Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Bài giảng phân bón đại học nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.01 KB, 140 trang )

Chương 1 - Nhu cầu sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp
1.Vai trò của phân bón trong sản xuất nông nghiệp (1,5 tiết)
Việc bón phân hợp lý cho cây trồng mang lại nhiều lợi ích như: tăng năng suất, phẩm
chất nông sản; ổn định và tăng độ phì của đất; tăng thu nhập cho người sản xuất bảo vệ môi
trường
1.1. Vai trò của phân bón đối với năng suất cây trồng
1.1.1. Phân bón với năng suất và sản lượng cây trồng
Qua điều tra, tổng kết về vai trò của phân bón với cây trồng ở trên thế giới cũng như ở
Việt Nam cho thấy: Trong số các biện pháp kỹ thuật trồng trọt liên hoàn (làm đất,
giống, mật độ gieo trồng, BVTV ), bón phân luôn là biện pháp kỹ thuật có ảnh
hưởng lớn nhất, quyết định nhất đối với năng suất và sản lượng cây trồng.
Giống mới cũng chỉ phát huy được tiềm năng của mình, cho năng suất cao
khi được bón đủ phân và bón hợp lý.
Từ thực tiễn sản xuất ở các nước này cũng cho thấy: Không có phân hoá
học thì không có năng suất cao. Ở các nước có hệ thống nông nghiệp phát triển trong hơn
100 năm trở lại đây (từ khi bắt đầu sử dụng phân bón hoá học), việc sử dụng phân
khoáng làm tăng hơn 60% năng suất cây trồng.
Cách mạng xanh ở Ấn Độ: Năm 1950, khi nông dân Ấn Độ chưa biết dùng
phân bón chỉ sản xuất được 50 triệu tấn lương thực/năm, bị thiếu đói trầm trọng. Năm
1984 nhờ sử dụng 7,8 triệu tấn phân bón/năm đã đưa sản lượng lương thực lên 140 triệu
tấn, khắc phục nạn đói triền miên cho Ấn Độ.
Kết quả điều tra của FAO trong thập niên 70 – 80 của thế kỷ 20 trên
phạm vi toàn thế giới cho thấy: tính trung bình phân bón quyết định 50% tổng sản lượng
nông sản tăng lên hàng năm và bón 1 tấn chất dinh dưỡng nguyên chất thì thu được 10
tấn hạt ngũ cốc.
Ở các nước châu Á, Thái bình dương (1979 – 1989) phân bón làm tăng
75% năng suất lúa.
Tổng kết về vai trò của các yếu tố kỹ thuật trong nông nghiệp hiện đại ở
Mỹ: Năng suất quyết định bởi 41% do phân khoáng, 15-20% do thuốc bảo vệ thực vật,
15% do hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật, 8% do chọn giống và tưới nước, 11-18% do
các yếu tố khác.


1
Năm 1997, kết quả điều tra ở Việt Nam tính trung bình phân bón làm tăng
38-40% tổng sản lượng, dự báo sẽ lớn hơn có thể tới 75% năng suất lúa và bón 1
tấn dinh dưỡng nguyên chất thu được 13 tấn ngũ cốc.
1.1.2. Ảnh hưởng gián tiếp của phân bón tới các biện pháp kỹ thuật trồng trọt
làm tăng năng suất cây trồng
Sử dụng phân bón hợp lý luôn là cơ sở quan trọng cho việc phát huy hiệu quả của
các biện pháp kỹ thuật khác (làm đất, giống, mật độ gieo trồng, tưới tiêu, bảo vệ thực
vật ).
- Làm đất: Để việc cầy sâu trong làm đất đạt hiệu quả cần quan tâm
bón phân phù hợp với sự phân bố dinh dưỡng trong các tầng đất. Trên đất bạc
màu, sự chênh lệch về độ phì giữa tầng canh tác và các tầng dưới rất lớn, cày sâu
mà bón ít phân và không bón vôi, không những không làm tăng năng suất mà còn
làm giảm năng suất khá rõ so với cày nông.
- Giống cây trồng: Các giống cây trồng khác nhau có nhu cầu dinh dưỡng
khác nhau do vậy cần phải bón phân cân đối theo yêu cầu mới phát huy hết tiềm
năng năng suất của giống.
Bảng 1.1. Nhu cầu dinh dưỡng của các giống lúa
có tiềm năng năng suất khác nhau
Giống lúa
Năng suất
(tấn/ha)
Lượng hút các chất dinh dưỡng chính (kg/ha)
N P
2
O
5
K
2
O

Lúa thường 5,0-5,5 100-120 40-50 100-120
Lúa lai 6,5-7,0 150-180 70-80 180-200
Nguồn: Viện Thổ nhưỡng–Nông hoá 2003
- Mật độ gieo trồng và chế độ bón phân có quan hệ rất mật thiết và phức
tạp, phải được xây dựng một cách thích hợp đối với mỗi cây.
- Tưới tiêu: Đất được tưới tiêu chủ động làm tăng hiệu quả phân bón, có
khả năng bón nhiều phân để đạt hiệu quả sản xuất cao hơn. Yêu cầu về phân bón ở
các vùng có tưới và không tưới khác nhau. Đồng thời, phân bón làm giảm lượng
nước cần thiết để tạo nên một đơn vị chất khô nên tiết kiệm được lượng nước cần
tưới.
vd: Kết quả nghiên cứu ở Liên Xô cũ cho thấy hiệu lực của phân trên đất có
tưới tăng gấp 2-4 lần trên đất không có tưới.
2
- Trong công tác bảo vệ thực vật: bón phân cân đối và hợp lý là cơ sở
quan trọng cho việc quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đạt hiệu quả tốt tạo cho cây
trồng khoẻ mạnh ít sâu bệnh hại, giảm chi phí thuốc bảo vệ thực vật, đem lại thu
nhập cao cho người trồng trọt. Các loại phân lân và kali còn có tác dụng làm tăng
tính chống chịu (vd: chịu hạn, chịu rét) cho cây.
Vậy: có thể dùng chế độ bón phân tốt để khắc phục những nhược điểm của
kỹ thuật trồng trọt. Ngược lại, các biện pháp kỹ thuật khác cũng ảnh hưởng đến
hiệu lực của phân bón. Theo tổng kết của FAO có 10 nguyên nhân làm giảm hiệu
lực của phân bón.
Bảng 1.2. Các nguyên nhân làm giảm hiệu lực của phân bón
STT Nguyên nhân làm giảm hiệu lực phân bón Mức độ giảm (%)
1 Kỹ thuật làm đất kém 10-25
2 Giống cây trồng không thích hợp 5-20
3 Kỹ thuật gieo cấy kém 20-40
4 Thời vụ gieo cấy không thích hợp 20-40
5 Mật độ gieo cấy không thích hợp 10-25
6 Vị trí và cách bón phân không thích hợp 5-10

