Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận: Vai trò, mục đích và ý nghĩa của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.11 KB, 12 trang )

I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách
khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá
nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn
việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà
nhà nước sử dụng trong lĩnh vực này, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày càng tăng của các quy định pháp luật về
môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là biểu
hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường và dẫn đến một hệ quả tất
yếu là phải đào tạo, giáo dục công dân những kiến thức về pháp luật môi
trường. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các loại quan hệ kinh tế là rất đa
dạng. Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác
quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế
gồm nhiều loại, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp
dụng một loại biện pháp, một loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp,
một vài công cụ đơn lẻ nào đó là có thể điều chính được sự đa dạng về chủ
thể cũng như phương thức sản xuất quản lý và bảo vệ môi trường. Các quốc
gia đã đưa ra 7 loại công cụ kinh tế cơ bản sau: chính sách thuế, chính sách
tài trợ của Nhà nước, phí môi trường, hệ thống đặt cọc – hoàn trả, giấy phép
chuyển nhượng, nhãn môi trường, bảo hiểm môi trường.
Bài viết này tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường để thấy được vai trò, mục đích và ý nghĩa
của nó đối với việc quản lý môi trường.
1
II- NỘI DUNG
1- Khái niệm công cụ quản lý kinh tế
Công cụ quản lý về môi trường là các phương thức hay biện pháp hành
động thực hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khoa


học và sản xuất. Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng, mỗi một công cụ
có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Khi nhắc đến các công cụ quản lý về môi trường không thể không nhắc
đến công cụ kinh tế. Công cụ kinh tế ( còn gọi là công cụ thị trường hay các
cách tiếp cận thị trường) đang ngày càng được nhiều nước sử dụng. Đây
chính là sử dụng sức mạng của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo
cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, khi áp dụng công cụ này được cân nhắc một
cách chặt chẽ để các công cụ này phù hợp với hệ thống tài chính, tập quán,
truyền thống và năng lực của hệ thống hành chính, hệ thống thể chế cùa từng
nước.
Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm thay đổi kinh phí
và lợi ích của những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi
trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra hủy hoại môi
trường. Từ những ứng dụng trong thực tiễn cho thấy:
- Công cụ kinh tế là một trong những phương tiện chính sách
được sử dụng để đạt tới mục tiêu môi trường thành công, do nó mềm dẻo, dễ
lựa chọn cho người thực hiện.
- Công cụ kinh tế không phải phương tiện chính sách riêng biệt,
mà chúng được sử dụng thường xuyên cùng với các phương tiện chính sách
khác như quy định pháp lý về điều hành và kiểm soát (CAC).
(1)
Công cụ kinh tế chỉ có thể áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị
(1): Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Trần Thanh Lâm, tr.59
2
trường. Hiện nạy, công cụ kinh tế đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên
thế giới đặc biệt là tại các nước công nghiệp phát triển OECD. Ở các nước
đang phát triển, chính sách môi trường thường sử dụng hai loại công cụ chủ
yếu là mệnh lệnh và kiểm soát ( hay pháp lý) và kinh tế. Các công cụ khác
như công cụ kỹ thuật quản lý, công cụ giáo dục, truyền thông cũng được sử
dụng nhằm bổ sung, hỗ trợ và góp phần hoàn chỉnh hai công cụ pháp lý và

kinh tế.
2- Các nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường.
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên hai
nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là nguyên tắc “ Người gây ô
nhiễm phải trả tiền” (PPP) và “ Người hưởng thụ phải trả tiền”.
a- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bắt nguồn từ các
sáng kiến do Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề xuất hợp tác
vào các năm 1972 và 1974. Nguyên tắc này xuất phát từ những luận điểm
của Pigow về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất là
một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ có thể phản
ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường ( bao gồm các
chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như những dạng ảnh
hưởng khác tới môi trường). Giá cả phải “nói lên sự thật” về những chi phí
sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến việc sử
dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn
so với mức tối ưu đối với xã hội.
Việc buộc người gây ô nhiễm phải trả tiền là một trong những cách tốt
nhất để làm giảm báo cáo tác động của ngoại ứng gây tác động xấu đến thị
trường. Nguyên tắc này chủ trương sửa chữa “ thất bại thị trường” do không
tính chi phí môi trường trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ hoặc tính thiếu
3
bằng cách bắt buộc những người gây ô nhiễm phải tiếp thu đầy đủ chi phí
sản xuất.
b- Nguyên tắc “ người hưởng thụ phải trả tiền” chủ trương tạo lập
một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc
người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường
đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc tắc
này là tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành không bị
ô nhiễm, thì đều phải nộp phí. Nguyên tắc này đưa ra giải pháp bảo vệ môi

