Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
MỜI CÁC BẠN ĐẾN VỚI CÂU LẠC BỘ TOÁN TIỂU HỌC
(violet.vn/toantieuhoc)
NƠI GIAO LƯU – TRAO ĐỔI VỀ CHUYÊN MÔN TOÁN TIỂU HỌC
NƠI CUNG CẤP CÁC TÀI LỆU VỀ TOÁN TIỂU HỌC TỪ A ĐẾN Z
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH PHÂN BIỆT ĐƯỢC TỪ
LÁY VÀ TỪ GHÉP QUA CÁC TIẾT DẠY TĂNG CƯỜNG
*********
Các nội dung chính trong đề tài
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
1/ Tầm quan trọng của phân môn luyện từ và câu trong môn học Tiếng
Việt bậc Tiểu học.
2/ Thực trạng của việc học tập và vận dụng kiến thức về câu và từ để nghe
đọc, nói, viết cuả học sinh lớp 5/2 trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc.
3/ Thực trạng của nội dung sách giáo khoa giảng dạy chương trình chính
khóa đang hiện hành
a/ Mặt tích cực:
b/ Mặt hạn chế:
II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Sử dụng tiết tăng cường để củng cố kiến thức được học trong chương
trình chính khoá.
2/ Thiết kế tiết dạy củng cố kiến thức về từ láy
3/ Thiết kế tiết dạy củng cố kiến thức về từ ghép.
4/ Thiết kế tiết dạy giúp học sinh phân biệt từ láy và từ ghép
5/ Một số bài tập vận dụng kiến thức về từ láy và từ ghép
6/ Kết qủa đạt được
7/ Bài học kinh nghiệm
III/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1/ Các kiến nghị, đề xuất
2/ Tài liệu tham khảo
1
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH PHÂN BIỆT ĐƯỢC TỪ LÁY VÀ
TỪ GHÉP QUA CÁC TIẾT DẠY TĂNG CƯỜNG
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
1/ Tầm quan trọng của phân môn luyện từ và câu trong môn học Tiếng
Việt bậc Tiểu học.
Trong chương trình Tiếng Việt sau năm 2000, tức là chương trình đang
hiện hành, hai phân môn từ ngữ và ngữ pháp trước đây được tích hợp thành một
phân môn có tên gọi là Luyện từ và câu. Phân môn này cung cấp toàn bộ kiến
thức về quy tắc cấu tạo từ, biến đổi từ, kết hợp từ thành cụm từ, câu - đơn vị nhỏ
nhất để thực hiện chức năng giao tiếp. Luyện từ và câu cũng là một yếu tố quan
trọng để phát triển năng lực trí tuệ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người
học sinh . Vì vậy ngay từ những ngày đầu đến trường, học sinh đã làm quen với
luyện từ và câu qua việc học âm, vần, tiếng từ ở lớp 1, các kiểu câu đơn giản ở
lớp 2, các từ loại cơ bản ở lớp 3, các biện pháp tu từ nghệ thuật quen thuộc hoặc
cấu trúc về câu, cụm từ, nghiã của từ v v ở lớp 4 , 5. Cụ thể , luyện từ và câu
giúp cho học sinh tiểu học có hiểu biết về quy tắc câú tạo từ , nắm quy tắc dùng
từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp. Trên cơ sở đó, học sinh
nắm được các quy tắc chính tả , dấu câu, nắm chuẩn văn hoá lời nói.
Trong thực tế , giáo viên tiểu học gặp nhiêù khó khăn khi dạy luyện từ
và câu, đặc biệt là giáo viên dạy lớp 5. Năm học cuối cấp tiểu học, kiến thức về
từ và câu được cung cấp khá nhiều, khá sâu, chương trình lại cấu trúc theo kiểu
đồng tâm mở rộng nên nếu không nắm được kiến thúc ở lớp dưới, các em sẽ khó
tiếp thu được kiến thức mới ở lớp trên . Sau đây, tôi xin trình bày một số hạn chế
của học sinh lớp 5/2, lớp tôi đang giảng dạy trong việc học tập luyện từ và câu.
2/ Thực trạng của vi ệc học tập và vận dụng kiến thức về câu và từ để nghe
đọc, nói, viết cuả học sinh lớp 5/2 trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc.
2
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Tình hình học tập của học sinh hiện nay so với học sinh các năm trước
có những tiến bộ đáng kể, nhất là khả năng giao tiếp. Học sinh đã tự tin hơn khi
trình bày ý kiến trước đám đông, có khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp cuả các
tác phẩm văn học và được học nhiều kiến thức mới so với nội dung chương trình
cũ như thuyết trình tranh luận, phát biểu cảm nghĩ v v Tuy nhiên, về phần từ
và câu, học sinh còn mắc phải những hạn chế sau :
a/ Kĩ năng nhận diện từ , phân cắt các đơn vị từ trong câu còn nhiều sai
lệch
b/ Kĩ năng phân loại và nhận diện từ theo cấu tạo còn nhiều lầm lẫn.
c/ Kĩ năng nhận diện và phân tích các thành phần câu chưa thật chính xác.
d/ Kĩ năng xác định từ loại còn hạn chế.
Trong các hạn chế trên, mặt nào cũng cần khắc phục. Tuy nhiên , trong
phạm vi đề tài này, bản thân tôi muốn trình bày sâu một vấn đề . Đó là kĩ năng
phân loại và nhận diện từ theo cấu tạo còn nhiều hạn chế. Ở đơn vị kiến thức
naỳ, học sinh thường mắc các lỗi như sau:
• Học sinh còn xác định sai từ ghép khi cả hai tiếng có bộ phận cuả tiếng
giống nhau như các từ : nhân dân, mệt mỏi, buồn bực, chèo chống
v v
• Học sinh chưa nhận dạng được các từ láy đặc biệt khuyết phụ âm đầu
thường là các từ tượng thanh, tượng hình.