7 Chế độ nước không thích hợp 10-20
8 Trừ cỏ dại không kịp thời 5-10
9 Phòng trừ sâu bệnh không tốt 5-50
10 Bón phân không cân đối 20-50
Nguồn: Nguyễn Văn Bộ, 2003
1.2. Vai trò của phân bón đối với chất lượng sản phẩm
1.2.1. Vai trò tích cực của phân bón tới chất lượng sản phẩm
Nhờ bộ rễ cây trồng hút các chất dinh dưỡng có trong đất và phân bón để cung
cấp các nguyên tố cần thiết cho mọi hoạt động sống, tạo nên năng suất và chất lượng sản
phẩm. Phẩm chất nông sản do nhiều loại hợp chất hữu cơ chi phối, và sự hình
thành những hợp chất hữu cơ đó là kết quả của những quá trình sinh hoá do
nhiều loại men điều khiển. Phân bón (nhất là phân kali và vi lượng) tác động
mạnh nên tính chất và hàm lượng của các loại men nên cũng có khả năng tạo
phẩm chất tốt.
3
- Phân Kali: có nhiều ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của cây trồng,
đặc biệt có ảnh hưởng tới hàm lượng đường, bột và chất lượng sợi.
- Vi lượng: Có vai trò chủ yếu là hình thành và kích thích hoạt động của
các hệ thống men trong cây. Cho nên vi lượng xúc tiến, điều tiết toàn bộ các hoạt
động sống trong cây: Quang hợp, hô hấp, hút khoáng, hình thành, chuyển hoá và
vận chuyển các hợp chất hữu cơ trong cây.
- Phân lân: làm tăng phẩm chất các loại rau, cỏ làm thức ăn gia súc và chất
lượng hạt giống.
- Phân đạm làm tăng rõ hàm lượng protein và caroten trong sản phẩm, và
làm hàm lượng xenlulo giảm xuống.
Vậy: bón phân cân đối và hợp lý cho cây trồng không chỉ làm tăng năng
suất mà còn làm tăng chất lượng sản phẩm về hàm lượng các chất khoáng, protein,
đường và vitamin.
1.2.2. Bón phân gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng sản phẩm
Thực tế sản xuất đã cho thấy rằng: việc bón thiếu, thừa hay bón phân không cân đối đều

làm giảm chất lượng nông sản. Điều này thấy rõ nhất với yếu tố N.
- Nếu bón quá nhiều đạm: có thể dẫn đến nhiều bất lợi cho cây trồng và ảnh hưởng xấu
tới chất lượng nông sản: làm tăng tỷ lệ nước trong cây, tăng hàm lượng NO
3
-
trong rau gây tác hại
cho người sử dụng, làm giảm tỷ lệ Cu trong chất khô của cỏ có thể gây vô sinh cho bò; cây trồng
dễ bị sâu bệnh, kéo dài thời gian sinh trưởng, gây ô nhiễm môi trường
- Bón thiếu đạm: Cây trồng rút ngắn thời gian sinh trưởng, năng suất phẩm chất giảm vd:
tỷ lệ vitamin B
2
trong rau giảm.
- Bón thừa kali: làm giảm hàm lượng magiê trong cỏ làm thức ăn gia súc, làm động vật
nhai lại dễ mắc bệnh co cơ đồng cỏ.
Vậy: Bón phân không cân đối cho cây trồng tạo ra thức ăn không cân đối, thiếu các
vitamin, thiếu nguyên tố vi lượng khiến người và động vật dù ăn nhiều vẫn không tăng trọng được
và vẫn mắc các bệnh suy dinh dưỡng, thiếu máu, vô sinh…
4
1.3. Vai trò của phân bón đối với đất và môi trường
1.3.1. Ảnh hưởng tích cực của phân bón tới môi trường:
Việc bón phân hợp lý cho cây trồng vừa nhằm đạt năng suất cây trồng cao
thoả đáng với chất lượng tốt, hiệu quả sản xuất cao, đồng thời để ổn định và bảo
vệ được đất trồng trọt. Bên cạnh đó bón phân còn có thể làm môi trường tốt hơn,
cân đối hơn.
- Phân hữu cơ và vôi là các phương tiện cải tạo môi trường đất toàn
diện và hiệu quả:
+ Phân hữu cơ về lâu dài có tác dụng làm cho đất có điều kiện tích luỹ
nhiều mùn, dinh dưỡng, nâng cao độ phì của đất, cải thiện tính chất lý, hoá sinh
của đất trên cơ sở đó có thể tăng lượng phân hoá học để thâm canh đạt hiệu quả
cao.

+ Bón vôi có tác dụng cải tạo hoá tính, lý tính, sinh tính, giúp cây có thể hút
được nhiều dinh dưỡng từ đất, tạo môi trường pH thích hợp cho cây trồng hút thức
ăn cũng như sinh trưởng và phát triển
- Bón phân hoá học: với liều lượng thích đáng làm tăng cường hoạt động
của vi sinh vật có ích, do đó làm tăng cường sự khoáng hoá chất hữu cơ có
sẵn trong đất, chuyển độ phì tự nhiên của đất thành độ phì thực tế.
+ Bón lân làm tăng cường độ phì một cách rõ rệt, đồng thời lại đảm bảo
giữ cho đất khỏi bị hoá chua, vì hầu hết các loại phân lân thông thường đều có
chứa một lượng canxi cao.
+ Bón kali có tác dụng cải tạo hàm lượng kali cho đất và tăng cường
hiệu quả của phân kali bón về sau.
Vậy: Bón phân hoá học cân đối và hợp lý kết hợp bón phân hữu cơ vừa tạo được năng
suất và chất lượng nông sản tốt, vừa làm đất trở nên tốt hơn.
1.3.2. Khả năng gây ảnh hưởng xấu của phân bón tới môi trường
Các loại phân bón có thể tạo ra các chất gây ô nhiễm môi trường nếu chúng
ta bón phân không hợp lý và đúng kỹ thuật
- Khả năng gây ô nhiễm môi trường từ phân hữu cơ có khi còn cao hơn cả
phân hoá học. Việc sử dụng không hợp lý cộng với khả năng chuyển hoá của phân
ở các điều kiện khác các loại phân hữu cơ có thể tạo ra nhiều chất khí CH
4
, CO
2
,
5
H
2
S… các ion khoáng NO
3
vd: Ở Việt Nam do sử dụng phân bắc tươi trong trồng
rau đã gây ô nhiễm môi trường đồng thời ảnh hưởng tới sức khoẻ của người sử dụng.

- Các loại phân hoá học (đặc biệt là phân đạm) có thể làm ô nhiễm nitrat
nguồn nước ngầm, hiện tượng phản đạm hoá dẫn đến mất đạm, gây ô nhiễm
không khí, làm đất hoá chua, hiện tượng tích đọng kim loại nặng Cu, Pb, Zn, Cd
trong nước và đất, hiện tượng phú dưỡng nguồn nước mặt, liên quan đến quá
trình tích luỹ lân và đạm.Việc sử dụng các loại phân bón chua với lượng lớn và
liên tục có thể làm đất bị chua, ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và còn làm cho
đất tăng tích luỹ các yếu tố độc hại như sắt, nhôm, mangan di động.
- Ngoài ra việc bón phân không đủ trả lại lượng chất dinh dưỡng mà cây
trồng lấy đi theo sản phẩm thu hoạch, làm suy thoái đất trồng đang là vấn đề môi
trường không nhỏ ở Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới.
1.4. Phân bón với thu nhập của người sản xuất
Phân bón là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến năng suất, phẩm chất cây trồng,
đồng thời có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu lực của các biện pháp kỹ thuật làm tăng năng
suất cây trồng khác nên người sản xuất rất quan tâm đến yếu tố này.
Việc sử dụng phân bón hợp lý và hiệu quả làm tăng nhiều thu nhập cho người sản
suất. Trong sử dụng phân bón, tồn tại một định luật mà dựa vào đó người trồng trọt có thể
bón phân để đạt lợi nhuận tối đa từ một đơn vị diện tích trồng trọt thông qua việc xác định
được lượng phân bón và năng suất tối thích kinh tế.
Vậy: Phân bón có vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được đối với sản xuất nông
nghiệp, là cơ sở cho việc sản xuất nông nghiệp thâm canh đạt hiệu quả cao và bền vững. Để sử
dụng phân bón đạt hiệu quả cao người sử dụng cần có những hiêủ biết cần thiết về phân bón và
mối quan hệ giữa phân bón với đất và cây trồng.
6
2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây (3 tiết)
3. Khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây của đất (2 tiết)
4. Nhu cầu sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp (0,5 tiết)
4.1. Quá trình phát triển các kiến thức về dinh dưỡng cây trồng và sử dụng
phân bón
Phân bón đã được loài người sử dụng từ rất lâu đời (khoảng 3000 năm
trước). Loại phân mà loài người sử dụng khi đó là các phân hữu cơ động vật (phân

