự lựa chọn ngợc với phơng pháp trên, đó là phơng thức "đầu phiếu giới
thiệu". Sự bỏ phiếu của cử tri có mục đích đề nghị ra (lập danh sách ra) những
ứng cử viên để cho một cơ quan không phải là do dân bầu lựa chọn. Ví dụ,
điển hình hơn hết là việc lập "danh sách đợc tín nhiệm" mà Hiến pháp năm
thứ VIII của nớc Pháp đã ấn định. Theo quy định, dới hết là những cử tri dự
cuộc phổ thông đầu phiếu để lựa chọn một phần mời số ngời của họ lập thành
danh sách xã; những ngời trong danh sách xã sẽ bầu một phần mời số ngời
của mình để lập danh sách quận; rồi lại cũng theo thể thức ấy mà bầu lên trên.
Trong những danh sách này, Thợng nghị viện đợc thành lập do lối tuyển trạch
sẽ lựa chọn những ngời cầm quyền địa phơng và những Nghị sĩ trong Viện lập
pháp và Viện hộ dân.
Trong những trờng hợp trên, việc bổ nhiệm những ngời cầm quyền đợc
phân ra làm hai giai đoạn: một giai đoạn độc đoán và một giai đoạn dân chủ.
Thứ ba, chế độ hỗn hiệp do hiệp nhất, ở đây có một sự hoà đồng hoàn
toàn giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán. Việc bổ nhiệm,
lựa chọn những ngời cầm quyền không thể là dân chủ thuần tuý hay độc đoán
thuần tuý. Một mặt, phơng pháp ấy đi gần với chủ nghĩa tự do vì những ngời
cầm quyền đợc lựa chọn bởi chính số ít những ngời cầm quyền khác. Mặt
khác, nó xa biệt với dân chủ mà hớng tới độc tài vì chỉ một số ít dân chúng đ-
ợc tham gia bầu cử. Phơng pháp này là một phơng pháp mà những tính chất

dân chủ và những tính chất độc đoán đợc hoà hợp làm một theo một phơng
pháp đồng nhất.
Chế độ cuối cùng này đợc thực hiện trong hầu hết các nớc t bản trong
thời kỳ trớc và sau các cuộc cách mạng t sản nh là một chế độ giao thời từ độc
tài đến dân chủ. Bởi vì, chế độ dân chủ đợc phát triển, mở rộng theo thời gian,
ít khi có tình trạng đang hoàn toàn không có cuộc bầu cử dân chủ mà bớc qua
liền giai đoạn phổ thông đầu phiếu. Thờng thờng, quyền bầu cử ban đầu chỉ
trao cho một số ngời có đặc quyền, rồi dần dần đợc lan rộng đến những ngời
khác, sau mới ban hành cho tất cả các công dân.
* Cơ cấu chính quyền
Từ khi nhà nớc xuất hiện, với t cách là một tổ chức tập trung nhất của
quyền lực chính trị, nhà nớc thực hiện chức năng quản lý xã hội. Tuỳ thuộc
vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau, nhà nớc có vai trò quản lý xã hội khác
16
nhau, thậm chí trong cùng một hoàn cảnh lịch sử nhất định, có những nhà nớc
mở rộng vai trò quản lý xã hội của mình, lại cũng có những nhà nớc thu hẹp
phạm vi quản lý xã hội trong những lĩnh vực nhất định. Ví dụ, sau các cuộc
cách mạng t sản, nhà nớc t sản chỉ đóng vai trò là "ngời lính gác đêm" cho sự
phát triển của xã hội; ngợc lại, trong nhận thức cũ về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhà nớc vừa là ngời quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, vừa là
một tổ chức siêu kinh tế.
Nhng nhìn chung, theo sự phát triển của lịch sử, ở trên những phơng
diện khác nhau, vai trò của nhà nớc ngày càng đợc mở rộng và đợc đề cao. Đi
đôi với sự gia tăng vai trò của nhà nớc là những chức năng mới và nhiệm vụ
mới mà nhà nớc phải gánh vác, đảm nhận. Cùng với sự phát triển của xã hội
thì chức năng, nhiệm vụ của nhà nớc ngày càng nhiều thêm mãi, cơ cấu tổ
chức của chúng càng ngày càng đa dạng, phức tạp. Để giải quyết những chức
năng, nhiệm vụ đó đòi hỏi nhà nớc phải có một bộ máy cai trị tơng xứng với
chúng. Do vậy, trên phơng diện tổ chức chính quyền, sự cấu tạo của những cơ
quan nhà nớc trong hiến pháp ngày một đợc mở rộng và trở nên đa dạng, phức