• Học sinh không phân biệt được từ ghép phân loại và từ ghép tổng hợp
trong các trường hợp từ đó có tiếng gốc là một động từ hay một tính
từ.
• Học sinh có vốn từ ghép và từ laý có 3 hay 4 tiếng rất hạn chế, ít ỏi.
Vì sao học sinh lại mắc những tồn tại trên, trước hết ta phải tìm hiểu từ nội
dung sách giáo khoa , phương pháp giảng dạy của giáo viên, điều kiện học
tập của học sinh và một số vấn đề có liên quan khác.
3/ Thực trạng của nội dung sách giáo khoa giảng dạy chương trình chính
khóa đang hiện hành và phương pháp giảng dạy của giáo viên:
3
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
a/ Mặt tích cực:
Sách giáo khoa đang hiện hành được biên soạn theo quan điểm tích hợp,
quan điểm giao tiếp và quan điểm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
Sự thể hiện các quan điểm này trong sách giáo khoa được thể hiện rất rõ ràng.
Các kiến thức học sinh được học đan xen, kiến thức về từ học cùng với kiến
thức về câu, học sinh vừa học miêu tả ở tiết trước, tiết sau lại được làm quen với
đơn từ. Kiến thức ở bài sau được mở rộng hơn so với bài trước. Hệ thống kiến
thức được cung cấp chú ý nhiều đến việc rèn kĩ năng giao tiếp nên học sinh
không những nghe đọc tốt hơn mà viết nói cũng tốt hơn. Để giúp cho học sinh
tiếp thu tốt những kiến thức đó, giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp dạy
học, đặc biệt là phương pháp tích cực.
b/ Mặt hạn chế:
Tuy nhiên, sau một thơì gian thực dạy, bản thân tôi cũng nhận thấy những
hạn chế của nội dung chương trình, tuy không lớn nhưng phần nào đã ảnh hưởng
đến việc học tập và ghi nhớ kiến thức cuả học sinh. Đó là nếu không được học
các lớp 2 buổi trong ngày thì giáo viên khó có thể luyện tập cho học sinh để đào
sâu kiến thức. Tôi có thể đưa ra một ví dụ như sau:
Trong chương trình cũ, bài tìm hiểu về từ láy được học trong 4 tiết, bài tìm
hiểu về từ ghép được học trong 4 tiết. Tổng cộng là 8 tiết và được học liên tục
trong khoảng 8 tuần. Trong chương trình mới, nội dung được tích hợp nên kiến
thức về từ đơn và từ phức được học trong 2 tiết, thêm 2 tiết tìm hiểu về từ ghép
phân loại và từ ghép tổng hợp . Tổng cộng chỉ có 4 tiết. Vì thế khi lên lớp 5,
nhiều em đã quên kiến thức này, khi luyện tập thực hành, học sinh đạt kết quả
không cao. Chính vì thế, tôi đã tận dụng các tiết học tăng cường Tiếng Việt, xây
dựng 1 thiết kế bài dạy một cách khoa học nhất nhằm giúp học sinh nắm vững
kiến thức về từ .
II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Sử dụng tiết tăng cường để củng cố kiến thức được học trong chương
trình chính khoá.
* Vì sao không thể dùng tiết chính khoá để dạy củng cố cho học sinh
phần kiến thức về cấu tạo từ ?
4
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Câu hỏi này có thể được lí giải như sau: Các bài học trong nội dung
chương trình đã đạt chuẩn về kiến thức cần đạt. Giáo viên không được quyền cắt
xén thêm bớt hay thay thế . Vả laị nếu muốn mở rộng hoặc củng cố cho sâu, cho
vững cũng không đủ thời gian mà tiết học chính khóa sẽ trở nên nặng nề. Vì thế
cách giúp GV xử lí tốt nhất là dạy củng cố trong tiết học tăng cường. Và đó
cũng chính là yêu cầu của việc dạy học 2 buổi / ngày. Mặt khác , kiến thức về
cấu tạo từ , các em đã được học ở lớp 4. Việc củng cố mở rộng thêm kiến thức
để học sinh tiếp thu có thể tiếp thu tốt bài học mới là việc làm cần thiết mà GV
lớp 5 phải đảm nhận.
Sau đây , tôi xin trình bày các thiết kế bài dạy tôi đã áp dụng để củng cố
kiến thức về cấu tạo từ cho HS lớp 5/2
2/ Thiết kế tiết dạy củng cố kiến thức về từ láy :
I/ Mục tiêu:
* Giúp học sinh ôn lại kiến thức đã học về từ láy .
* Nhận dạng được từ láy.
* Tìm được từ láy có cùng một tiếng gốc cho trước.
* Biết sử dụng từ láy để viết đoạn văn có nội dung cho trước.
II/ Chuẩn bị:
• 4 lọ hoa trong đó có gắn các thẻ hoa ghi sẵn các kiểu từ láy .
• Bảng phụ ghi đoạn văn, bảng phụ ghi kết quả bài làm.
III/ Các hoạt động dạy học:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
A/ Giới thiệu bài: Giáo viên nêu mục đích
yêu cầu tiết học.
B/ Bài mới:
Hoạt động 1: Nhận dạng từ láy và từ ghép:
GV treo bảng phụ ghi sẵn nội dung sau:
Xếp những từ được in đậm trong đoạn văn
sau đây vào 2 nhóm: từ láy và từ ghép:
Biển luôn thay đổi theo màu sắc của mây
trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh,
- HS nghe.
- HS đọc đề và tìm hiểu đề
bài.
- HS thảo luận nhóm đôi.
5
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
như dâng cao lên chắc nịch. Trời âm u , mây
mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm
giông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một
con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh
lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt
gỏng.