chuồng) rồi sau mở rộng các loại phân hữu cơ khác (phân xanh và tàn tích hữu cơ)
vd: Trong sử thi của Odixe của Homes (900 – 7000 TCN) đã nêu việc bón phân
cho ruộng nho.
Đến khoảng 400 năm trước công nguyên loài người biết cầy vùi tàn thể
thực vật để làm tốt đất. Xênôphôn đã nêu biện pháp cày vùi tàn thể thực vật để làm
tốt đất.
Théophrast (372 – 287 TCN) đã nêu biện pháp độn chuồng để giữ và
nâng cao chất lượng phân chuồng. Théophrast đã sắp xếp phân chuồng theo
thứ tự chất lượng giảm dần như sau: Người - Lợn - Dê - Cừu – Bò đực - Ngựa.
Giữa thế kỷ XVI, Bernard Palissy đã nêu vai trò của chất khoáng trong
đất, tro của cây có nguồn gốc từ đất.
Đến đầu thế kỷ XIX, loài người vẫn lầm tưởng rằng cây trồng hút thức
ăn trực tiếp bằng mùn, do chịu ảnh hưởng của thuyết dinh dưỡng mùn của
Aristot.
Năm 1840, Liebig (nhà bác học người Đức) đưa ra thuyết dinh dưỡng
khoáng của thực vật, thuyết này cho rằng: “Toàn bộ giới thực vật đều được
nuôi dưỡng bằng các nguyên tố vô cơ hay nguyên tố khoáng. Phân hữu cơ
không tác động trực tiếp đến cây qua các chất hữu cơ trong phân bón mà
gián tiếp qua sản phẩm phân giải của chất hữu cơ”. Liebig còn đưa ra Lý
thuyết bón phân xây dựng trên cơ sở trả lại các nguyên tố dinh dưỡng cho đất sau
này còn được gọi là Luật trả lại.
Ở Nga, D. I. Mendeleev đã hướng dẫn làm những thí nghiệm đầu tiên đối
với phân hoá học ở những vùng khác nhau, đặt nền móng cho việc xây dựng mạng
lưới phân bón sau này.
7
Những kết quả nghiên cứu và luận điểm dinh dưỡng cây trồng nói trên
đã kích thích sự phát triển mạnh mẽ các công trình nghiên cứu về lĩnh vực
phân bón. Nửa đầu thế kỷ XX Nông hoá học đã đem lại những thành tựu to lớn
cho sản xuất nông nghiệp. Ở châu Âu nhờ sử dụng phân hoá học đã đưa sản lượng
tăng gấp 3 lần so với trước khi có phân hoá học. Song do quá lạm dụng phân

hoá học cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng (chất lượng sản phẩm kém,
gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người). Người ta nghi
ngờ vai trò của phân hoá học, muốn loài người quay trở lại nền nông nghiệp hữu
cơ. Nhưng nông nghiệp hữu cơ không thể đáp ứng yêu cầu của xã hội và người
nông dân. Buộc loài người phải tìm đến nền nông nghiệp sinh thái bền vững hay
thâm canh bền vững tổng hợp, thông qua việc sử dụng hợp lý phân hữu cơ và phân
hoá học trong hệ thống dinh dưỡng cây trồng tổng hợp (Integrated Plant Nutrition
System - IPNS) hay quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho cây trồng (Integrated Plant
Nutrition Management - IPNM).
4.2. Tình hình sử dụng phân bón
4.2.1. Khái niệm về các chất dinh dưỡng và các loại phân bón cho cây trồng
Các công trình nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng: 92 nguyên tố hoá học
của bảng tuần hoàn Mendeleep có trong thành phần của cây, trong đó có 15
nguyên tố được coi là quan trọng nhất, được chia ra thành các nhóm nguyên tố
dinh dưỡng theo tỷ lệ tích luỹ trong cây giảm dần, gồm:
Bảng. 1. 3. Các chất dinh dưỡng thiết yếu và có ích cho cây trồng
TT
Chất dinh
dưỡng

hiệu
Dạng cây hút
TT
Chất dinh
dưỡng

hiệu
Dạng cây hút
1 Carbon C CO
2

11 Mangan Mn Mn
++
2 Hydro H H
2
O 12 Bo B H
3
BO
4
, BO
3

3 Oxy O O
2
, H
2
O 13 Kẽm Zn Zn
++
4 Nitơ N NH
4
+
, NO
3
-
14 Đồng Cu Cu
++
5 Lân P H
2
PO
4
, HPO

4

15 Molipden Mo MoO
4
2-
6 Kali K K
+
16 Clo Cl Cl
-
7 Canxi Ca Ca
++
17 Natri Na Na
+
8 Magiê Mg Mg
++
18 Silic Si SiO
3
-
9 Lưu huỳnh S SO
4
2
, SO
2
19 Coban Co Co
+
10 Sắt Fe Fe
++
, Fe
+++
20 Nhôm Al Al

+++
8
Nguồn:IFA
Trong đó:
- Cacbon (C), hyđro (H), oxy (O): là các nguyên tố dinh dưỡng thuộc
nhóm cây tích luỹ nhiều nhất, chiếm 92% trọng lượng chất khô của cây. Các
nguyên tố này có sẵn trong thiên nhiên, cây hấp thụ chúng thông qua nước tưới và
khí quyển.
- Nitơ (N), lân (P), kali (K), magiê (Mg), canxi (Ca), lưu huỳnh (S) là các
nguyên tố dinh dưỡng chiếm 7,4% trọng lượng chất khô của cây. Đây là các
nguyên tố thường không có nhiều trong tự nhiên nên phải quan tâm cung cấp
nhiều cho cây trồng bằng phân bón. Trong đó:
+ N, P, K: là những nguyên tố thường tích luỹ trong cây với tỷ lệ vài % mà
trong đất thường bị thiếu nên cây trồng cần được cung cấp thêm nhiều bằng phân
bón. Vì vậy, các nguyên tố dinh dưỡng này là những nguyên tố dinh dưỡng đa
lượng, các phân chứa các nguyên tố này gọi là phân bón đa lượng.
+ Mg, Ca, S: là những nguyên tố chiếm tỷ lệ ít hơn trong cây (khoảng 1%
TLCK), trong đất thường cũng không đủ cho cây trồng. Chúng là những nguyên tố
dinh dưỡng trung lượng, các phân chứa những nguyên tố này gọi là phân trung
lượng.
+ Cu, Fe, Mn, Mo, B, Zn (Cl): là những nguyên tố chiếm tỷ lệ rất ít trong
cây (0,6