tạp.
Cơ cấu tổ chức và mối liên hệ giữa những cơ quan nhà nớc có quan hệ
mật thiết và đợc thể hiện trên hai phơng diện: phơng diện kỹ thuật và phơng
diện chính trị. Về phơng diện kỹ thuật, mỗi nhiệm vụ phải đợc phân phối làm
sao cho chúng đợc hoàn thành một cách tốt nhất và phải điều hòa đợc hoạt
động của mỗi cơ quan cũng nh của cả hệ thống tổ chức nhằm bảo đảm sự nhất
trí và liên kết giữa chúng. Về phơng diện chính trị, cơ cấu tổ chức nhà nớc ảnh
hởng sâu rộng đến quyền hành mà nhà nớc sử dụng đối với công dân.
Dựa vào tính chất và cơ cấu của cơ quan nhà nớc, ngời ta phân chia
thành hai loại cơ quan chính quyền cơ bản:
Thứ nhất, những cơ quan đại diện (nghị viện), tức là những cơ quan làm
việc theo chế độ tập thể, trong đó, về nguyên tắc từng cá nhân không có quyền
hành gì.
Thứ hai, những cơ quan gồm có một ngời, hay một uỷ ban gồm một số
ngời, hay do sự kết hợp của một ngời và một uỷ ban. Ngời ta gọi loại cơ quan
này là cơ quan hành pháp hay chính phủ.
Căn cứ vào sự cấu tạo chính phủ, ngời ta phân chia ra ba loại chính phủ
- hành pháp điển hình: chế độ nhất quyền; chế độ chấp chính; chế độ lỡng
quyền. Sau đây chúng ta sẽ lần lợt nghiên cứu, tìm hiểu từng chế độ:
Chế độ nhất quyền, trong chế độ này, ông vua, nhà độc tài, vị hoàng đế
hay vị tổng thống, , những cá nhân này thâu tóm tất cả quyền hành chính phủ
vào tay mình. Về mụch đích, chế độ này đợc lựa chọn nhằm tăng cờng cho
công quyền quyền lực tập trung, tức là gia tăng quyền lực. Tuy nhiên, quyền
lực của chính phủ đợc khuyếch trơng nhiều hay ít, và quyền lực đó có nguồn
gốc xuất phát từ đầu cũng nh mối quan hệ của chính phủ với các cơ quan nhà
nớc khác tuỳ thuộc vào chế độ nhất quyền này là chế độ quân chủ độc tài hay
chế độ tổng thống (dân chủ).
17
Chế độ chấp chánh, quyền lực nhà nớc trong chế độ này tập trung vào
trong tay hai ngời đợc liên kết với nhau, bình đẳng về quyền hành và uy thế,

họ phải cùng nhau quyết định mới có giá trị, nếu một bên chống đối lại thì sẽ
làm tê liệt tất cả các sáng kiến của bên kia. Ngày nay, chế độ này không còn
tồn tại nữa, trớc đây nó tồn tại ở Nhà nớc La mã cổ đại, và tái sinh ở Nhà nớc
Pháp từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1943 khi ban giải phóng quốc gia Pháp đặt
dới quyền hai vị tớng: De Gaulie và Giraud
Chế độ chấp chính thịnh hành hơn cả là giao phó quyền hành chính phủ
cho một nhóm ít ngời, và có hai đặc điểm: trớc hết, là không có một ngời chủ
tịch trong tập thể quyền lực, không có lá thăm nào đợc u quyền, không có
đẳng cấp trong tập thể đó; thứ đến, là tính tập thể, về nguyên tắc mọi cá nhân
trong nhóm không có quyền hành riêng, mọi quyết định đều dựa theo quyết
định của tập thể mới có hiệu lực.
Trong khi hành động, chính phủ chấp chánh gặp phải những khiếm
khuyết rất lớn mang tính bản chất. Bởi vì, thông thờng một ngời trong nhóm
theo lẽ tự nhiên a lấn át quyền hành đối với những ngời khác mà có khuynh h-
ớng tiến tới giữ vai trò chủ tịch. Vã lại, trong chế độ này luôn luôn có sự phân
phối trách vụ theo khả năng chuyên môn của mỗi cá nhân khiến cho mỗi ngời
có một quyền và khả năng hành động độc lập nhiều hay ít. Chế độ này, xét
tổng quát là một nguyên nhân khách quan làm suy yếu quyền hành pháp. Vì
phải có một quyết định chung nên có sự chậm trễ. Hơn nữa, những sự cạnh
tranh cá nhân và những tranh giành nội bộ trong việc chiếm đoạt quyền lực đã
đa đến những hậu quả tai hại trong hoạt động của chính phủ.
Chế độ lỡng quyền, là một thể thức hoà hiệp giữa chính phủ chấp chánh
và chính phủ tổng thống. Trong chế độ này, ngời ta thấy có hai cơ quan cùng
song song tồn tại, đó là một vị quốc trởng độc lập bên cạnh một cơ quan tập
thể. Cơ quan tập thể này thờng đợc gọi là nội các, mà nhân viên của nó do
quốc trởng công cử, phần nhiều trong số đó là đảng viên của đảng phái chiếm
đa số trong quốc hội.
Nội các trong chế độ này có hai đặc điểm: trớc hết, nhân viên nội các đ-
ợc hởng một quyền tự trị khá rộng rãi đối với quốc trởng, dẫu là do quốc trởng
chỉ định, họ có thể dựa vào quốc hội mà chống lại quốc trởng. Trong hoạt

