Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đề án thực trạng về văn hóa trong kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.21 KB, 38 trang )

Phần I: Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nớc Đảng ta luôn luôn coi trọng
yếu tố văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá trị tốt
đẹp nhất trong quan hệ giữa ngời với ngời, với xã hội và với thiên nhiên. Văn
hoá vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và là mục tiêu của
chúng ta. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trờng có sự định hớng của nhà nớc. Văn hoá ngày càng đóng góp
vai trò điều tiết tinh thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác những nhân tố
tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong xã
hội, văn hoá giữ vai trò góp phần hình thành một con đờng phát triển phù hợp
với đặc điểm của dân tộc và xu hớng phát triển của thế giới. Gần đây các học
giả quốc tế nói nhiều, nghiên cứu nhiều về các yếu tố thành công của các nớc
có nền công nghiệp mới (Wics) trong phát triển trong khu vực Đông á - Đông
Nam á (là những con rồng con hổ trong phát triển kinh tế). Sự thành công
và năng động đó đợc xác nhận là sự bắt nguồn từ các yếu tố văn hoá truyền
thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan
hệ kinh doanh: sự ham học hỏi, sáng tạo, tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong
công việc đã đợc nhấn mạnh và đợc coi là những nhân tố thúc đẩy quá trình
tăng kinh tế bền vững, cân đối của các nớc này. Và đặc biệt trong nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan
xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh
các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức phi văn hoá, chayjt heo lợi nhuận ảnh
hởng đến văn hoá kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của nền
kinh tế thị trờng làm cho các giá trị đó bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho
hoạt động kinh tế, chính vì tính cấp thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó.
Ngoài mục đích đa ra những nhận thức chung về văn hoá kinh doanh. Còn lý
do thứ hai là em muốn nhấn mạnh hơn xây dựng văn hoá kinh doanh trong
nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam đó là lý do vì sao em lựa chọn đề tài:
Tuy nhiên, văn hoá kinh doanh là những phạm trù rộng lớn có nhiều mối
quan hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải đợc tiếp tục
đi sâu nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề án có thể có nhiều


hạn chế nhất định. Em mong nhận đợc những ý kiến đóng góp xây dựng quý
báu của các bạn, cùng các thầy cô có quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Nguyễn Văn Diễn
Phần II: Nội dung của đề tài
Chơng I: Cơ sở lý luận của văn hoá trong kinh doanh
I. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh
Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh, làm thế nào để sử dụng mối
quan hệ đó, đa văn hoá vào kinh doanh, sử dụng những đặc trng của nền văn
hoá vào kinh doanh để đạt tốc độ tăng trởng cao và hiệu quả là những vấn đề
đang đặt ra nóng hổi. Những vấn đề đó đã thoát ra khỏi lĩnh vực xã hội đơn
thuần mà còn trở thành mối quan tâm của chính khách, các nhà quản lý và các
nhà kinh doanh.
1. Khái niệm văn hoá.
Cho tới nay, đã có khoảng 400 500 định nghĩa về văn hoá. Một con số
rất lớn và không xác định nh vậy nói lên sự phong phú của khái niệm văn hoá.
Từ thế kỷ XIX (năm 1871) Edward Burrwett Tylor đã đa ra một định
nghĩa cổ điển, theo đó văn hoá bao gồm mọi năng lực và thói quen, tập quán
của con ngời với t cách là thành viên của xã hội. Với định nghĩa đó, văn hoá
bao gồm ngôn ngữ, t tởng, tín ngỡng, phong tục, tập quán, nghi thức, qui tắc,
thể chế, chuẩn mực, công cụ, kỹ thuật, công trình nghệ thuật (hội hoạ, điêu
khắc, kiến trúc) và những yếu tố khác có liên quan đến con ngời.
Theo triết học Mác Lênin: văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất
và tinh thần cũng nh các phơng thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị
đó vì sự tiến bộ của loài ngời và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát
triển văn hoá là lao động của con ngời, phơng thức hiện lao động và kết quả
của lao động và kết quả lao động.
Còn theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá: là một thiết chế xã
hội cơ bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trng diện mạo về tinh thần, vật