GV yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi
trong thời gian 2 phút.
- Yêu cầu HS trình bày kết quả thảo luận
thông qua trò chơi: Ai nhanh hơn.
- GV treo 2 bảng phụ kẻ sẵn 2 nhóm từ . HS
nối tiếp nhau ghi từ vào các cột cho đúng. Đội
nào nhanh hơn và đúng sẽ là đội thắng cuộc.
GV nhận xét, chấm chữa và công bố đội
thắng.
GV chốt : Từ phức được chia thành 2 loại: từ
láy và từ ghép. Từ láy là những từ có bộ phận
của tiếng được láy lại giống nhau . Từ ghép là
từ có nhiều tiếng được ghép lại với nhau để
tạo nên một nghiã chung. Từ âm u là từ láy
đặc biệt. Đây là từ láy tượng hình khuyết phụ
âm đầu( chỉ có vần) .
GV yêu cầu HS tìm thêm các từ láy đặc biệt.
Hoạt động 2: Ôn về các kiểu từ láy:
GV hỏi: Có mấy kiểu từ láy?
GV tổ chức trò chơi : Cắm hoa
GV xếp lên bàn một giỏ hoa lớn trong đó có
nhiều bông hoa ghi sẵn từ và 4 lọ hoa đính sẵn
các kiểu từ láy trên thành lọ . Cho HS thi cắm
hoa vào lọ sao cho mỗi lọ chứa đúng kiểu từ
láy được ghi trên thành lọ hoa.
- HS tham gia trò chơi
Từ láy từ ghép
Âm u
Xám xịt
Nặng nề
Ầm ầm
Hả hê
Lạnh lùng
Thay đổi
Màu sắc
Đục ngầu
Xanh thắm
Mây mưa
Đăm chiêu
- HS: ồn ào, inh ỏi, ú ớ, êm
ái, ủn ỉn, ì ạch
- Có 4 kiểu từ láy: láy âm ,
láy vần , láy âm và vần , láy
tiếng.
HS tham gia trò chơi
Lọ 1: Láy âm: hồng hào,
vắng vẻ, chậm chạp, cần cù.
6
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Cho HS tham gia trò chơi trong 2 phút.
GV chấm chọn đôị thắng cuộc và đặt những
câu hỏi để học sinh ghi nhớ sự khác biệt của
các kiểu từ láy.
Hoạt động 3: Ôn về các dạng từ láy
GV : Ngoài số từ láy có 2 tiếng, Tiếng Việt
còn có một số lượng từ láy có 3, 4 tiếng rất
phong phú.
GV yêu cầu học sinh nêu những từ láy có 3 ,4
tiếng mà học sinh đã biết.
GV ghi bảng và dưạ vào các từ này để chốt ý:
Từ láy có 3 tiếng thường được cấu tạo như
sau: A ( Tiếng gốc) A’ A’’
Ví dụ: Xốp xồm xộp, tí tì ti, chút chùn chun
Từ láy có 4 tiếng được cấu tạo như sau:
Dạng 1: AB’AB: Khập khà khập khiễng, lon
ta lon ton, lủng cà lủng củng
Dạng 2: A A BB: Cười cười nói nói, buồn
buồn vui vui, chi chi chành chành,
Hoạt động 4: Viết đoạn văn khoảng 4,5 câu có
sử dụng từ láy để tả giờ chơi.
GV cho HS làm bài và tổ chức cho học sinh
trình bày bài làm , sửa chưã theo quy trình.
C/ Củng cố:
Trò chơi: Tìm từ láy có tiếng gốc cho trước.
GV phát phiếu học tập nhóm cho HS. Yêu cầu
các em tìm từ láy có tiếng gốc sau: Vui,nhanh,
tròn, xa , trắng.
Nhận xét và tuyên dương nhóm giỏi nhất.
Nhận xét và dặn dò cho tiết ôn tập sau: xem
Lọ 2: Láy vần : lon ton, lao
xao, linh tinh, lộn xộn.
Lọ 3: Láy âm và vần: cuồn
cuộn, trăng trắng, im ỉm, tim
tím
Lọ 4: Láy tiếng: xanh xanh,
cào cào, chuồn chuồn, vui
vui.
- HS nêu.
- HS tìm thêm các ví dụ về
từ láy 3, 4 tiếng có cấu
tạo như GV vừa nêu.
HS làm bài cá nhân.
HS tham gia trò chơi:
Vui vui, vui vẻ vui vầy.
Nhanh nhanh, nhanh nhẹn,
nhanh nhảu.
Xa xa, xa xăm , xa xôi.
trắng trẻo, trăng trắng,
7
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
lại kiến thức về từ ghép. Tròn trịa, tròn trĩnh, tròn tròn.
3/ Thiết kế tiết dạy củng cố kiến thức về từ ghép.
I/ Mục tiêu:
* Giúp học sinh ôn lại kiến thức đã học về từ ghép .
* Nhận dạng được từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại.
* Tìm được từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại có cùng một tiếng gốc
cho trước.
* Biết sử dụng từ ghép để viết đoạn văn có nội dung cho trước.
II/ Chuẩn bị:
• Bảng phụ ghi đoạn văn, bảng phụ ghi kết quả bài làm.
III/ Các hoạt động dạy học:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
A/ Giới thiệu : GV nêu mục đích yêu cầu tiết
học.
B/ Bài mới:
Hoạt động 1: Nhận diện từ ghép.
GV treo bảng phụ ghi sẵn nội dung sau:
Xếp những từ được in đậm trong đoạn văn
sau đây vào 2 nhóm: từ láy và từ ghép:
Núi đồi , làng bản chìm trong biển mây mù.