động của nội các, họ còn đợc độc lập quyết định trong phạm vi quyền hạn của
mình chứ không phải chỉ là phụ tá mà thôi; thứ đến, nội các làm việc theo chế
độ độc tập thể, mỗi nhân viên có một trạch vụ riêng biệt độc lập với các nhân
viên khác, song tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm trớc quốc trởng và trớc
nghị viện nên họ phải có những quyết định chung đối với các vấn đề quan
trọng, và về nguyên tắc, chính sách của mỗi cá nhân trong nội các không đợc
mâu thuẫn với chính sách của tập thể nội các.
Các nhân viên nội các đều có vị trí bình đẳng, đều có quyền quyết định
nh nhau, tuy nhiên, thờng có một ngời gây đợc u thế, ảnh hởng của mình đối
với nội các, đó là vị chủ tịch nội các hay thờng đợc gọi là thủ tớng. Thủ tớng
đợc quốc trởng chỉ định, quốc trởng không thể chỉ định ai khác ngoài thủ lĩnh
của đảng chiếm đa số trong nghị viện, nếu không có đảng nào chiếm đa số
18
trong nghị viện thì các đảng phải tiến hành liên minh với nhau để thành lập
chính phủ liên hiệp, chức vị thủ tớng nội các do các đảng thỏa hiệp chọn ra.
Thủ tớng thờng đợc trao quyền lựa chọn những nhân viên nội các rồi trình
quốc trởng chấp nhận. Đồng thời, thủ tớng đợc chủ toạ các buổi họp của nội
các khi quốc trởng không tham dự, và đợc nhân danh nội các phát biểu trớc
nghị viện.
Cơ cấu nghị viện.
Cơ cấu chính quyền tiếp theo mà chúng ta nghiên cứu đó là những nghị
viện (cơ quan đặc diện.)
Sự cấu tạo của các nghị viện mang những điển hình rất phức tạp, chúng
có thể đợc xếp thành nhiều loại. Chúng ta chỉ đề cập tới những loại nghị viện
có tính chất đặc trng, điển hình để giải thích nội dung các hình thức chính thể
nhà nớc.
Trớc hết, theo tính chất và vai trò của nghị viện trong hoạt động của bộ
máy nhà nớc, ta phân biệt nghị viện thành hai loại: những nghị viện chỉ có
quyền t vấn và những nghị viện có quyền nghị quyết''. Loại nghị viện thứ
nhất chỉ có thể phát biểu những ý kiến, hay đa ra những kiến nghị t vấn cho

hoạt động của chính phủ, mà chính phủ có thể tự do bỏ qua những ý kiến, kiến
nghị đó, trừ khi có uy tín và thẩm quyền kỷ thuật mà đa ra đợc những ý kiến
có sức nặng khiến cho chính phủ vị nể không thể bỏ qua. Loại nghị viện này
xuất hiện vào thời kỳ đầu của sự hình thành chế độ nghị viện, và hiện nay nó
vẫn còn tồn tại ở một số nớc kém phát triển và những nớc quân chủ chuyên
chế. Loại nghi vấn viện thứ hai mới thật sự có vai trò quan trọng hoạt động
của nhà nớc. Hoạt động của chính phủ đều phải dựa trên cơ sở những quyết
định của nghị viện, và chính phủ chỉ đợc phép hoạt động cho đến khi còn sự
tín nhiệm của nghị viện.
Thứ hai, theo chính thể, chúng ta phân biệt thành ba mô hình nghị viện:
nghị viện của những nớc theo chính thể đại nghị cả cộng hoà lẫn quân chủ;
nghị viện của những nớc theo chính thể cộng hoà tổng thống; nghị viện của
các nớc theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. [18;367]
Thứ ba, theo nguồn gốc của sự hình thành nghị viện, ta phân biệt thành
hai loại: những nghị viện dân chủ (do dân bầu); và những nghị viện độc đoán
(bổ nhiệm, tuyển trạch, gia truyền ). Theo lịch sử, những nghị viện độc đoán
ra đời trớc nhất và nó là tiêu biểu cho thế lực của giai cấp phong kiến đối với
nhà vua, mà thành phần của nghị viện bao gồm những ngời đại diện cho tầng
lớp quý tộc, tăng lữ, Tuy nhiên, cùng với thời gian, sự phát triển của họ đã
làm cho nhà vua phải dần dần nhợng bộ các đại biểu của chúng rồi nhóm họp
thành các nghị viện dân chủ với các phơng pháp bầu cử tự do.
Thứ t, theo cơ cấu tổ chức, nghị viện đợc tổ chức thành các mô hình,
một viện, hai viện, ba viện, [18;347]
Trên đây là sự đề cập chung nhất đến các mô hình chính thể, nh cơ cấu
tổ chức, trình tự thành lập, mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nớc trung ơng,
nguồn gốc của quyền lực nhà nớc và mức độ tham gia của nhân dân vào việc
19
thành lập các cơ quan nhà nớc. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét, đề cập tới một
số mô hình chính thể đặc trng, điển hình nhằm mục đích xây dựng cơ sở lí
luận về các mô hình chính thể phục vụ cho công việc nghiên cứu so sánh giữa