chất, tri thức, tình cảm khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm
làng, vùng miền quốc gia, xã hội văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình.
Nh vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét
chung là con ngời đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
văn hoá với con ngời. Văn hoá và con ngời là hai khái niệm không tách rời
nhau. Con ngời là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành
và phát triển của mình, con ngời luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá trị
văn hoá. Một trong số những giá trị văn hoá đợc con ngời sáng tạo ra ấy chính
là bản thân con ngời con ngời có văn hoá. Con ngời sáng tạo ra văn hoá,
đồng thời chính con ngời cũng là sản phẩm của văn hoá.
Trong sơ đồ 1 chỉ rõ: văn hoá là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con
ngời sáng tạo ra trong lịch sử để vơn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý
và sự phát triển bền vững an toàn cho cộng đồng, xã hội và nhân loại.
Văn hoá (cộng đồng, gia
đình, xóm, làng, vùng,
miền, quốc gia, nhân loại
Văn hoá hữu thể
(vật chất)
Văn hoá vô
hình(tinh thần)
Di
tích
lịch
sử
Các
công
trình
kiến
trúc
Hệ

thống
giao
thông
Hệ
thống
công
sở
Hệ
thống
trang
thiết
bị
cho
sản
xuất
Đạo
đức
Lối
sống
Lối
sống
Tôn giáo
tín ng'
ỡng
Giáo
dục

Sự phát triển bền vững, an
toàn.
+ Cái đúng + cái đẹp

+ Cái tốt + cái hợp lý
Sơ đồ 1: Cấu trúc văn hoá
- Văn hoá vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con ngời đợc thể
hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra kể từ các t liệu sản xuất cho
đến các t liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn khác nhau của xã hội
thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai đoạn phát
triển khác nhau của văn hoá.
- Văn hoá tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao
gồm khoa học ở mức độ áp dụng của thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh
hoạt, trình độ học vấn, tình trạng, giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo
đức trong hành vi của các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu
con ngời văn hoá còn bao gồm những phong tục tập quán, những phơng thức
giao tiếp ngôn ngữ.
Ranh giới giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có tính chất tơng
đối.
- Văn hoá mang tính giai cấp, nó phục vụ cho giai cấp nhất định. Tính
giai cấp đó biểu hiện ở chỗ văn hoá do ai sáng tạo ra, phản ánh và phục vụ cho
lợi ích của giai cấp nào, những cơ sở vật chất của văn hoá (các phơng tiện
thông tin, tuyên truyền, các rạp hat ) do ai làm chủ. Tính giai cấp của văn
hoá còn thể hiện ở chức năng của văn hoá.
Nó giáo dục, xây dựng con ngời theo một lý tởng chính trị xã hội,
đạo đức, thẩm mỹ của một giai cấp nhất định.
- Văn hoá mang tính dân tộc, mang tính cộng đồng, tổ chức và đợc kế
thừa qua nhiều thế hệ. Mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có điều kiện tự
nhiên, các sinh hoạt riêng, có phong tục tập quán, những thói quen tâm lý
riêng. Điều đó qui định đặc điểm riêng của văn hoá dân tộc.
2. Khái niệm kinh doanh.
Giải thích nghĩa của từ kinh doanh trong một số từ điểm do các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam biên soạn cơ chế là giống nhau.
Theo đại từ điển Tiếng Việt, thì kinh doanh có nghĩa là tổ chức buôn

bán để thu lỗ lãi.
Có từ điển từ và ngữ Việt Nam thì kinh doanh là tổ chức hoạt động về
mặt kinh tế để sinh lời.
Lãi hay lỗ ở đây đợc hiểu là: khi ngời ta bỏ vốn để buôn bán hoạt động
kinh tế thì giá trị thu về phải cao hơn số vốn ban đầu cùng với việc bảo đảm
thực hiện các trách nhiệm khác theo pháp luật.
Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của
xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh
nh thế nào, nó đem lại lợi ích và giá trị cho ai? đó chính là vấn đề của văn hoá
trong kinh doanh.
Nh vậy, kinh doanh có thể hiểu nh luật doanh nghiệp, xem đó là việc
thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh
lời.
3. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh.
Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hoá kinh
doanh là gì?
Văn hoá trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt
động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và
đặc thù của họ.
Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lạij
cho kinh doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh
phát triển con ngời, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi ngời, sự phồn vinh
và vững mạnh của đất nớc, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức đợc sứ mệnh ấy
con ngời sẽ hay say lao động, không ngại khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh
cả lợi ích riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do đó, văn hoá
trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc, phản ánh
trình độ của con ngời trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn hoá trong
kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt, cái đẹp. Cái

lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngợc lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là
cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh doanh cuả các nhà
kinh doanh, của doanh nghiệp đợc nhận biết qua hai phơng diện chính.
Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) đợc vận
dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu
kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân
tộc.
Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá nh hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng,
nghệ thuật kinhdoanh mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt
động và làm nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dơng đối với
kiểu kinh doanh có văn hoá mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có văn
hoá của các chủ thể kinh doanh.
Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, nhằm thoả mãn có chất lợng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội, mỗi
xã hội cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong nền
văn hoá chung của dân tộc.
II. Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế.
Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực có tác động qua lại với nhau. Không
thể có văn hoá suy đồi mà kinh tế phát triển. Văn hoá bao giờ cũng là động
lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh
đất thuận lợi cho sự phát triển văn hoá của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng
nh nớc Việt Nam đã chứng minh nguyên lý đó. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra,
trong quá trình phát triển của nhân loại, một số nớc lãnh thổ đã từng có nền
văn hoá cao, đợc xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại, thì ngày nay các
nớc đó không phải là những nớc có nền kinh tế phát triển, thậm chí chỉ là
những nớc đang phát triển. Ví dụ, thời thợng cổ, lu vực sông Vệ và sông
Hoàng Hà của Trung Quốc đã hình thành đời sống đô thị khoảng 3000 năm tr-
ớc công nguyên, khu vực Lỡng Hà có một nền văn hoá liên tục hơn 3000 năm
trớc công nguyên, lu vực sông Nil, với đất đai phì nhiêu, là nơi định c của ngời

Ai Cập là 3000 năm trớc công nguyên khi hạ Ai Cập thống nhất với thợng Ai
Cập, thuộc triều đại các vua Pharaon với việc xây dựng các Kim Tự Tháp.
Nh vậy, từ việc khu xét sự phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia khu vực Châu á - Thái Bình Dơng, ngời ta tìm thấy những dấu ấn và
đặc trng văn hoá của các quốc gia đó trong phát triển kinh tế. Thực tế đó đã
bắt buộc ngời ta không chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu tố văn hoá vào
quá trình phát triển triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hoá
cũng nh tầm quan trọng của việc đa các yếu tố văn hoá vào hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế có thể hiểu.
- Văn hoá và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế
phải đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con ngời, sau đó mới đảm bảo
điều kiện cho văn hoá phát triển kinh tế không thể phát triển nếu không có
một nền tảng văn hoá, đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà còn
là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng
nào quốc gia đó đạt đợc sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá.
- Văn hoá mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực đợc coi là
những di sản quý báu bán tích lũy đợc qua nhiều thế hệ, mang đậm bản sắc
dân tộc. Nhng đồng thời, với quá trình phát triển, kế thừa và giữa gìn bản sắc
riêng, nó còn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của quốc gia, dân tộc khác, làm
cho văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tính hiện đại phù hợp với sự phát
triển kinh tế trong điều kiện cách khoa học kỹ thuật, làm cho vai trò của
văn hoá trong hoạt động kinh tế càng đợc nâng cao và thiết thực khơi dậy mọi
tiềm năng sáng tạo của con ngời, đem lại sự phát triển cao với tốc độ cao và
hài hoà trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
III. Vai trò của văn hoá trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Theo luật doanh nghiệp, Hiến pháp nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công

đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trờng nhàm mục đích sinh lợi (Điều 3, Chơng I, Luật doanh
nghiệp).
Văn hoá, với t cách là những giá trị vật chất và tinh thần do con ngời
sáng tạo ra, đơng nhiên nó trở thành di sản, thành tiền đề cho bất kỳ quá trình
phát triển và tiếp theo. Những giá trị vật chất đã sáng tạo ra đơng nhiên là cơ
sở không thể thiếu đợc của sự phát triển ở các giai đoạn kế tiếp. Những giá trị
văn hoá tinh thần phục vụ cho một nhu cầu không thể thiếu của con ngời, nó
đảm bảo chất lợng của yếu tố con ngời yếu tố cơ bản trong hoạt động sản
xuất kinh doanh từ đó nâng cao năng suất, chất lợng và hiệu quả của con ngời
trong sản xuất kinh doanh.
1. Văn hoá với t cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển.
Sản xuất kinh doanh chính là quá trình con ngời sử dụng các tri thức,
kiến thức tích luỹ đợc để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri thức này có thể
biểu hiện dới hình thái ý thức, gắn liền với t liệu sản xuất và ngời lao động.
Khối lợng các tri thức, kiến thức đó bản thân nó đã là các giá trị văn hoá, đồng
thời nó cũng đợc huy động và sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong môi
trờng văn hoá. Nếu không có môi trờng văn hoá trong sản xuất kinh doanh
thì không thể sử dụng đợc các tri thức, kiến thức đó, và đơng nhiên không thể
tạo ra hiệu quả sản xuất, không thể phát triển sản xuất kinh doanh.
Với quan hệ giữa tri thức và kinh doanh nh vậy, bắt buộc các giá trị văn
hoá dới dạng tri thức, kiến thức phải đợc đảm bảo vào sản xuất kinh doanh thì
mới đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đợc phát triển.
2. Các yếu tố văn hoá với t cách là những biểu hiện của trình độ cao
trong sinh hoạt xã hội.
Sản xuất kinh doanh không chỉ là quá trình con ngời sử dụng các t liệu
sản xuất và chiếm hữu vật chất mà con là các mối quan hệ giữa con ngời với
con ngời. Sản xuất kinh doanh là sự hiệp tác và phân công lao động, đây là
quan hệ cơ bản ở cả phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Giải quyết tốt mối quan hệ