Trước bản, rặng đào đã trút hết lá. Trên những
cành khẳng khiu đã lấm tấm những lộc non
và lơ thơ những cánh hoa đỏ thắm. Lá thông
vi vu một điệu đàn bất tuyệt. Xen lẫn vào
giưã những đám lá tai mèo, những nương đỗ,
nương mạch xanh um, trông như những ô bàn
cờ. Chốc chốc, một điệu hát Hmông lại vút
lên trong trẻo.
GV yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi
trong thời gian 2 phút.
HS nghe
HS thảo luận nhóm đôi để thực
hiện.
Từ ghép Từ láy
Làng bản Khẳng khiu
Núi đồi Lấm tấm
Đỏ thắm Vi vu
Tai mèo Trong trẻo
Xanh um
8
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
- Yêu cầu HS trình bày kết quả thảo luận
thông qua trò chơi: Tiếp sức
- GV treo 2 bảng phụ kẻ sẵn 2 nhóm từ . HS
nối tiếp nhau ghi từ vào các cột cho đúng. Đội
nào nhanh hơn và đúng sẽ là đội thắng cuộc.
GV nhận xét, chấm chữa và công bố đội
thắng.
GV chốt ý: Từ láy là những từ có bộ phận
của tiếng được láy lại giống nhau. Từ ghép
là từ có nhiều tiếng được ghép lại với nhau
để tạo nên nghĩa chung. Trong từ ghép lại
có 2 kiểu : Từ ghép có nghiã tổng hợp và từ
ghép phân loại.
Hoạt động 2: Phân biệt từ ghép tổng hợp và
từ ghép phân loại:
GV yêu cầu học sinh tìm từ ghép phân loại và
từ ghép tổng hợp trong các từ ghép vừa tìm
được ở bài tập 1.
Cho HS trình bày.
GV cho HS thảo luận nhóm đôi, trả lời câu
hỏi sau: Tìm những tiếng có nghĩa rõ ràng
trong các từ ghép.
Cho HS trình bày.
GV hỏi: Dựa vào số lượng tiếng có nghĩa rõ
ràng cuả mỗi từ , em hãy nêu sự khác nhau
của từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại ?
Cho HS trình bày.
GV chốt: Các từ ghép tổng hợp thường có 2
tiếng đều có nghiã rõ ràng, từ ghép phân loại
thường chỉ có 1 tiếng có nghiã rõ ràng, một
tiếng mờ nghĩa ( không rõ nghĩa), hoặc cả 2
Điệu hát
HS nghe
HS tìm từ ghép TH và PL
Từ ghép PL Từ ghép TH
Xanh um Làng bản
Đỏ thắm Núi đồi
Tai mèo
Điệu hát
HS gạch chân từ có tiếng có
nghĩa rõ ràng trong từ ghép
Từ ghép PL Từ ghép TH
Xanh um Làng bản
Đỏ thắm Núi đồi
Tai mèo
Điệu hát
HS nghe.
9
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
tiếng đều có nghĩa nhưng tiếng thứ 2 lệ thuộc
vào tiếng thứ nhất và giúp cho từ đó có nghĩa
phân biệt. Ví dụ:
Xanh um, đỏ thắm, vàng hoe: Um , hoe ,
thắm là những tiếng nghĩa không rõ ràng.
Nhà sàn, đường phèn, hạt tiêu, tai mèo, điệu
hát: Sàn, phèn, tiêu, mèo, hát là những tiếng
giúp phân biệt nghĩa với các từ khác như :nhà
lầu, đường cát, hạt mưa, tai tượng, điệu múa
GV treo bảng phụ ghi sẵn các từ:
Vui tính, cao cờ, đau lòng.
Mây mưa, sướng vui, cao thấp .
Yêu cầu HS xác định từ loại của mỗi tiếng
trong từ và chỉ ra sự khác biệt giữa từ ghép
phân loại và từ ghép tổng hợp.
Cho HS trình bày.
GV chốt:
Từ ghép tổng hợp : Thường có 2 tiếng cùng
từ loại và có thể đổi vị trí cho nhau mà
nghĩa của từ không thay đổi : bản làng, làng
bản, núiđồi, đồi núi. sướng vui, vui sướng, cao
thấp, thấp cao. Hai tiếng trong từ ghép tổng
hợp thường là hai từ cùng nghĩa (gần nghiã)
như : vui sướng, đau khổ, xe cộ, xinh đẹp
hoặc trái nghiã nhau như : xa gần, cao thấp,
lớn bé, trẻ già.
Từ ghép phân loại : Thường có 2 tiếng khác từ
loại.( Trừ trường hợp từ ghép phân loại là
danh từ như: nhà sàn, nhà ngói, đất cát, đất
đỏ, đất phèn )
Hoạt động 3: Chơi trò chơi : Khám phá
Vui tính : động + danh
cao cờ : Tính + danh
đau lòng: động + danh
Mây mưa: Danh + Danh
Sướng vui: Động + động
Cao thấp: Tính + tính
HS làm bài
Tiếng Từ ghép Từ ghép
10
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
vốn từ Tiếng Việt:
GV phát phiếu học tập nhóm ghi sẵn bài tập
sau:
Điền từ vào ô còn thiếu:
Tiếng gốc Từ ghép TH Từ ghép PL
Nhanh
Buồn
Cao
Nhà
Xe
HS trình bày và GV chốt ý:
* Có thể dựa vào cấu tạo của từ để phân biệt
từ ghép tổng hợp và phân loại.
Hoạt động 4: Viết đoạn văn:
GV yêu cầu học sinh viết 1 đoạn văn có sử
dụng từ ghép phân loại và từ ghép tổng hợp ,
gạch chân dưới các từ ghép đã dùng.
GV gọi 1 số em đọc bài làm của mình và tổ
chức nhận xét chấm chữa.