các chính thể đó với chính thể Nhà nớc Việt Nam Hiến pháp 1946. Đó là các
mô hình chính thể: chính thể đại nghị cả quân chủ lẫn cộng hoà; chính thể
cộng hoà tổng thống; chính thể cộng hoà hỗn hợp; chính thể cộng hoà xã hội
chủ nghĩa. Sau đây, chúng ta sẽ lần lợt phân tích, nghiên cứu từng mô hình
chính thể.
* Chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị .
Chính thể quân chủ đại nghị là mô hình tổ chức nhà nớc phổ biến ở các
nớc t bản phát triển. Đây là mô hình áp dụng học thuyết phân chia quyền lực
một cách mềm dẻo, tức là giữa lập pháp và hành pháp không có sự độc lập
tuyệt đối mà có sự kết hợp lẫn nhau trong quá trình tổ chức, thực hiện quyền
lực nhà nớc. ở chính thể này, nguyên thủ quốc gia là vị vua, hoàng đế đợc
truyền ngôi, thế tập cho con cháu. Chính phủ hành pháp đợc thành lập dựa
trên cơ sở nghị viện, và đợc hoạt động cho đến khi nào vẫn còn có sự tín
nhiệm của nghị viện. Các bộ trởng và ngời đứng đầu hành pháp phải chịu
trách nhiệm tập thể trớc nghị viện. Trong trờng hợp chính phủ không còn sự
tín nhiệm của nghị viện nữa, chính phủ có thể bị nghị viện lật đổ và phải ra đi
để thành lập chính phủ mới, đồng thời kèm theo vấn đề lật đổ chính phủ, thủ t-
ớng có thể đề nghị nguyên thủ quốc gia giải tán nghị viện trớc thời hạn. Nhà
vua, hoàng đế là nguyên thủ quốc gia thay mặt cho nhà nớc về đối nội và đối
ngoại nhng chỉ hoạt động một cách hết sức hình thức, và chủ yếu giữ vai trò là
biểu tợng cho sự bền vững, trờng tồn và hoà hợp dân tộc. Chính vai trò biểu t-
ợng này có tác dụng tâm lý cho sự tồn tại của chế độ hiện thời. Khi có chiến
tranh, nội chiến hay khủng hoảng xã hội thì nguyên thủ quốc gia là chổ dựa
vững chắc cho giai cấp thống trị và cho cả dân tộc.[2;79]. Bởi vì, không có
thực quyền nên nguyên thủ quốc gia đợc hầu hết các hiến pháp quy định
không phải chịu bất cứ một trách nhiệm nào, trừ tội phản bội tổ quốc. Trên
thực tế, việc thành lập và hoạt động của chính phủ đều nằm trong tay đảng
chiếm đa số ghế trong nghị viện, nếu không có đảng nào chiếm đa số ghế
trong nghị viện thì các đảng phải liên kết với nhau để thành lập chính phủ liên
hiệp. Cho nên, thực tế hoạt động, bao giờ chính phủ cũng khống chế nghị