% TLCK) nhưng có vai trò xác định không thể thay thế, đất cũng thường
thiếu. Chúng là những nguyên tố dinh dưỡng vi lượng, phân chứa những nguyên
tố này gọi là phân vi lượng.
+ Na, Si, Co, Al: là những nguyên tố có ích cho một số cây.Vd: Si cần
nhiều cho lúa, Na: Cần nhiều cho nhóm cây có củ.
4.2.2. Tình hình sử dụng phân bón
Nhờ những lợi ích mà phân bón đã mang lại trong việc tăng năng suất,

phẩm chất nông sản, tăng thu nhập cho người nông dân mà trong 1 thế kỷ vừa qua
ở trên thế giới, sản xuất và sử dụng phân bón hoá học đã tăng rất mạnh. Năm
1906, toàn thế giới chỉ sử dụng tổng lượng phân bón (N + P
2
O
5
+ K
2
O) là 1,9 triệu
tấn thì đến năm 1999 đã sử dụng 138,22 triệu tấn.
Tuy nhiên việc sử dụng phân bón không hợp lý (về liều lượng, tỷ lệ, thời
gian bón ) đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: chất lượng cây trồng
9
giảm, ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí Chính vì vậy trong những năm gần
đây ở những nước phát triển có xu hướng giảm sử dụng phân bón, còn những nước
đang phát triển lại có xu hướng tăng việc sử dụng phân bón.
- Ở Việt Nam, phân bón (phân hữu cơ) cũng đã được người nông dân sử
dụng từ rất lâu đời và có xu hướng tăng dần.
Trước năm 1955 việc sử dụng phân bón ở nước ta vẫn còn rất ít chủ yếu là
phân chuồng với lượng bón phân bón: 2,7-5,0 tấn/ha.
Thập kỷ 60: phong trào nghiên cứu và sử dụng phân hữu cơ (bèo dâu, điền
thanh, than bùn, phân chuồng) vẫn là chủ yếu. Phân hoá họrc sử dụng với lượng ít
mà chủ yếu là phân N,
Thập ký 70: phân hoá học chiếm hơn 40% tổng lượng bón, lân dần trở thành
yếu tố hạn chế năng suất lúa.
Thập kỷ 80: phân hoá học chiếm 60-70% tổng lượng bón, phân kali dần dần
trở thành yếu tố hạn chế năng suất lúa. Nhiều công trình nghiên cứu và thực
nghiệm về phân vi lượng đã xuất hiện, chứng tỏ đã đến lúc yêu cầu cung cấp chất
dinh dưỡng toàn diện cho cây phải được đặt ra.
Thập kỷ 90: phân hoá học sử dụng chiếm 70-80% tổng lượng bón. K trở

thành yếu tố hạn chế năng suất.
4.3. Xu hướng phát triển nông nghiệp và sử dụng phân bón
Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới đã trải qua các hình thức phát triển
nông nghiệp là:
+ Nông nghiệp hữu cơ (nền nông nghiệp sinh học): không dùng phân hoá
học và thuốc bảo vệ thực vật mà thay bằng phân chuồng, phân xanh, tàn dư thực
vật, luân canh cho đất nghỉ để tái tạo độ phì của đất đồng thời dựa vào vi sinh vật
đất và tạo điều kiện phát triển chúng nhằm cung cấp thức ăn cho cây.
Nền nông nghiệp này khó có thể đạt năng suất cây trồng cao, vì lượng phân
có hạn, lại có nhiều hạn chế về khả năng cung cấp dinh dưỡng dễ tiêu. Kinh
nghiệm ở Việt Nam cho thấy, để đạt năng suất lúa 5 tấn/ha phải cung cấp 100 -
120 kg N/ha. Nếu chỉ bón bằng phân chuồng thì phải cần hơn 30 tấn/ha mới cung
cấp đủ đạm tổng số (trong khi đó chúng ta chỉ cố thể bón trung bình 8-10 tấn
PC/ha/năm). Theo Bùi Huy Đáp nếu dựa vào chăn nuôi thì lượng thóc sản xuất
được trên 1 ha (5 tấn) vừa đủ để nuôi đàn lợn để có 30 tấn PC. Chính vì vậy nền
10
nông nghiệp hữu cơ không thể đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày một
tăng với yêu cầu ngày càng cao của con người.
+ Nông nghiệp thâm canh cao: là hình thức phát triển nông nghiệp đã diễn
ra mạnh ở các nước có nông nghiệp phát triển trong thời gian 1950-1974 với việc
hoá học hoá cao độ (sử dụng tối đa phân hoá học và hoá chất bảo vệ thực vật)
nhằm đạt năng suất cây trồng cao với thu nhập lớn nhất dẫn đến hiện tượng suy
thoái môi trường và chất lượng sản phẩm nông nghiệp bị giảm sút nghiêm trọng.
Đứng trước những hạn chế của nền nông nghiệp hữu cơ và nền nông nghiệp
thâm canh cao đã đặt ra một vấn đề cho chúng ta đó là phải dùng phân hoá học
như thế nào để vừa thâm canh cây trồng đạt năng suất cao, phẩm chất tốt, đạt hiệu
quả sản xuất cao mà không làm nguy hại tới môi trường.
+ Nông nghiệp thâm canh bền vững tổng hợp: (nền nông nghiệp sinh
thái) Trong nền Nông nghiệp này cùng với giống mới và các biện pháp kỹ thuật
tiên tiến, sử dụng phân bón (cả hoá học lẫn hữu cơ) cao, hợp lý về lượng, cân đối

về tỷ lệ trong hệ thống quản lý dinh dưỡng tổng hợp (IPNM-IPNS), sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật trong hệ thống quản lý dịch hại (IPM), để vẫn đạt năng suất cây
trồng cao với phẩm chất tốt đồng thời giảm tới mức tối đa những chất phế thải và
mất chất dinh dưỡng để không làm ô nhiễm môi trường.
Đứng trước sức ép của sự tăng dân số (đất chật, người đông) nên để đảm
bảo an toàn lương thực theo Uỷ ban dân số & Kế hoạch hoá gia đình năng suất lúa
bình quân của nước ta ngày càng phải tăng mạnh.
Năm 1995 2000 2010 2025
Dân số (Triệu người) 75,0 82,6 95,0 116,0
NS lúa cần đạt (tạ/ha) 36,5 40,8 50,0 57,5
Vậy xu hướng phát triển nông nghiệp của Việt Nam chỉ có một con đường
duy nhất là phát triển một nền nông nghiệp thâm canh bền vững tổng hợp - nền
nông nghiệp sinh thái
11
Chương 2 - Các loại phân vô cơ và kỹ thuật sử dụng
1. Phân đạm và kỹ thuật sử dụng (3 tiết)
1.1. Các dạng phân đạm, thành phần, tính chất, chuyển hóa và đặc điểm sử
dụng (2 tiết)
1.1.1. Phân đạm amôn
Đặc điểm chung của nhóm phân đạm amôn: N có trong phân đạm ở dạng
amôn (NH
4
+
) hay được chuyển hoá thành NH
4
+
để cây có thể sử dụng dễ dàng,
mang điện tích dương (+) nên có thể được keo đất hấp phụ, ít bị rửa trôi phân khi
được bón nhiều vào đất. Ngoài ra sau khi bón vào đất các phân amôn có thể bị
nitrat hoá (ở nhiệt độ, pH và ẩm độ thích hợp).