C/ Củng cố:
Hỏi: Có mấy cách giúp ta phân biệt từ ghép
phân loại và từ ghép tổng hợp?
Nhận xét tiết học và dặn dò chuẩn bị bài sau.
gốc TH PL
Nhanh Nhanh
chậm
Nhanh
trí
Buồn Buồn vui Buồn
lòng
Cao Cao thấp Cao số
Nhà Nhà cưả Nhà sàn
Xe Xe cộ Xe tải
HS làm bài cá nhân
HS trả lời :
Có hai cách giúp phân biệt
nhanh từ ghép tổng hợp và từ
ghép phân loại là:
1/Dưạ vào nghĩa.
2/ Dựa vào cấu tạo cuả từ.
4/ Thiết kế tiết dạy giúp học sinh phân biệt từ láy và từ ghép
I/ Mục tiêu:
* Giúp học sinh ôn lại kiến thức đã học về từ ghép và từ láy .
* Nhận dạng được từ láy, từ ghép trong trường hợp từ ghép có tiếng có bộ
phận giống nhau.
* Tìm được từ láy, từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại có cùng một tiếng
gốc cho trước.
* Biết sử dụng từ phức để viết đoạn văn có nội dung cho trước.
11
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
II/ Chuẩn bị:
- Bảng dạ cài các thẻ từ ghi sẵn từ ghép và từ láy.
- Bảng phụ.
- Băng giấy chuẩn bị cho trò chơi tìm từ ở giữa.
III/ Các hoạt động dạy học:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
A/ Giới thiệu: GV nêu mục đích yêu cầu
tiết học.
B/ Bài mới:
Hoạt động 1: Trò chơi Tìm từ cho đúng:
GV treo bảng dạ cài sẵn những từ ngữ sau
và tổ chức cho HS tìm và phân ra thành 2
nhóm từ láy và từ ghép:
Mêng mông, bờ cõi, đi chơi, mong muốn,
đất nước, mệt mỏi, dập dờn, âm ỉ, công
kênh, lao xao, chăn chiếu, về nhà.
GV cho HS tham gia trò chơi.
Tổ chức chấm chữa, nhận xét
Hỏi : Vì sao Về nhà và đi chơi không được
chọn ?
Vì sao mong muốn, mệt mỏi có bộ phận âm
giống nhau mà không là từ láy?
Vì sao âm ỉ, công kênh không có bộ phận
nào giống nhau mà lại là từ láy?
GV chốt :
* Khi 2 tiếng trong từ đều có nghiã thì dù
có bộ phận của tiếng giống nhau cũng là
từ ghép.
* Trong tiếng Việt có từ láy đặc biệt
khuyết phụ âm đầu như : ầm ĩ, ồn ào và
âm c, k, q là các hình thức viết khác nhau
HS nghe
HS tham gia trò chơi
Từ láy từ ghép
Mênh mông bờ cõi
dập dờn Mong muốn
Lao xao đất nước
Âm ỉ mệt mỏi
Công kênh Chăn chiếu
HS trả lời:
Về nhà, đi chơi là cụm từ gồm 2
từ đơn.
Monh muốn , mệt mỏi là từ ghép
vì cả 2 tiếng trong từ đều có
nghiã.
Âm ỉ là từ láy đặc biệt.
Công kênh là từ láy vì âm c có 3
hình thức viết : c, k, q.
HS làm bài
12
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
của âm c nên công kênh, cồng kềnh là từ
láy.
Hoạt động 2: Tìm từ láy và ghép điền vào
ô trống cho đúng:
GV cho HS hoàn thành bài tập sau:
Tìm từ và điền vào ô cho đúng:
Tiếng Từ láy TGTH TGPL
Nhà
Rộng
rãi
chật hẹp
Vui tính
Chậm
GV cho học sinh trình bày bài làm.
GV chấm chữa và chốt ý.
Hoạt động 3 : Trò chơi Tìm từ ở giữa:
GV lần lượt đưa ra những băng giấy, cho HS
phát hiện từ ở giữa thích hợp, sao cho tạo
được thành 2 từ đúng.
1/ Nhân chúng
2/ Khỏe bạo
3/ Học hạ
4/ Chăm ý
5/ Đấu giành.
GV cho HS trình bày và chốt ý đúng.
Hoạt động 4: Cho HS viết đoạn văn
khoảng 4,5 câu có dùng từ láy và từ ghép
để tả cảnh giờ chơi.
GV cho HS làm bài cá nhân .
Tổ chức cho HS đọc bài làm trước lớp và
nhận xét, sửa chữa.
Tiếng Từ
láy
TGTH TGPL
Nhà Nhà
nhà
Nhà
cưả
Nhà
rông
Rộng Rộng
rãi
Rộng
hẹp
Rộng
lòng
Chật Chật
chội
chật
hẹp
Chật
ních
Vui Vui
vẻ
Vui
buồn
Vui
tính
Chậm Chậm
chạp
Nhanh
Chậm
Nhanh
Trí
HS tham gia trò chơi:
1/ Nhân dân, dân chúng
2/ Khỏe mạnh, mạnh bạo
3/ Học hành, hành hạ
4/ Chăm chú, chú ý
5/ Đấu tranh , tranh giành.
HS làm bài cá nhân.
13
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
C/ Củng cố:
GV nhắc nhở các kiến thức trọng tâm cuả
phần loại từ.
Nhận xét tiết học.
5/ Một số bài tập vận dụng kiến thức về từ láy và từ ghép
• Tìm từ ghép và từ láy có trong đoạn văn sau:
Ánh nắng lên tới bờ cát, lướt qua những thân tre nghiêng nghiêng,
vàng óng. Nắng đã chiếu sáng lòa cửa biển. Xóm lưới cũng ngập trong
nắng đó. Sứ nhìn những làn khói bay lên từ các mái nhà chen chúc của bà
con làng biển. Sứ còn thấy rõ những vạt lưới đan bằng sợi ni lông óng
vàng, phất phơ bên cạnh những vạt lưới đen ngăm, trùi trũi.