viện, và chính phủ thâu tóm quyền lực vào tay mình. Vì vậy, chính phủ và
nghị viện (hạ nghị viện) không khác nào là hai cơ quan thuộc một đảng phái
chính trị cầm quyền, hay nói cách khác chính phủ là ban chấp hành của đảng
cầm quyền, còn các nghị sĩ là đảng viên của đảng cầm quyền.
Trong hiến pháp của nhiều nớc t sản quy định nghị viện có quyền luận
tội các quan chức có hàm bộ trởng, thủ tục đó đợc gọi là thủ tục đàn hạch. Thủ
tục đàn hạch ở nhiều nớc đợc quy định trong hiến pháp tuy có sự khác nhau,
nhng nhìn chung hạ nghị viện là cơ quan có quyền buộc tội, còn thợng nghị
viện là cơ quan có quyền luận tội. Chế độ chịu trách nhiệm của hành pháp trớc
lập pháp không phải ở chỗ chế độ chịu trách nhiệm của từng bộ trởng trớc
20
nghị viện mà là chế độ chịu trách nhiệm chính trị của toàn bộ chính phủ trớc
nghị viện, và là cơ sở cho việc chính phủ có thể bị quốc hội lật đổ.
Sở dĩ, đây là hình thức nhà nớc đợc nhiều nớc t bản phát triển áp dụng
là vì nó phù hợp với chế độ chính trị của nhà nớc t sản. ở đó, quyền lực nhà n-
ớc thuộc về giai cấp t sản thống trị và đợc thực hiện một cách đầy đủ bởi giai
cấp t sản. Nhà vua chỉ là biểu tợng của đất nớc, hoạt động một cách hình thức,
nhà vua "trị vì mà không cai trị".
Chính thể cộng hoà đại nghị, là hình thức tổ chức nhà nớc mà trong
tiềm thức của nhiều ngời là dân chủ, văn minh của nhân loại. Bởi vì, nó là cái
đích mà các cuộc cách mạng t sản muốn đạt tới khi giai cấp t sản làm cách
mạng và xây dựng một nhà nớc cho giai cấp mình sau khi đã lật đổ hoàn toàn
chế độ phong kiến. Do đó, quyền lực nhà nớc trong chính thể này không phải
xuất phát từ thiên định, từ cõi "h vô" mà quyền lực nhà nớc có nguồn gốc từ
nhân dân.
Cộng hoà đại nghị là mô hình mà ở đó áp dụng học thuyết tam quyền
phân lập một cách mềm dẻo, tức là không có sự phân lập các quyền lập pháp,
hành pháp và t pháp một cách cứng rắn, mà là có sự phối kết hợp giữa lập
pháp và hành pháp trong việc thực hiện quyền lực. Nghị viện đợc hình thành
một cách dân chủ thông qua việc trực tiếp bầu cử của nhân dân vào việc thành

lập, và nghị viện đợc hiến pháp của các nớc quy định là cơ quan quyền lực nhà
nớc tối cao. Chính phủ đợc thành lập dựa trên cơ sở của nghị viện, và hoạt
động đến đến khi nào vẫn còn có sự tín nhiệm của nghị viện. Phân tích dấu
hiệu của chính thể cộng hoà đại nghị, nhiều nhà luật cho rằng, chính thể cộng
hoà đại nghị là chính thể đợc tổ chức ở những nhà nớc có nguyên thủ quốc gia
do nghị viện bầu ra, hoặc đợc bầu ra dựa trên cơ sở của nghị viện. Chính phủ
do thủ tớng đứng đầu không chỉ chịu trách nhiệm trớc nguyên thủ quốc gia,
mà còn chịu trách nhiệm trớc nghị viện. Nhng trong chính thể này, do vai trò
của tổng thống cũng giống nh vai trò của nhà vua, hoàng đế trong chính thể
quân chủ đại nghị, hoạt động hình thức, nên nhiều ngời chỉ nhắc đến việc
chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trớc nghị viện mà không chịu trách nhiệm trớc
nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp của các nớc này thờng quy định quyền lực tối
cao của nghị viện và hình thành nên chế độ đaị nghị. Chức danh thủ tớng đợc
thiết lập và sự tham gia một cách hình thức của nguyên thủ quốc gia vào việc
thành lập chính phủ.[2 ; 82]. Khi hoạt động của chính phủ không còn sự tiến
nhiệm của nghị viện thì chính phủ có thể bị nghị viện lật đổ và thành lập một
chính phủ mới. Đồng thời với chế định tín nhiệm chính phủ là chế định tín
nhiệm nghị viện, khi đợc chính phủ yêu cầu hoặc tự mình, nguyên thủ quốc
gia có thể tuyên bố giải tán nghị viện trớc thời hạn để tổ chức cuộc tổng tuyển
cử bầu một nghị viện mới.
Hiến pháp của nhiều nớc theo chính thể này quy định các quan chức có
hàm bộ trởng có thể bị luận tội trớc nghị viện. Thủ tục luận tội đợc hiến pháp
nhiều nớc gọi là thủ tục đàn hạch. ở các nớc khác nhau có thể thủ tục luận tội
là khác nhau, nhng nhìn chung, hạ nghị viện là cơ quan có quyền buộc tội,
còn thợng nghị viện là cơ quan có quyền luận tội. Tuy nhiên, cũng có những
21
có những nớc quy định nghị viện không đợc luận tội các quan chức của chính
phủ.
Hiến pháp quy định là thế, nhng do sự tham gia hoạt động của các đảng
phải chính trị vào việc thực quyền lực nhà nớc, nhiều khi đã làm cho các quy