* Amoniac khan
- CTHH: NH
3
.
- Thành phần: 82% N (là loại phân đạm có tỷ lệ đạm cao nhất).
- Tính chất: Dạng chất lỏng linh động, không màu, sôi ở 34
0
C, nhanh
chuyển sang thể hơi và tăng thể tích nên phải được bảo quản và vận chuyển
trong các bình thép đặc biệt để tránh cháy, nổ gây nguy hiểm, giá thành rất rẻ
(bằng 40% của phân amôn nitrat).
- Đặc điểm sử dụng: cần có máy chuyên dùng để đưa trực tiếp chất lỏng
vào tầng đất sâu (10-14cm) nhằm tránh mất đạm (vì ngoài không khí amoniac
khan nhanh chóng chuyển từ thể lỏng sang thể khí) và để phân hút ẩm trong đất tạo
thành NH
4
OH rồi phân ly thành NH
4
+
cung cấp đạm cho cây hoặc được keo
đất hấp phụ, rồi dần cung cấp cho cây.
* Nước amoniac
- CTHH: NH
4
OH.
- Thành phần: 16,5% N (nếu là phụ phẩm của kỹ nghệ luyện cốc) - 20,5% N
(nếu được tổng hợp trực tiếp).
- Tính chất:
+ Phân ở dạng thể lỏng, rẻ tiến nhất, dễ bảo quản và sử dụng hơn
amoniac khan, nhưng do có tác dụng ăn mòn kim loại nên cũng cần bảo quản

và vận chuyển nước amoniac trong các thiết bị bằng sành sứ, nhựa.
12
+ Khi nước amôniac có trộn thêm NH
4
NO
3
tạo thành một dạng phân
đạm lỏng hỗn hợp có tên gọi amônicat (30-50%N) nên tăng hiệu quả sử dụng
của phân.
+ Trong nước amoniac, đạm nằm dưới dạng NH
3
tự do và NH
4
OH.
Trong đó NH
3
có tỷ lệ cao do vậy cần chú ý trong quá trình bảo quản và vận
chuyển để khỏi bay mất NH
3
.
- Đặc điểm sử dụng:
+ Thường dùng các đường ống bằng nhựa dẫn trực tiếp nước amôniac
từ nơi sản xuất đến nơi sử dụng.
+ Phải bón sâu vào đất để tránh mất đạm. Phân cũng được keo đất giữ
dưới dạng NH
4
+
, ngoài ra cũng có thể tham gia các quá trình chuyển hoá như
các dạng phân amôn khác trong đất.
* Amôn sunfat

Phân đạm Amôn Sulfat còn được gọi tắt là phân S.A, phân đạm “một lá” do
chỉ chứa một dạng đạm (NH
4
+
) cây sử dụng thuận lợi.
- CTHH: (NH
4
)
2
SO
4
- Thành phần: 20,8-21,0% N; 23-24% S; <0,2% axit H
2
SO
4
tự do. Phân
thành phẩm thường có độ ẩm 0,2 – 0,3%.
- Tính chất:
+ Phân có dạng tinh thể màu trắng hay xám trắng, xám xanh lục, ít hút
ẩm, ít đóng tảng trong bảo quản, dễ bón phân bằng máy.
+ Nếu bảo quản phân lâu ở điều kiện nhiệt độ, ẩm độ cao (> 30
0
C) S.A
dễ bị mất đạm ở dạng NH
3
. Kết quả vừa bị mất N (tạo mùi khai nơi lưu giữ) vừa làm
tăng độ chua tự do của phân.

- NH
3

(NH
4
)
2
SO
4
NH
4
HSO
4

> 30
0
C.
+ SA có thể bị mất đạm một phần ở thể khí do sau khi phân ly thành NH
4
+
có thể chuyển thành NH
4
OH, rồi chuyển tiếp thành NH
3

13
NH
4
OH NH
3
 + H
2
O

+ Phân S.A vừa gây chua hoá học do trong thành phần của phân có chứa axit
H
2
SO
4
tự do, vừa gây chua sinh lý do phân có chứa gốc axit.
( NH
4
)
2
SO
4
< > 2NH
4
+
+ SO
4
2 -
Vì vậy: Liên tục bón phân Amôn sunfát (SA) trong trồng trọt làm mất vôi, giảm tính đệm
và hoá chua đất.
+ SA còn có thể tham gia vào quá trình nitrat hoá:
(NH
4
)
2
SO
4
+ 4 O
2
= 2 HNO

3
+ H
2
SO
4
+ 2H
2
O
Kết quả vừa làm chua đất, vừa tạo khả năng cung cấp đạm cho cây và mất
đạm dưới dạng NO
3
-
.
+ Bón SA trên đất chua còn có khả năng tạo ra các muối sắt, nhôm hoà tan,
tăng khả năng ảnh hưởng xấu của độ chua đến cây.
- Đặc điểm sử dụng:
+ Phân S.A có thể sử dụng cho nhiều loại cây trồng khác nhau, nhưng đặc
biệt tốt đối với các loại cây ưa chua hay có nhu cầu về lưu huỳnh cao như cây
họ thập tự (rau cải, cải bắp, su hào…) các cây lấy củ (khoai lang, khoai tây) và các
cây lấy dầu (đậu tương, lạc, cà phê, chè…).
+ Phân S.A sử dụng thích hợp trên các loại đất kiềm, đất nghèo lưu huỳnh
(đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất sử dụng lâu đời) do phân có tác dụng làm giảm
tính kiềm và bổ sung lưu huỳnh cho đất.
+ Bón liên tục phân S.A, nhất là trên đất chua rất cần bón vôi để trung hoà
độ chua do phân gây ra, cần có kế hoạch bón vôi theo tỷ lệ 1,3 bột đá vôi : 1
phân SA.
+ Phối hợp sử dụng SA cùng với phân chuồng, phân lân tự nhiên có tác
dụng trực tiếp cung cấp N đồng thời lại có tác dụng gián tiếp cung cấp lân tốt hơn
cho cây trồng.
+ Không nên bón tập trung phân với số lượng lớn mà cần chia ra bón làm

nhiều lần, cần chú ý rải phân cho đều khi sử dụng.
14
+ Để tránh tác dụng xấu mà phân có thể gây ra, không nên sử dụng phân S.A
trên đất trũng, lầy thụt, đất phèn, đất mặn vì trong điều kiện yếm khí, giàu chất
hữu cơ, S có trong thành phân của phân dễ bị khử thành H
2
S có thể gây độc cho
cây.
+ Hạn chế sử dụng phân này trên đất mặn sẽ làm tăng nồng độ SO
4
2 –
trong
đất, tăng độ mặn của đất.
+ Cần bón phân cho đều vì: Phân S.A có khả năng hoà tan nhanh trong
nước, nên sau khi được bón vào đất phân nhanh chóng cung cấp NH
4
+

cho cây
trồng, một phần NH
4
+
được hấp phụ khá chặt trên bề mặt keo đất ở ngay vị trí
bón.
* Amôn clorua
- Công thức hoá học: NH
4
Cl
- Thành phần: 24 – 25% N; 66,6% Cl
- Tính chất:

+ Dạng tinh thể màu trắng, dễ hút ẩm, chẩy nước, dễ hoà tan trong
nước, là phân chua sinh lý.
+ Bón vào đất phân Clorua cũng tan nhanh, được hấp thu trên keo
đất dưới dạng NH
4
+
.
+ Bón liên tục phân Clorua amôn cũng làm chua đất, đất mất vôi
dần, giảm tính đệm của đất và hoá chua.
+ NH
4
Cl có thể mất một phần ở thể khí
+ NH
4
Cl cũng có thể tham gia vào quá trình nitrat hoá
NH
4
Cl + 2O
2
= HNO
3
+ HCl + H
2
O
Kết quả vừa làm chua đất vừa tạo khả năng cung cấp đạm cho cây và
mất đạm dưới dạng NO
3
-
như phân SA nêu trên.
So với sulfat đạm phân Clorua đạm có mấy điều bất lợi là:

- Tốc độ Nitrat hoá chậm hơn sulfat đạm
- Bón liên tục dễ gây thiếu lưu huỳnh đối với cây trồng có nhu cầu lưu huỳnh cao.
15
- Ion Clo ảnh hưởng xấu tới chất lượng nông sản của nhiều loại cây trồng như: thuốc lá, nho,
cam quýt và độc đối với vi sinh vật.
Tuy vậy, ion Clo không bị keo đất giữ nên có thể bị nước mưa rửa trôi, do vậy nếu bón
Clorua amôn sớm thì các tác hại của ion Clo cũng giảm.
- Đặc điểm sử dụng:
+ Đây là loại phân rẻ tiền, có hiệu lực với nhiều loại cây trồng (mía, ngô, cây lấy sợi, cọ
dầu, dừa) nhất là với cây lúa.
+ Sử dụng trong thời gian dài cần phải trung hòa độ chua với tỷ lệ 1 NH
4
Cl : 1,4
CaCO
3
hay bón kết hợp với phân chuồng và các loại phân lân thiên nhiên khác.
+ Do phân chứa Cl
-
nên không bón phân cho những cây mẫn cảm với Cl
-
, nếu bón
phải bón lót sớm.
1.1.2. Phân đạm nitrat
Đặc điểm chung của nhóm phân này: hoà tan mạnh trong nước, chứa N ở dạng NO
3
-
,
mạng điện tích âm nên không được đất giữ, dễ được cây hút, dễ bị rửa trôi và tham gia vào quá trình
phản đạm hoá dẫn đến mất đạm cả ở thể khí. Thích hợp cho cây trồng trong điều kiện khó khăn,
phân phát huy hiệu lực cao ở đất cạn. đều là các phân kiềm sinh lý

* Canxi nitrat
- Công thức hoá học: Ca(NO
3
)
2
- Thành phần: 13,0 – 15,5 % N; 25 -36% CaO. Phổ biến nhất là loại phân
chứa 15 – 15,5% N và 25% CaO.
- Tính chất:
+ Phân có dạng tinh thể hình viên tròn, màu trắng đục, hoà tan nhanh
trong nước chứa đạm ở dạng NO
3
-
.
+ Phân có tính kiềm sinh lý, dễ hút ẩm chảy nước, đóng thành tảng khó
bảo quản. Đây là hạn chế khả năng sử dụng phân này trong điều kiện nhiệt đới ẩm
của Việt Nam.
+ NO
3
-
không bị đất hấp phụ nên dễ được cây hút, ngay cả trong điều
kiện không thuận lợi cho việc hút dinh dưỡng của cây (khô hạn, lạnh, đất chua,
16
mặn ) nhưng cũng dễ bị rửa trôi.
+ Không bị mất đạm ở thể khí như phân đạm amôn, nhưng NO
3
-
nếu
không được cây trồng sử dụng hết, lại dễ bị rửa trôi hoặc tham gia vào quá
trình phản nitrat hoá.
NO

3
-
NO
2
-
N
2

- Đặc điểm sử dụng:
+ Phân Caxi nitrat rất thích hợp với các cây trồng cạn đặc biệt cho các
cây gặp điều kiện khó khăn (khô hạn, đất mặn, chua, cây trồng vụ đông, cây trồng
trên đất có thành phần cơ giới nặng ).
+ Phân cũng rất thích hợp để bón lót trên đất chua, đất mặn, đất phèn
do tác động làm giảm độ chua của đất.
+ Thích hợp để phun lên lá cho cây trồng.
+ Dạng phân đạm này được sử dụng nhiều trong trồng cây không dùng
đất (trồng cây trong dung dịch, trong cát, trên giá thể) để vừa cung cấp đạm, vừa cung
cấp Ca cho cây.
+ Sử dụng cho lúa có hiệu quả không cao do NO
3
-
dễ bị rửa trôi, nhưng
dùng lượng vừa phải để bón thúc ở thời kỳ làm đòng đến trổ bông cho lúa trên
đất chua phèn lại có hiệu quả cao.
* Nitrat natri
- Công thức hoá học: NaNO
3
- Thành phần : 15 - 16% N, 25 – 26 % Na và một số yếu tố vi lượng
- Tính chất: Dễ hoà tan trong nước, dễ hút ẩm, chảy nước, có tính kiềm. Do có nhiều
Na nên dễ làm keo đất phân tán, đất chai lại, không tơi xốp.

- Đặc điểm sử dụng: Thích hợp cho cây có nhu cầu Na cao (củ cải đường), cây lấy rễ và
thích hợp bón cho đất chua.
1.1.3. Phân đạm amôn nitrat (đạm hai lá)
Là phân vừa có tính chất của phân Amôn lại vừa có tính chất của phân Nitrat.
- CTHH: NH
4
NO
3

17
- Thành phần: amôn nitrat

nguyên chất chứa 35% N
Do Amôn nitrat dễ hút nước và chảy rữa, nên các nhà sản xuất thường đưa
thêm chất bổ trợ dễ bảo quản. Chất bổ trợ có thể là CaCO
3
, Sét, hoặc Kisengua.
Do vậy, có nhiều loại phân đạm Amôn nitrat.
Phân amôn nitrat tỷ lệ đạm thấp 22%N.
Phân amôn nitrat tỷ lệ đạm trung bình 26 – 27,5%N.
Phân amôn nitrat tỷ lệ đạm cao 33 – 34,5%N.
- Tính chất:
+ Dạng tinh thể thô, màu trắng
+ Là phân chua sinh lý yếu do cây hút NH
4
+
mạnh hơn để lại NO
3
-
, tạo khả

năng gây chua đất nhưng tác dụng gây chua không cao.
+ Phân không có ion thừa
+ Phân khó bảo quản do hút ẩm mạnh, chảy rữa.
- Đặc điểm sử dụng:
+ Bón cho nhiều loại cây trồng khác nhau, thích hợp với cây trồng cạn, vụ đông, hiệu
quả kém với lúa nước (vì NO
3
-
linh động, dễ bị rửa trôi và bị khử thành N
2
).
+ Là phân không phổ biến ở Việt Nam.
1.1.4. Phân đạm amit
Đây là nhóm phân đạm chứa đạm ở dạng amit - NH
2
hay được chuyển hoá
thành NH
2
. Phân đạm amit thường được xếp vào phân amôn, vì sau khi bón vào
đất các loại phân đạm amit đều được chuyển thành amôn cacbonat, rồi mới
chuyển hoá tiếp và cung cấp đạm cho cây.
* Phân Urê
Phân đạm Urê hay Cacbomit là dạng phân đạm tiêu biểu của nhóm phân
đạm amit và là dạng phân đạm phổ biến nhất trong thực tế sản xuất nông nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
- CTHH: CO(NH
2
)
2
- Thành phần: Chứa 46% N và không quá 2% biurê (nếu >2% sẽ gây độc