( Hòn Đất –Anh Đức)
Từ láy Từ ghép
Nghiêng nghiêng, chen chúc, phất phơ
Trùi trũi.
Ánh nắng, bờ cát, sáng loà, cửa biển,
Xóm lưới, làn khói, mái nhà, bà con,
vạt lưới, ni lông, đen ngăm.
* Xếp thành 2 nhóm : từ láy và từ ghép:
Cao cả, tươi tốt, đau đớn, chanh chua, êm ả, cuống quýt, cầu cống, vui
vẻ, vẫy vùng, xanh xao, che chắn, thúng mủng, mệt mỏi, buồn bã, buồn
bực.
Từ láy Từ ghép
Đau đớn, chanh chua, êm ả,
cuống quýt, vui vẻ, vẫy vùng,
xanh xao , buồn bã
Cao cả, tươi tốt, cầu cống,
che chắn, thúng mủng,
buồn bực, mệt mỏi
• Tìm thêm tiếng để tạo thành từ láy và từ ghép có tiếng cho trước:
Tiếng Từ láy từ ghép
Xinh Xinh xinh, xinh x ắn xinh đẹp, xinh tươi
Trong Trong trẻo Trong ngần, trong vắt
Chậm Chậm chạp ,chầm chậm Nhanh chậm, nhanh trí
14
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Đen đen đủi, đen đen đen trắng , đen xì
Trắng trắng trẻo, trăng trắng trắng đen,
*Tìm thêm tiếng để tạo thành từ láy, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân
loại
Tiếng gốc từ láy từ ghép phân loại từ ghép tổng hợp
Vui
buồn
nhanh
đen
cao
*Dựa vào từ đã có , hãy tìm từ còn thiếu:
Từ đơn Từ láy Từ ghép phân loại Từ ghép tổng hợp
đau đớn
Đẹp
trắng tay
nhanh chậm
* Xếp các từ in đậm trong đoạn văn sau đây thành 2 nhóm từ láy và từ
ghép
Biển luôn thay đổi theo màu sắc của mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng
thẳm xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời âm u , mây mưa, biển xám xịt,
nặng nề. Trời ầm ầm giông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một con người
biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt
gỏng.
* Điền các từ : loắt choắt, thoăn thoắt, nghênh nghênh, xinh xinh vào
những chỗ trống trong đoạn thơ sau đây sao cho hợp nghĩa:
Chú bé
Cái xắc
Cái chân
Cái đầu
15
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
• Trong các dòng sau đây từ nào dùng chưa đúng , hãy sửa lại cho
đúng:
a/ Dáng người cậu bé Chôm nhỏ nhen , thật đáng yêu.
b/ Trên cành cây cao thăm thẳm, mấy quả chín đỏ lủng lẳng trông ngon
lành quá.
c/ Cô giáo em có mái tóc dài ngoằn ngoeò.
d/ Tiếng hót của chim vàng anh mới óng ả làm sao.
( Các từ dùng sai là :
câu a/ nhỏ nhen ( vì nhỏ nhen là từ chỉ tính cách, sửa lại : nhỏ nhắn )
câu b/ Thăm thẳm ( vì thăm thẳm là từ gợi tả độ sâu , sửa lại chót vót)
Câu c/ Ngoằn ngoeò ( vì ngoằn ngoeò là từ chỉ con đường, sửa thướt tha,
mượt mà)
câu d/ Óng ả ( vì óng ả là từ gợi tả hình ảnh , sửa : thánh thót, trong trẻo )
• Tìm tiếng còn thiếu ở giữa để tạo thành 2 từ có nghĩa:
Mong trông. ( ngóng )
Buồn tức. ( bực )
Trông chờ. ( đợi )
Suy toán ( tính )
Xa gấc. ( xôi )
• Tìm từ láy có 3 tiếng có tiếng gốc là:
a/ Chút ( chút chùn chun)
b/ Tí ( tí tì ti )
c/ Khoẻ ( khoẻ khoè khoe )
d/ Xốp ( xốp xồm xộp )
* Tìm từ láy có 4 tiếng có dạng : A B’A B và A A B B
Dạng 1: A B’ A B: lủng cà lủng củng, lon ta lon ton, lí la lí lắc
Dạng 2: A A B B : cười cười nói nói, xa xa gần gần, buồn buồn vui vui
6/ Kết qủa đạt được
16
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Muốn cho học sinh nắm được kiến thức chuẩn cần đạt khi học tập phân
môn luyện từ và câu, đặt được câu hay, viết được đoạn văn mạch lạc, đòi hỏi
người thầy phải đầu tư suy nghĩ để tìm ra nhiều biện pháp thích hợp , phù hợp
đối tượng học sinh. Để rèn cho học sinh các kĩ năng cơ bản nghe , đọc , nói , viết
giáo viên phải dạy tốt mọi phân môn, bởi vì các phân môn trong Tiếng Việt có
quan hệ móc xích với nhau. Mỗi phân môn cùng phối hợp và bổ sung cho phân
môn khác để cung thực hiện mục tiêu của cả cấp học.Vì thế, giáo viên phải đi từ
việc dạy tốt phần loại từ, từ loại, câu rồi nắm bắt cấu trúc của câu để đặt câu,
viết đoạn. Đó là một quá trình giảng dạy dài, cần đầu tư công phu và kĩ lưỡng.