trường với một cách nhìn nhận riêng. Nguyên tắc chủ trương việc phòng
ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người
muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho các chất gây ô
nhiễm.
3- Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong quản lý môi
trường
a- Chính sách thuế:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp
đơn thuần chỉ sử dụng thành phần môi trường thì chủ yếu các doanh nghiệp
vừa sử dụng thành phần môi trường vừa khai thác sử dụng tài nguyên. Như
vậy thông qua các cơ cấu kinh tế, chinh sách thuế được chia làm hai loại:
Thuế tài nguyên và thuế môi trường.
*) Thuế tài nguyên:
“Là loại thuế gián thu, thu từ các hoạt động khai thác tài nguyên, do
người sử dụng tài nguyên đóng góp”
(2)
. Từ trước đến nay tình trạng khai thác
bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng như ở các
nước khác rất phổ biến dẫn đến các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
và suy thoái môi trường. Trước thực tế đó, việc phát triển và cải tiến các loại
(2):Bùi Đường Nghiêu, Thuế môi trường, NXB tài chính, 2006
4
thuế sử dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ có vai trò cốt yếu. Mục đích
thuế tài nguyên nhằm xác lập mức tối đa về sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
khuyến khích những hành vi đảm bảo cuộc sống bền vững. Thuế tài nguyên
phải được sử dụng từng bước đế tránh làm mất cân bằng kinh tế, phải hợp lý
điều chỉnh có lợi cho kinh tế xã hội. Nếu muốn giảm suy thoái tài nguyên và
ô nhiễm môi trường, Chính phủ cần tăng thuế. Ngước lại nếu muốn tăng
việc làm, giảm thất nghiệp cần giảm thuế. Thuế tài nguyên có sự phân biệt
giữa các sản phẩm cùng loại với mức độ tác động khác nhau lên môi trường

theo hướng ngày càng gây tác hại tới môi trường mức thuế càng phải nộp
cao.
Thuế tài nguyên gồm: thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng,
thuế tiêu thụ năng lượng.
*) Thuế môi trường: Tại khoản 1, điều 112, luật bảo vệ môi trường
2005 quy định: “ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh một số
loại sản phẩm gây tác động xấu, lâu dài tới môi trường và sức khỏe con
người thì phải nộp thuế môi trường”. Theo quy định này thì thuế môi trường
là khoản đóng góp của thể nhân và pháp nhân khi sử dụng thành phần môi
trường. Như vậy, trong trường hợp này, thuế sử dụng vào các thành phần
môi trường sẽ có xu hướng phát triển thêm thu nhập cho ngân sách nhà
nước. Thuế môi trường dùng để khuyến khích, bảo vệ và nâng cao hiệu suất
sử dụng các yếu tố môi trường, hạn chế các tác nhân gây ra ô nhiễm vượt
quá tiêu chuẩn quy định. Nguyên tắc đánh thuế: thuế phải lớn hơn chi phí để
giải quyết phế thải và khắc phục ô nhiễm. Biện pháp đánh thuế sẽ gây sức
ép, buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng
nguyên, nhiên liệu hoặc thay thế nguyên, nhiên liệu ít gây ô nhiễm hơn, áp
dụng kỹ thuật chống ô nhiễm. Các loại thuế môi trường chủ yếu:
- Thuế ô nhiễm bầu không khí
5
- Thuế ô nhiễm tiếng ồn
- Thuế ô nhiễm các nguồn nước
Chính phủ các nước còn áp dụng các biện pháp giảm thuế nhằm khuyến
khích các hoạt động có lợi cho môi trường như giảm thuế cho các ngành sản
xuất phân bón vi sinh thay cho phân bón hóa học, các ngành công nghiệp xử
lý rác thải, nước thải, sản xuất “ sản phẩm xanh”. Do sử dụng thành phần
môi trường nên các tổ chức, cá nhân bắt buộc phải nộp thuế và nó không
mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho người sử dụng các thành
phần môi trường bởi mục đích của việc đánh thuế môi trường là nhằm bảo
vệ môi trường, giữ cho môi trường trong lành phục vụ sự nghiệp phát triển