cho hầu hết các loại cây trồng, giảm hiệu quả của phân).
18
- Tính chất:
+ Phân urê có dạng tinh thể, viên tròn như trứng cá, kích thước hạt 1 –
3mm, màu trắng đục hay trắng ngà, không mùi, hoà tan nhanh trong nước,
rất linh động.
+ Phân urê có thể coi là có phản ứng trung tính sinh lý, do sau khi bón
vào đất urê chuyển hoá thành cacbonat amon tuy tạm thời làm cho đất kiềm nhờ
phản ứng sau đây:
(NH
4
)
2
CO
3
+ H
2
O ↔ NH
4
HCO
3
+ NH
4
OH
Ion NH
4
+
được tạo thành có thể được cây, vi sinh vật sử dụng, hoặc keo đất
hấp phụ, ngoài ra có thể bị nitrat hoá thành HNO
3

mà tạm thời làm cho đất chua.
Nhưng sau 1 thời gian cây hút đạm ở hai dạng NH
4
+
và NO
3
-
, gốc axit và gốc kiềm
đều biến mất, nên độ pH trong đất thay đổi không đáng kể.
+ Ở nhiệt độ > 20
0
C phân hút ẩm chảy nước, trở nên nhớt và lạnh, có
thể vón cục và đóng tảng gây ảnh hưởng xấu đến trạng thái vật lý và sử dụng
của phân.
+ Phân urê còn được gọi là phân amôn hiệu quả chậm, do sự chuyển hoá
của urê trong đất thành amôn cần thiết cho việc cung cấp dinh dưỡng thuận lợi cho
cây lại tuỳ thuộc nhiệt độ, ẩm độ, chất hữu cơ, pH đất, vi sinh vật… Trong đó
quan trọng nhất là nhiệt độ. Nhiệt độ môi trường 30
0
C quá trình xẩy ra nhanh (3
ngày) nhiệt độ thấp 10
0
C quá trình xẩy ra chậm hơn nhiều (10 ngày).
CO(NH
2
)
2
+ H
2
O VSV

10 – 30
0
C
(10 – 3 ngày)
+ Phân urê có thể bị mất NH
3
khi bón vãi phân trực tiếp trên mặt đất
(không vùi phân vào đất sau khi bón) do phân sau khi được chuyển hoá thành
cacbonat amôn, chất này không bền vững, dễ bị phân huỷ thành amoniac và
bicacbonat amon mà dẫn đến mất đạm dưới dạng NH
3
. Quá trình này xẩy ra mạnh
trong môi trường từ trung tính đến kiềm.
19
(NH
4
)
2
CO
3

pH kiềm
Khi đất có ẩm, NH
3
có thể tạo thành NH
4
OH mà hạn chế việc mất NH
3
.
NH

3
+ H
2
O = NH
4
OH
+ Phân urê còn có thể bị mất đạm trong điều kiện nhiệt độ cao vì sau
khi đã chuyển thành cacbonat amôn, chất này có thể hợp với nước và CO
2
chuyển
thành bicacbonat amôn.
(NH
4
)
2
CO
3
+ H
2
O + CO
2
→ NH
4
OH + NH
4
HCO
3
Bicacbonat amôn được tạo thành trong các phản ứng chuyển hoá trên dễ bị phân
huỷ trong điều kiện nhiệt độ cao tạo khả năng mất đạm ở dạng NH
3

.
NH
4
HCO
3
> 30
0
C
- Đặc điểm Sử dụng:
+ Phân sử dụng tốt cho nhiều loại cây trồng (do thành phần của phân
không có ion gây hại).
+ Phân có thể sử dụng tốt trên các loại đất khác nhau đặc biệt thích hợp
trên đất chua, đất bạc màu, đất rửa trôi mạnh.
+ Phân có thể sử dụng dưới nhiều hình thức: Bón lót, bón thúc, bón vào
đất hoặc phun trên lá, (nên sử dụng phân có hàm lượng biurê thấp tốt nhất là <
0,25%; chú ý tới nồng độ dinh dưỡng để phun).
Ví dụ: 1 – 2%: cây hoà thảo
0.5 – 1.0%: cây ăn quả 0.5 – 1.5%: cây rau
Nồng độ cụ thể còn tuỳ thuộc vào thời kỳ sinh trưởng của cây.
+ Urê còn có thể sử dụng cho vào khẩu phần thức ăn chăn nuôi, có
nhiều ứng dụng khác trong công nghiệp.
+ Để tránh quá trình amôn hoá phân urê trên mặt đất, dẫn đến mất
đạm cần bón phân sâu 10 – 14cm vào đất (bón cho cây trồng cạn cần vùi phân
sâu vào đất hay dùng nước tưới hoà phân đưa phân thấm xuống sâu, bón cho lúa
20
cần bón vào tầng khử của đất).
+ Không được bón phân trực tiếp dưới trời nắng gắt, trời mưa sẽ làm
mất đạm.
+ Do hàm lượng dinh dưỡng có trong phân cao, nên trộn phân thêm với
đất bột, phân chuồng mục…để tăng khối lượng cho dễ bón.

* Phân Canxi xianamit
- Công thức hoá học: CaCN
2
được tạo thành do phản ứng của carbua canxi
CaC
2
với đạm có 21 – 22%.
- Thành phần: 20 – 23% N; 20 – 54% CaO
- Tính chất: Phân nguyên chất có dạng bột màu trắng. Phân lẫn tạp chất
có dạng bột màu đen. Phân không tan trong nước, dễ gây bỏng và tính sát
trùng cao (diệt nấm, bệnh u rễ bắp cải, sâu bọ hung, bổ củi, tuyến trùng, ký sinh trùng
gia súc), có phản ứng kiềm.
Bón vào đất CaCN
2
thuỷ phân dần dần qua nhiều bước cuối cùng thành urê
như sau:
2CaCN
2
+ 2H
2
O → Ca(HCN
2
)
2
+ Ca(OH)
2
(đất hơi chua)
2Ca(HCN
2
)

2
+ 2H
2
O > (CaOH)
2
CN
2
+ 3 H
2
CN
2
(đất hơi kiềm)
6Ca(HCN
2
)
2
+ 2H
2
O > Ca(OH)
2
+ (

H
2
CN
2
)
2
H
2

CN
2
+ H
2
O → CO(NH
2
)
2
- Đặc điểm sử dụng:
+ Bón phải trộn đều với đất và bón trước khi gieo cấy ít nhất 2 – 3 tuần
Vì các chất trung gian hình thành có thể gây độc cho vi sinh vật trong đất
+ Ngoài tác dụng làm phân bón xianamit canxi còn có tác dụng diệt trùng,
diệt nấm bệnh do phân chứa 20 – 54% CaO ở dạng rất hoạt động đồng thời thích
hợp để cải tạo các loại đất sét và đất đã mất nhiều vôi.
21
+ Có tác dụng làm rụng lá bông để có thể thu hoạch bằng máy
+ Có thể dùng làm phân bón thúc, nhưng phải ủ trước với đất.
1.1.5. Phân đạm hiệu quả chậm
- Khái niệm: Phân đạm tác dụng chậm là các dạng phân đạm có lớp
màng bọc hay các chất bổ trợ để phân không tan nhanh mà được giải phóng
dần cung cấp cho cây.
Tỷ lệ dinh dưỡng trong phân này thường thấp hơn so với phân thông
thường cùng loại vd: ure bọc lưu huỳnh chứa 38% N. Hiệu quả phân tăng lên
nhưng giá thành phân cũng tăng cao nên chưa được sử dụng phổ biến.
Các loại phân đạm tác dụng chậm đã được sử dụng ở nước ngoài:
Urefocmoldehit, ure bọc lưu huỳnh, ure viên to, oxamit…
22
1.2. Kỹ thuật bón phân đạm (1tiết)
Để đảm bảo bón phân đạm cho cây trồng đạt hiệu quả cao, tránh ảnh hưởng
xấu mà phân có thể gây ra cho cây trồng và môi trường, khi sử dụng phân đạm