định của hiến pháp trở nên hết sức hình thức. Thực tế việc bầu cử nghị viện
cũng nh vệc thành lập chính phủ đều do các đảng phải chính trị thao túng.
Nguyên thủ quốc gia khi chọn thủ tớng không ai khác là thủ thủ lĩnh của đảng
cầm quyền chiếm đa số ghế trong nghị viện, và các bộ trởng phải là các nghị
sĩ - đảng viên của đảng cầm quyền.
Nh sự phân tích ở trên, về nguyên tắc, hình thức tổ chức nhà nớc theo
chính thể cộng hoà đại nghị hoàn toàn giống với hình thức tổ chức nhà nớc
theo chính thể quân chủ đại nghị. Điểm khác biệt ở đây là, nguyên thủ quốc
gia không do thế tập, truyền ngôi mà do nhân dân bầu cử ra.
Nguyên thủ quốc gia đợc nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, và đ-
ợc hiến pháp gọi là tổng thống. Tổng thống là ngời đứng đầu nhà nớc, thay
mặt nhà nớc về đối nội và đối ngoại. ở tất cả nớc theo chính thể này, thông th-
ờng hiến pháp quy định nguyên thủ quốc gia không là ngời đứng đầu hành
pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Hoặc có quy định đi chăng
nữa thì nguyên thủ quốc gia không bao giờ thực hiện đợc một cách đích thực
quyền này.[2;83]. Tổng thống thờng là ngời không đảng phái, hoạt động với
những quyền hạn mang tính hình thức, và chủ yếu giữ vai trò trọng tài trong
các cuộc tranh chấp, khủng hoảng chính trị, là biểu tợng cho sự thống nhất,
hoà hợp dân tộc. Tổng thống chỉ thực sự có thực quyền khi xảy ra chiến tranh,
đảo chính hay những biến cố chính trị khác, vì khi đó tổng thống có quyền tự
do hành động.
* Chính thể cộng hoà tổng thống
Cộng hoà tổng thống là mô hình tổ chức nhà nớc mà ở đó áp dụng một
cách tuyệt đối học thuyết phân chia quyền lực. Ba cành quyền lực lập pháp,
hành pháp, t pháp độc lập với nhau mà không có sự phối kết hợp lẫn nhau, trừ
một số mối quan hệ thể hiện cơ chế "kiềm chế, đối trọng" để tránh sự lạm
dụng quyền lực nhà nớc từ các nhánh quyền lực nhà nớc đã đợc phân chia. Cơ
quan đại diện quyền lực nhà nớc - nghị viện do nhân dân bầu ra và cơ quan
hành pháp - chính phủ do một ngời đứng đầu cũng do nhân dân bầu ra. Trong
mô hình chính thể này, không có nhánh quyền lực nào cao hơn nhánh quyền

lực nào. Hành pháp không chịu trách nhiệm trớc lập pháp mà chúng cùng chiụ
trách nhiệm trớc nhân dân, bởi vì chúng đều do nhân dân bầu ra. ở mô hình
này, do lập pháp và hành pháp độc lập lẫn nhau, nên nghị viện không có
quyền lật đổ chính phủ, và ngợc lại, chính phủ không có quyền giải tán nghị
viện trớc thời hạn.
Đây là hình thức chính thể mà tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia
đứng đầu nhà nớc thay mặt cho nhà nớc về đối nội và đối ngoại, vừa là ngời
đứng đầu hành pháp - chính phủ. Mọi thành viên của chính phủ đều do tổng
22
thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trớc tổng thống, không chịu trách nhiệm
trớc nghị viện, không có chức danh thủ tớng. Do là ngời đứng đầu hành pháp
và không phụ thuộc vào nghị viện nên tổng thống tự mình lựa chọn, tự mình
bổ nhiệm và tự mình bãi nhiệm nhân sự của chính phủ vào bất cứ thời gian
nào. Các bộ trởng, về nguyên tắc, không hợp thành cơ quan bàn bạc tập thể,
mà họ chỉ là những cá nhân giúp việc cho tổng thống, thực hiện những chính
sách của tổng thống, và không đợc mâu thuẫn với chính sách của tổng thống.
Chính cách thức tổ chức này trên thực tế đã tăng cờng quyền lực cho tổng
thống (hành pháp).
Giải thích cho quyền hạn rất lớn của tổng thống, nhiều ngời cho rằng đó
chính là do nguồn gốc quyền lực của tổng thống. Bởi vì, trong chính thể này,
tổng thống đợc nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra với một lợng cử tri
đoàn rộng rãi. Nhng tổng thống không phải là ngời vô trách nhiệm nh trong
chính thể đại nghị, trái lại tổng thống có thể bị luận tội trớc nghị viện theo thủ
tục đàn hạch và có thể dẫn đến bị cách chức.
ở chính thể này, nếu tổng thống và phe chiếm đa số ghế trong nghị
viện là ngời của cùng một đảng thì quyền lực nhà nớc tập trung vào tay tổng
thống. Trong trờng hợp, nếu tổng thống và phe chiếm đa số ghế trong nghị
viện không cùng một đảng thì quyền lực của tổng thống bị hạn chế, và thờng
dẫn đến sự mâu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp.
* Chính thể cộng hoà hỗn hợp