Trong nhiều năm giảng dạy chương trình cũ và sau một học kì thực hiện chương
trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4, chúng tôi đã đạt được những kết quả sau
đây:
TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SAU KHI ÁP DỤNG
*Chất lượng học tập môn luyện từ và
câu đạt được:
GIỎI : 15%
KHÁ : 30%
T.BÌNH : 40%
YẾU : 15%
* Học sinh còn lẫn lộn giữa từ láy với
từ ghép.
* Học sinh còn lẫn lộn giữa từ ghép
tổng hợp và ghép phân loại.
* Học sinh còn lẫn lộn giữa cụm từ với
từ phức.
* Khả năng vận dụng từ để viết văn
còn rất hạn chế.
* Tiết dạy tăng cường thường nặng nề,
không gây được hứng thú mà chưa
*Chất lượng học tập môn luyện từ và
câu đạt được:
GIỎI : 35 %
KHÁ : 50 %
T.BÌNH : 15 %
YẾU : 0 %
* Học sinh phân biệt nhanh từ láy và từ
ghép.
* Học sinh xác địng đúng từ ghép tổng
hợp và ghép phân loại
* Không còn trường hợp lẫn lộn giữa
từ phức với cụm từ gồm 2 từ đơn.
* Nhờ có bài tập sử dụng từ để viết
đoạn văn nên khả năng vận dụng từ
được rèn luyện nhiều nên học sinh viết
đoạn văn đạt chất lượng cao hơn.
* Nhờ kết hợp các phương pháp dạy
học 1 cách sáng tạo , tổ chức cho học
17
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
củng cố và mở rộng kiến thức vững
chắc cho học sinh.
sinh học mà chơi, chơi mà học nên tiết
học vui vẻ, hiệu quả và sinh động hơn
trước. Kiến thức nhờ đó được củng cố
và mở rộng.
* Nhờ được luyện tập thường xuyên
nên học sinh nhớ bài lâu, nắm vững
kiến thức và các kĩ năng nghe, đọc, nói
viết được nâng cao.
7/ Bài học kinh nghiệm :
Sau quá trình áp dụng việc dạy củng cố kiến thức về loại từ trong các tiết
tăng cường, tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây:
• Cần có thiết kế bài học thật khoa học và hợp lí để dạy các tiết tăng
cường, không dạy tuỳ hứng hoặc xem nhẹ các tiết học tăng cường.
• Phải chú ý dạy cho học sinh nắm vững đặc điểm của loại từ Tiếng Việt
để từ đó học sinh biết vận dụng tốt vốn từ Tiếng Việt vào nói và viết.
• Cần thống nhất trong tổ chuyên môn, đặc biệt là thống nhất giữa các
GV cùng dạy ngày 2 buổi trong tổ để cùng đầu tư suy nghĩ và chọn lọc
kiến thức quan trọng, cần thiết cũng như phương pháp dạy học hợp lí
nhất để cùng soạn và dạy các tiết học tăng cường.
• Cần biết giờ học tăng cường thành giờ chơi sáng tạo để gây hứng thú
cho học sinh , bớt đi sức ép nặng nề của cả một ngày học tập.
• Học sinh chỉ có thể nhớ lâu kiến thức khi được ôn tập và củng cố
thường xuyên nên thỉnh thoảng GV phải tổ chức cho học sinh ôn bài
hợp lí.
• Luôn luôn tạo điều kiện cho học sinh luyện viết đoạn văn bằng cách
vận dụng vốn từ ngữ được học để nâng cao chất lượng viết văn cho các
em.
18
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
• Học sinh nắm được loại từ thì mới xác định đúng từ, ngữ và các bộ
phận chính và phụ của câu một cách chính xác. Vì thế không nên xem
nhẹ phần kiến thức về loại từ.
• Tuyệt đối không lẫn lộn giữa từ loại và loại từ, cần cho học sinh ghi
nhớ 2 đơn vị kiến thức này bằng cách đơn giản như sau:
Loại từ : từ đơn , từ láy, từ ghép .( đều có từ từ đứng trước)
Từ loại: danh từ, động từ , tính từ , đại từ , quan hệ từ (đều có từ từ đứng
sau)
III/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Để dạy tốt môn Tiếng Việt ở tiểu học , đòi hỏi người giáo viên phải tìm
tòi học hỏi, nghiên cứu cải tiến phương pháp giảng dạy ở từng phân môn cụ thể
như tập đọc , chính tả , luyện từ và câu, tập làm văn nhằm rèn luyện 4 kĩ năng
nghe, đọc , nói , viết cho học sinh. Bậc tiểu học là bậc học nền tảng nên học sinh
tiểu học học càng giỏi, càng nắm chắc kiến thức , có các phương pháp học tập
tốt, chắc chắn sẽ học tập giỏi hơn ở các cấp sau này.Với phân môn luyện từ và
câu, tập làm văn,nếu các em có kiến thức vững chắc về từ, từ loại , có kĩ năng
đặt câu,viết đoạn tốt thì việc học các dạng bài, kiểu bài tập làm văn như kể
chuyện, miêu tả,viết thư hay phát biểu cảm nghĩ, phân tích tác phẩm, giải thích,
chứng minh ở cấp trung học sẽ đạt chất lượng cao.
Việc tạo tiền đề để học sinh học sinh học tốt ở cấp sau và trở thành người
học sinh phát triển toàn diện có đạo đức, phẩm chất tốt đẹp trong sáng, có trí
tuệ , có bản lĩnh,chính là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục mà Đảng và nhà nước
đã giao trọng trách cho những người giáo viên như chúng ta.
Trong đề tài sáng kiến cải tiến này, nội dung có thể chưa thật đầy đủ , lời
lẽ bố cục có thể chưa thật rõ ràng cụ thể , tuy nhiên , nội dung được trình bày là
cả một quá trình giảng dạy dài lâu mà chúng tôi mới đúc kết được. Đó cũng là
tấm lòng , là tâm huyết của mỗi giáo viên chúng ta giành cho thế hệ trẻ .Chắc
19
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
chắn trong quá trình thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa, chúng ta
còn sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm mới, bổ ích hơn nữa để giúp thực hiện thành
công việc giảng dạy sách giáo khoa mới.
Mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, của đồng nghiệp để chúng ta
có thể có thêm nhiều bài học quí báu về kinh nghiệm dạy học Tiếng Việt.
1/ Các kiến nghị, đề xuất:
Với trường:
• Triển khai các thiết kế bài học này cho các lớp 5 trong trường cùng
dạy.
• Tổ chức cho học sinh các lớp được tham gia các trò chơi vui học được
tổ chức trong trường để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
Với phòng, sở:
• Phổ biến rộng rãi các kinh nghiệm dạy học của đội ngũ giáo viên trong
quận, trong thành phố để chúng tôi có cơ hội học tập.
• Sử dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng và nhân rộng các thiết kế
có chất lượng cao để chúng tôi học tập và áp dụng vào giảng dạy.
2/ Tài liệu tham khảo:
• Dạy học ngữ pháp Tiếng Việt của Lê Phương Nga.
• Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt của Trần Mạnh Hưởng.
• Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4,5
20
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Đề tài :
MỘT VÀI BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÚP GIÁO VIÊN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIẢNG DẠY
PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN Ở CẤP TIỂU HỌC
Chương I - Phần mở đầu
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
. Cơ sở lí luận
1.2.Cơ sở thực tiễn.
Chương II
Thực trạng dạy và học kiểu bài kể chuyện trong phân môn tập làm văn lớp
3,4,5 ở trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc
2.1 Thực trạng việc dạy kiểu bài kể chuyện của giáo viên
2.2 Thực trạng việc học kiểu bài kể chuyện của học sinh.
2.3 Đánh giá thực trạng việc dạy và học phân môn kể chuyện
2.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Chương III
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn
kể chuyện ở cấp tiểu học.
3.1 Biện pháp 1 : Dựa vào các bài thơ mang tính chất tự sự tập diễn xuôi để
luyện tập thực hành kể chuyện
3.2 Biện pháp 2 : Dựa vào các trích đọan kịch để phát triển thành chuyện kể.
3.3 Biện pháp 3 : Dựa vào các cột chuyện cho sẵn để xây dựng thành câu
chuyện.
3.4 Biện pháp 4: Dựa vào các nhân vật cho sẵn để xây dựng thành câu chuyện.
3.5 Biện pháp 5 : Dựa vào các đọan văn kể chưa hòan chỉnh hoặc còn bỏ lững
để phát huy óc tưởng tượng kể thành câu chuyện.
Chương IV
Bài học kinh nghiệm và kết quả đạt được.
4.1 Bài học kinh nghiệm
4.2 Kết quả đạt được
Chương V Kết luận
21
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
1. Kết luận.
2. Kiến nghị
3. Danh sách các tài liệu tham khảo
4. Phụ lục
22
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Đề tài : MỘT VÀI BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÚP GIÁO VIÊN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN Ở CẤP TIỂU HỌC
Chương I - Phần mở đầu
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lí luận
Trong chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học, phân môn tập làm văn
là một
Trong bốn kĩ năng “ Nghe , đọc , nói , viết ’’môn học Tiếng Việt phải rèn
cho học sinh tiểu học thì hai kĩ năng nói và viết l…
. Cơ sở thực tiễn.
Chương II
Thực trạng dạy và học kiểu bài kể chuyện trong phân môn tập làm văn lớp
3,4,5 ở trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc
2.1 Thực trạng việc dạy kiểu bài kể chuyện của giáo viên
2.2 Thực trạng việc học kiểu bài kể chuyện của học sinh.
2.3 Đánh giá thực trạng việc dạy và học phân môn kể chuyện
2.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Chương III
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn
kể chuyện ở cấp tiểu học.
3.1 Biện pháp 1 : Dựa vào các bài thơ mang tính chất tự sự tập diễn xuôi
để luyện tập thực hành kể chuyện
Qua Thậm Thình
Đi qua xóm núi Thậm Thình
Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm
Vua Hùng một sang đi săn.
Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp bánh dày mấy đôi
Đẹp lòng vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ định nơi xây nhà
23
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày ba thậm thình….
Tự xa xưa thưở nào
Trong rừng xanh sâu thẳm
Đôi bạn sống bên nhau
Bê Vàng Và Dê Trắng
Một năm trời hạn hán
Suối cạn cỏ héo khô
Lấy gì nuôi đôi bạn
Chờ mưa đến bao giờ
Bê Vàng đi tìm cỏ
Lang thang quên đường về
Dê Trắng thương bạn quá
Chạy khắp nẻo tìm Bê
Đến bây giờ Dê Trắng
Vẫn kêu hoài : Bê! Bê!
3.2 Biện pháp 2 : Dựa vào các trích đọan kịch để phát triển thành chuyện kể.
3.3 Biện pháp 3 : Dựa vào các cột chuyện cho sẵn để xây dựng thành câu
chuyện.
3.4 Biện pháp 4: Dựa vào các nhân vật cho sẵn để xây dựng thành câu chuyện.
3.5 Biện pháp 5 : Dựa vào các đọan văn kể chưa hòan chỉnh hoặc còn bỏ lững
để phát huy óc tưởng tượng kể thành câu chuyện.
Chương IV
Bài học kinh nghiệm và kết quả đạt được.
4.3 Bài học kinh nghiệm
4.4 Kết quả đạt được
Chương V Kết luận
2. Kết luận.
3. Kiến nghị
24
Trần Thị Tuyết – Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc – Đà Nẵng
4. Danh sách các tài liệu tham khảo
5. Phụ lục
25