cần chú ý những điểm sau:
1.2.1. Trong bón phân cho cây trồng không thể thiếu việc bón phân đạm, bón
phân đạm là cơ sở cho việc bón các loại phân khác cho cây, bón phân đạm là
then chốt của việc bón phân cho cây trồng.
+ Bón phân đạm cho hiệu quả cao, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu lực
chung của việc bón phân và hiệu lực của từng loại phân bón khác cho cây trồng.
+ Khi các điều kiện để cây sinh trưởng tốt được thoã mãn (giống cây, đặc
điểm kỹ thuật canh tác, bón phân cân đối, điều kiện sinh thái….) thì chính mức
bón phân N cho phép khai thác đến mức đối đa tiềm năng năng suất cây trồng.
1.2.2. Khi bón phân đạm cần xác định cẩn thận không chỉ về lượng phân bón
mà cả phương pháp bón phân để đảm bảo bón phân đạt hiệu quả cao, đồng thời
tránh được những ảnh hưởng xấu có thể xẩy ra đối với cây trồng và môi
trường.
+ Nếu bón thiếu đạm so với yêu cầu năng suất của cây trồng, cây sinh
trưởng phát triển kém, năng suất, phẩm chất thấp đồng thời việc cây phải khác
thác nhiều đạm từ đất dẫn đến suy kiệt đất và không thể sinh trưởng phát triển
bền vững.
+ Nếu bón thừa đạm so với yêu cầu năng suất của cây trồng thì cây phát
triển quá mạnh các cơ quan sinh trưởng, kéo dài thời gian sinh trưởng, tạo điều
kiện cho sâu bệnh hại tấn công, gây hiện tượng “lốp”, đổ ở cây hoà thảo, giảm
năng suất và phẩm chất, ảnh hưởng xấu tới môi trường.
+ Khi xác định phương pháp bón đạm (thời kỳ bón, vị trí bón và phối hợp
dạng phân đạm với các dạng phân khác nhau) không phù hợp điều kiện cây
trồng, đất trồng cũng có khả năng làm cho cây bị thiếu hay thừa đạm cục bộ
và cũng có thể gây ảnh hưởng xấu tới cây và môi trường.
23
Vd: Việc bón phân đạm không đúng vị trí, bón phân vào tầng oxy hoá của
đất lúa cũng làm phần lớn phân đạm bị mất do phản đạm hoá và rửa trôi bề mặt.
Việc trộn phân đạm amôn với các phân có phản ứng kiềm (lân nung chẩy, tro bếp)
khi bón sẽ làm mất đạm một cách vô ích.

1.2.3.Những cơ sở xác định lượng phân đạm bón hợp lý cho cây trồng:
+ Đặc điểm sinh lý và mục tiêu năng suất của cây trồng cần đạt: Mỗi
loại cây trồng và ứng với mọi mức năng suất của nó, có đặc điểm sinh lý về nhu
cầu N khác nhau.
Bảng 2.1. Nhu cầu bón đạm của các loại rau (kg N/ha)
Rất cao
200 – 240
Cao
150 – 180
Trung bình
80 – 100
Thấp
40 - 80
Súp lơ, cải bắp
đỏ, cải bắp
(sớm)
Cải thìa, bí đỏ, cà
rốt muộn, tỏi tây,
cải Bixen, cải bắp
Cải bao, dưa chuột,
tỏi, su hào, mùi,
đậu rau, cà rốt sớm,
cà chua, hành
Đậu trắng, đậu
Hà Lan, hành ta
Nguồn: Nguyễn Như Hà, 2006
Ví dụ: Để đạt năng suất lúa 5 tấn thóc/ha/vụ trên đất PSSH cần hơn 80 –
120 kg N/ha.
+ Yếu tố đất đai: Mỗi loại đất trồng có khả năng cung cấp đạm cho cây
khác nhau, thể hiện thông qua các chỉ tiêu: Hàm lượng đạm tổng số; hàm lượng

đạm thuỷ phân; tỷ lệ C/N của đất; thành phần cơ giới đất, điều kiện sinh thái đất.
Do vậy, nếu trồng cây trên đất có khả năng cung cấp nhiều đạm thì
giảm lượng phân bón mà vẫn đạt năng suất cao và ngược lại. Thành phần cơ
giới đất nhẹ hoặc nằm ở vị trí thoáng khí (chân vàn, vàn cao) có điều kiện thuận để
quá trình chuyển hoá từ N tổng số đến N dễ tiêu.
+ Đặc điểm và tình hình phát triển của cây trồng trước, cho biết khả
năng để lại hay lấy đi nhiều đạm từ đất và từ phân bón cho cây trồng sau trong
hệ thống luân canh.
24
Ví dụ: Cây trồng có khả năng để lại đạm cho đất: cây họ đậu
Cây lấy đi nhiều N từ đất: Ngô
Ngoài ra, còn có thể do cây trồng trước phát triển kém và dịch hại, thiên
tai mà lượng đạm bón cho nó chưa được sử dụng hết có thể để lại N cho vụ sau.
+ Đặc điểm khí hậu thời tiết vụ tính lượng phân bón: Có liên qua tới
khả năng chuyển hoá và cung cấp N của đất nhiều hay ít hơn. Vụ đang trồng
có thời tiết thuận lợi có thể giảm lượng bón và ngược lại.
Ví dụ: Lượng bón cho lúa mùa thường thấp hơn lúa xuân, do khả năng cung
cấp đạm của đất trong điều kiện vụ mùa thường cao hơn vụ xuân.
1.2.4. Những cơ sở cho việc xác định thời kỳ bón phân N hợp lý cho cây trồng.
+ Đặc điểm sinh lý của cây trồng về nhu cầu đạm trong quá trình sinh
trưởng:
Ở thời kỳ đầu sinh trưởng sinh dưỡng, cây có nhu cầu đạm cao để phát
triển các cơ quan sinh trưởng.
Ở giai đoạn sinh trưởng sinh thực, nhu cầu N của cây ít đi, nếu bón thừa
N ở giai đoạn này có nhiều khả năng ảnh hưởng xấu tới cây và không còn khả
năng khắc phục như ở giai đoạn trước.
+ Đặc điểm thành phần cơ giới đất.
Đất có thành phần cơ giới nhẹ (có khả năng hấp phụ kém, giữ phân kém):
Nếu bón tập trung 1 lượng phân đạm lớn sẽ dễ dàng mất đạm do rửa trôi. Để hạn
chế mất đạm trên đất này phải chia tổng lượng phân đạm cần bón ra làm nhiều

lần bón, theo sát nhu cầu của cây ở từng thời kỳ sinh trưởng.
Đối với đất có thành phần cơ giới nặng, do đất có khả năng giữ phân
tốt, lại có thể bón tập trung một lượng phân đạm lớn nhằm cung cấp dinh
dưỡng cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng mà không sợ bị mất, giảm
được công bón phân.
1.2.5. Những cơ sở cho việc xác định vị trí bón phân N hợp lý cho cây trồng là:
25

×