Đây là mô hình tổ chức nhà nớc vừa có những dấu hiệu của chính thể
cộng hoà đại nghị lại vừa có những dấu hiệu của chính thể cộng hoà tổng
thống. Tức là, bên cạnh việc thiết lập một chế độ nghị viện, còn thiết lập một
chính quyền cá nhân do tổng thống đứng đầu.
Giống chính thể cộng hoà tổng thống ở chỗ, tổng thống không phải do
nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra mà tổng thống do nhân dân trực
tiếp bầu ra. Do đợc nhân dân bầu ra nên quyền hạn của tổng thống rất lớn.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia thay mặt cho nhà nớc về đối nội và đối
ngoại vừa là ngời đứng đầu hành pháp, trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Quyền
hành của tổng thống không mang tính hình thức nh trong chính thể cộng hoà
nghị viện, mà ngợc lại, tổng thống là ngời nắm quyền hành thực chất, trực tiếp
giải quyết những công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, tổng thống
theo quy định không phải chịu trách nhiệm trớc nghị viện.
Tổng thống trong chính thể này có quyền tự mình thành lập chính phủ,
chính phủ đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng thống. Tổng thống chủ toạ các
phiên họp của hội đồng bộ trởng để quyết định các chính sách quốc gia. Thủ t-
ớng và các bộ trởng phải có trách nhiệm thực hiện chính sách của tổng thống
và chịu trách nhiệm trớc tổng thống. Tổng thống càng có nhiều quyền lực hơn
khi tổng thống và phe đa số trong quốc hội thuộc cùng một đảng. Ngợc lại,
khi tổng thống và phe đa số trong quốc hội không cùng một đảng thì quyền
hạn của thủ tớng và nội các đợc gia tăng, có khuynh hớng độc lập với quyền
hạn của tổng thống, và do đó quyền hạn của tổng thống bị giảm sút.
23
Một dấu hiệu khác của chính thể cộng hoà tổng thống, đó là các nghị sĩ
quốc hội không đợc kiêm nhiệm chức năng, đã làm nghị sĩ của nghị viện thì
không thể đồng thời là bộ trởng chính phủ và ngợc lại. Đây cũng là quy định
hạn chế tính chịu trách nhiệm của bộ trởng trớc nghị viện và tăng cờng tính
chịu trách nhiệm của bộ trởng trớc tổng thồng.
Mô hình tổ chức nhà nớc này giống chính thể cộng hoà đại nghị ở chỗ,
trong chính phủ có thủ tớng và nội các bao gồm thủ tớng và các bộ trởng. Thủ

tớng và nội các đợc thành lập trên cơ sở nghị viện và phải chịu trách nhiệm tr-
ớc nghị viện. Nội các của chính phủ hoạt động đến khi nào còn có sự tín
nhiệm của nghị viện. Khi không còn sự tín nhiệm của nghị viện, nội các có thể
bị lật đổ để thành lập nội các mới, và đồng thời với chế định này, tổng thống
có quyền giải tán nghị viện.
Thủ tớng nội các chỉ đợc quyền lãnh đạo các phiên họp của chính phủ
khi đợc sự uỷ nhiệm của tổng thống. Thủ tớng chỉ đợc sự chủ toạ các phiên
họp nội các để chuẩn bị cho phiên họp của chính phủ, và thủ tớng lãnh đạo
chính phủ thực hiện các chính sách này.
Cũng giống nh chính thể đại nghị, việc bổ nhiệm thủ tớng thuộc quyền
của tổng thống, tuy nhiên tổng thống không đợc hoàn toàn tự do trong việc lựa
chọn thủ tớng. Khi lựa chọn thủ tớng, tổng thống không thể lựa chọn ngời nào
khác ngoài thủ lĩnh của đảng (hoặc liên minh của đảng) chiếm đa số ghế trong
nghị viện. Theo đề nghị của thủ tớng, tổng thống bổ nhiệm các thành viên của
chính phủ. Các bộ trởng trong chính phủ hợp lại thành nội các, nội các phải
chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trớc nghị viện. Các bộ trởng khi chịu
trách nhiệm trớc nghị viện không phải ở chỗ có chế độ trách nhiệm hình sự
của từng vị bộ trởng mà là chế độ chịu trách nhiệm chính trị của toàn bộ tập
thể nội các trớc nghị viện. Đây cũng là cơ sở cho việc nội các của thủ tớng có
thể bị nghị viện lật đổ. [30;79]
* Chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Hình thức chính thể của các nhà nớc xã hội chủ nghĩa đều là cộng hoà
dân chủ. Tuy nhiên, do điều kiện, hoàn cảnh của các quốc gia vào từng giai
đoạn lịch sử nhất định, chúng đợc thể hiện dới những mô hình (hình thức)
khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ lần lợt đề cập tới ba hình thức khác nhau của
các nhà nớc xã hội chủ nghĩa mang tính đặc trng, điển hình. Đó là, hình thức
Công xã Pari, hình thức cộng hoà Xô Viết, hình thức nhà nớc dân chủ nhân
dân.
Công xã Paris, đây là mô hình nhà nớc chuyên chính vô sản đầu tiên
trên thế giới. Về vai trò của công xã Paris, C.Mác đã viết: "về thực chất, nó là