lâu bền của đất nước.
b- Phí môi trường
Việc áp dụng phí môi trường đã có hậu quả rõ nét nhằm thay đổi hành
vi của các đối tượng gây ô nhiễm. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có
mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư,
khắc phục cải thiện môi trường. Hiện nay nước thải, khí thải và các loại chất
thải rắn của các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà hàng… đang là nguồn gây ô
nhiễm chính môi trường đất, nước, không khí. Để có vốn đầu tư, khắc phục
và cải thiện môi trường cũng như khuyến khích và cải thiện môi trường cũng
như khuyến khích các đối tượng gây ô nhiễm có biện pháp kiểm soát và
giảm thiểu ô nhiễm, Nhà nước ta đã xây dựng chương trình thu phí bảo vệ
môi trường như một giải pháp sử dụng các công cụ kinh tế bảo vệ môi
trường…
Theo đó, “phí là khoản thu của ngân sách nhà nước nhằm bù đắp một
phần khoản chi đầu tư, bảo sưỡng các công trình công cộng và duy trì các
hoạt động của nhà nước”
(3)
. Phí môi trường được coi là một công cụ kinh tế
(3): Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Trần Thanh Lâm, NXB LĐ
6
để góp phần bảo vệ môi trường bởi vì nó được áp dụng với 2 mục đích: một
là để chi cho các hoạt động cải thiện môi trường sinh thái, hai là khuyến
khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường. Như
vậy, phí môi trường là những khoản tiền phải trả cho việc sử dụng môi
trường với tư cách là nơi chứa đựng chất thải. Thực hiện nguyên tắc “ người
sử dụng phải trả tiền” nhiều nước quy định thu phí và lệ phí tùy theo mục
đích sử dụng và hoàn cảnh như: phí vệ sinh thành phố, phí nuôi và giết mổ
gia súc trong các đô thị, phí cung cấp nước cho sinh hoạt và tưới tiêu trên
đồng ruộng, lệ phí đường phố, lệ phí sử dụng bờ biển, danh lam, thắng
cảnh…Việc áp dụng phí là một vấn đề mới trong kiểm soát ô nhiễm và cái

mới đó thường khó được chấp nhận. Phạm vi áp dụng của các loại phí môi
trường gồm:
*) Phí đánh vào nguồn ô nhiễm: là loại phí đánh vào các chất gây ô
nhiễm được thải ra môi trường nước, khí quyển, đất hoặc gây tiếng ồn, ảnh
hưởng tới môi trường xung quanh. Biện pháp này có tác dụng khuyến khích
các tác nhân gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường và
tăng thêm nguồn thu cho Chính phủ để sử dụng vào việc cải thiện chất lượng
môi trường. Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được sử dụng rộng rãi nhất là
các chất gây ô nhiễm nguồn nước mặn. Ngoài ra, tại một số nước, phí này
còn được dùng để đánh vào chất gây ô nhiễm không khí, tác nhân gây ra
tiếng ồn( máy bay) Tuy nhiên việc áp dụng loại phí này đối với chất gây ô
nhiễm không khí có phần phức tạp do rât khó kiểm soát lượng ô nhiễm thải
ra để tính mức thu phí.
*) Phí đánh vào người sử dụng:
Là tiền phải trả do được sử dụng các hệ thống công cộng xử lý và cải
thiện chất lượng môi trường như hệ thống thoát nước, thu gom rác thải…
Các khoản thu từ loại phí này được dùng để góp phần bù đắp chi phí bảo
7
đảm cho hệ thống này hoạt động. Loại phí này chủ yếu được áp dụng đối với
các loại chất thải có thể kiểm soát. Chính vì vậy có 2 cách thu chủ yếu là thu
theo số lượng và chất lượng chất thải; và thu theo mức cố định đối với tổ
chức cá nhân( hiện nay phí này được gọi là phí vệ sinh). Mục đích chính của
phí này chủ yếu là nhằm tăng nguồn thu cho Chính phủ và đối tượng thu là
những cá nhân hay đơn vị trực tiếp sử dụng hệ thống dịch vụ công cộng.
*) Phí đánh vào sản phẩm:
Là loại phí được dùng đối với những loại sản phẩm gây tác hại tới môi
trường một khi chúng được sử dụng trong các quá trình sản xuất, tiêu dùng
hay loại bỏ chúng.
Loại phí này được áp dụng với những sản phẩm chứa chất độc hại và
với một khối lượng nhất định chúng sẽ gây tác hại tới môi trường. Phí này