một chính phủ của giai cấp công nhân, là kết qủa của cuộc đấu tranh của giai
cấp của những ngời sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt, là hình thức chính
trị rốt cuộc đã tìm ra đợc khiến cho có thể thực hiện đợc việc giải phóng lao
động về mặt kinh tế" [9;97].
Hình thức tổ chức nhà nớc Công xã Pari có một số đặc điểm sau:
24
+ Sau khi giành chính quyền từ tay quân đội của chính phủ Thiers,
Công xã Paris đã xoá bỏ chế độ đại nghị thành lập nên các cơ quan đại diện
mới đợc gọi là Hội đồng công xã. Hội đồng công xã là cơ quan quyền lực cao
nhất, mà thành phần chủ yếu của nó là các uỷ viên xuất thân từ giai cấp công
nhân do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Các
uỷ viên này có thể bị bãi miễn nếu họ không còn uy tín hoặc không hoàn
thành đợc nhiệm vụ.
+ Công xã Paris đã xây dựng một Nhà nớc mới của giai cấp công nhân.
Công xã đã xác lập các nguyên tắc mới về tổ chức của bộ máy nhà nớc của
giai cấp công nhân. Tuy nhiên, do bộ máy nhà nớc mới đang đợc hình thành
nên việc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nớc cha đợc phân định
rõ ràng, cụ thể. Nhà nớc mới đã tiến hành xoá bỏ quân đội và cảnh sát, thay
thế vào đó là lực lợng nhân dân đợc vũ trang và lực lợng an ninh mới, giải tán
toà án và viện công để thành lập toà án và viên công tố mới.
+ Công xã Paris đã thiết lập một chế độ dân chủ mới, trong đó đề ra
nhiều biện pháp bảo vệ lợi ích của ngời lao động, và tạo điều kiện cho nhân
dân lao động tham gia vào công việc của nhà nớc, nh tham gia vào việc thành
lập các cơ quan chính quyền, đợc ứng cử và bầu cử vào các cơ quan nhà nớc,
đợc tham gia quản lí các xí nghiệp Đồng thời, Công xã Paris thực hiện
nhiều biện pháp chuyên chính đối với những phần tử bóc lột, những phần tử
phản cách mạng, nh: thành lập toà án đặc biệt để xét xử các phần tử chống đối
cách mạng; cấm cúp lơng đối với ngời lao động;
Cộng hoà Xô Viết, là hình thức nhà nớc đợc nhà nớc Liên bang Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết áp dụng để tổ chức và thực hiện chính quyền

của giai cấp vô sản sau khi giành đợc chính quyền. Cộng hoà Xô Viết là mô
hình tổ chức nhà nớc, ở đó không áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực mà
áp dụng nguyên tắc tập quyền. Tất cả quyền lực nhà nớc tập trung vào tay
nhân dân thông qua các Xô Viết của công - nông - binh do công nhân, nông
dân và binh sĩ bầu ra. Tất cả quyền lực nhà nớc đều tập trung vào tay Xô Viết,
bao gồm cả quyền lập pháp và hành pháp. Xô Viết tối cao và các Xô Viết địa
phơng thành lập ra các uỷ ban chấp hành. Uỷ ban chấp hành chỉ là những cơ
quan thừa hành của Xô Viết và phải chịu trách nhiệm trớc Xô Viết.
Các Xô Viết là các tổ chức quyền lực của quần chúng, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của họ. Trong tổ chức và hoạt động của mình, Xô Viết thể hiện
đợc các đặc điểm của quản lý nhà nớc và vai trò tự quản của nhân dân.
Các cơ quan nhà nớc đợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở của nguyên tắc
tập trung dân chủ. Cách thức tổ chức của các Xô Viết thể hiện: tất cả các cơ
quan quyền lực nhà nớc từ trung ơng đến địa phơng đợc thành lập trên cơ sở
bầu cử; các cơ quan này trực thuộc và phải báo cáo trớc nhân dân; các quyết
định của các cơ quan cấp trên có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan cấp d-
ới; kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sáng kiến và hoạt động sáng tạo ở cơ sở;
thực hiện chế độ trách nhiệm của từng cơ quan nhà nớc và cá nhân đối với các
công việc đợc giao. [29;150]
25

×