có mục đích là khuyến khích giảm ô nhiễm bằng giảm việc sử dụng, tiêu thụ
các sản phẩm bị thu phí và tăng nguồn thu cho Chính phủ. Mức phí do đó sẽ
tùy thuộc vào mục tiêu đặt ra đối với loại phí này là gì.
c- Hệ thống đặt cọc, hoàn trả
Hệ thống đặt cọc hoàn trả bao gồm việc ký một số tiền cho các sản
phẩm có tiềm năng gây ô nhiễm. Nếu các sản phẩm được đưa trả về một số
điểm thu hồi quy định hợp pháp sau khi sử dụng, tức là tránh khỏi bị ô
nhiễm, tiền ký thác sẽ hoàn trả.
Hệ thống này có thể được áp dụng cho bất kỳ sản phẩm nào mà chúng
đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sản xuất nhằm đảm bảo an toàn cho việc
đặt cọc và hạn chế bớt những hàng hóa ít có giá trị sử dụng mà lại có thể gây
ra mức ô nhiễm nhiều hơn. Ví dụ như: những chuyến tàu thủy vận chuyển xe
ô tô, những container thuốc trừ sâu Khi có các hoạt động có nguy cơ ảnh
hưởng xấu tới môi trường, chủ doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
phải sản xuất kinh doanh phải đặt cọc một khoản tiền đảm bảo việc thực
8
hiện các biện pháp khắc phục môi trường. Hơn nữa cơ cấu kinh tế này áp
dụng sẽ nâng cao tài nguyên cũng như xử lý vi phạm được dễ dàng hơn khi
chủ doanh nghiệp không khôi phục môi trường thì nhà nước sẽ sử dụng số
tiền này để thuê các tổ chức, cá nhân khác tiến hành khôi phục môi trường.
d- Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng
Giấy phép môi trường chuyển nhượng ( hay còn gọi là quoto ô nhiễm)
là loại giấy phép xả thải mà người sử dụng được cấp có quyền chuyển
nhượng số lượng, chất lượng xả thải của cơ sở mình cho người khác. Loại
giấy này cho phép được đổ phế thải hay sử dụng một nguồn tài nguyên đến
một mức định trước do pháp luật quy định và được chuyển nhượng bằng
cách đấu thầu hoặc trên cơ sở quyền sử dụng đã có sẵn. Những giấy phép
chuyển nhượng này ưu việt hơn thuế trong trường hợp cần xác lập một mức
độ tối đa số rác thải hoặc định mức sử dụng tài nguyên. Giấy phép chuyển
nhượng sẽ không có hiệu lực khi những phế thải bị hạn chế đến một tỉ lệ rất

nhỏ so với toàn bộ chi phí sản phẩm, lúc đó sẽ không còn tác dụng khuyến
khích sự tham gia nữa. Nói chung, nó được coi là một biện pháp tạm thời
trong khi chờ đợi đạt được tiêu chuẩn chính xác hơn.
Mục đích của giấy phép chuyển nhượng là khuyến khích doanh nghiệp
giảm lượng chất thải, về mặt kinh tế thì loại công cụ kinh tế này nhằm bảo
vệ môi trường mà nó là cơ cấu kinh tế nhằm bảo vệ môi trường bằng việc
khuyến khích các doanh nghiệp giảm lượng chất thải. Ở một số quốc gia
phát triển thì giấy phép chuyển nhượng có tính ưu điểm hơn thuế ở chỗ nó
ràng buộc các nhà sản xuất trước khi bước vào hoạt động sản xuất kinh
doanh phải tìm cách ngăn ngừa ô nhiễm.
9
III- Kết luận
Các công cụ kinh tế là một trong số các công cụ của quản lý môi
trường, chúng có thể được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho các công cụ
khác của quản lý môi trường. Khi sử dụng các công cụ trong quản lý môi
trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên và
môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Sự phát triển của kinh tế Việt Nam
cũng đã làm tăng sức ép cho môi trường. Nhằm giảm thiểu những tổn hại do
hoạt động kinh tế gây ra nhà nước ta đã bước đầu có những nỗ lực lớn trong
việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, trong đó có việc áp dụng các
công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường. Tuy còn tương đối mới ở nước ta,
nhưng có thể thấy được tính ưu việt của công cụ kinh tế trọng quản lý môi
trường. Ở nước ta, khả năng thay thế ngay lập tức ở các công cụ pháp lý
truyền thống hiện đại vẫn còn phát huy hiệu lực bằng các công cụ kinh tế
mới đang ở giai đoạn nghiên cứu để áp dụng thử. Chính vì thế trong thiết kế
các chính sách, chiến lược về môi trường, vấn đề cơ bản sẽ không phải là
chọn công cụ kinh tế hay công cụ pháp lý mà là làm thế nào để lựa chọn
được sự phối hợp tối ưu giữa các loại hình công cụ này, xuất phát từ thực
tiễn kinh tế, chính trị và khả năng thực tế.
10

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình luật môi trường, NXB công an nhân
dân, 2006
2- Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Trần
Thanh Lâm, NXB Lao động
3- Bùi Đức Nghiêu, thuế môi trường, NXB tài
chính, 2006
4- Luật bảo vệ môi trường năm 2005
11
Mục lục
I-ĐẶT VẤN ĐỀ
II-NỘI DUNG
1 - Khái niệm công cụ quản lý kinh tế
2- Các nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng các công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường
3- Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong quản lý môi
trường
a- Chính sách thuế
b- Phí môi trường
c- Hệ thống đặt cọc, hoàn trả
d- Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng
IV- KẾT LUẬN
12

×