đó là đảm bảo điều kiện thành công của quá trình sản xuất kinh doanh. Nhng
bản thân con ngời trogn các mối quan hệ đó có những đặc điểm tâm lý khác
nhau, nguyện vọng lợi ích khác nhau, khác nhau cả về tuổi tác, về những đặc
thù mang tính dân tộc, tôn giáo sự khác nhau đó dẫn đến sự khác nhau trong
sinh hoạt xã hội. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, những sự khác biệt về
sinh hoạt trong xã hội tuy không phải là yếu tố của quá trình đó, nhng luôn th-
ờng trực ở mỗi con ngời, mới chỉ lộ ra qua quá trình giao tiếp. Nếu quá trình
giao tiếp không nắm bắt đợc sự khác biệt đó sẽ dẫn đến những điều biểu hiện,
hoặc xung đột về suy nghĩ và hành động. Mỗi ngời trong quá trình sản xuất
kinh doanh, nếu có trình độ am hiểu sâu sắc về sinh hoạt xã hội sẽ tạo ra đợc
các ấn tợng, các mối quan hệ tốt đẹp với ngời khác, tạo đợc bầu không khí
thoả mái tin tởng lẫn nhau trong tập thể lao động, đảm bảo quan hệ kinh
doanh dễ dàng.
3. Các di sản văn hoá của một nền văn minh cổ xa có vai trò tạo ra
động lực tinh thần trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích so sánh các quá trình phát triển và tồn tại của một nền văn
minh giúp cho con ngời hiện đại nhìn lại từ quá khứ, biết đợc khả năng của
chính dân tộc mình, từ đó xem xét hiện tợng và hớng tới tơng lai.
4. Các yếu tố văn hoá trong kinh doanh tạo sự phát triển hài hoà,
lành mạnh của mỗi quốc gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ trên thị trờng, tạo ra sức mạnh cộng đồng cho phát triển, tạo điều
kiện cho tái sản xuất lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả kinh doanh
Mọi nền sản xuất, suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng cao các
lợi ích vật chất và tinh thần của con ngời. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động cơ
thúc đẩy hành động của con ngời. Nếu quá trình kinh doanh chỉ vì lợi nhuận
đơn thuần nh vậy thì về mặt kinh tế, quốc gia đó sẽ phát triển lệch lạch những
ngành và lĩnh vực ít lợi nhuận sẽ không phát triển đợc và do vậy không thể
đáp ứng đợc mọi nhu cầu của con ngời. Về mặt xã hội, con ngời sẽ mất nhân
cách đạo đức xã hội xuống cấp, tội ác gia tăng.

Nói đến kinh doanh, là nói đến việc sử dụng tri thức và kiến thức. Sử
dụng tri thức đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cá nhân, các cộng
đồng ngời để khai thác hết kho tàng tri thức đó phục vụ cho sản xuất kinh
doanh, trí tuệ của mỗi ngời sẽ bổ sung cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một
trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự kết hợp đó là nét đẹp văn hoá trong kinh
doanh và chính nó tạo ra sức mạnh của tập thể, của cộng đồng.
Phục vụ đáp ứng những nhu cầu cụ thể của con ngời về sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ. Những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đó ngoài yêu cầu về số
lợng và chất lợng nhất định còn đòi hỏi những yêu cầu về thẩm mỹ, tính tiện
lợi khi sử dụng. Có thể coi đó là những đòi hỏi của văn hoá tiêu dùng, các sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ nào đáp ứng đợc những đòi hỏi đó là đáp ứng văn
minh tiêu dùng và sẽ có sức sống trên thị trờng. Để đạt đợc điều đó, sản xuất
kinh doanh phải gắn liền với các yếu tố văn hoá, thông qua việc tiếp cận các
yếu tố văn hoá mà chọn lọc và vật chất hoá chúng trong sản phẩm của mình
cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoà là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống con
ngời, nh những nhu cầu vật chất khác. Trong quá trình hoạt động lao động, sự
căng thẳng về cơ bắp và thần kinh diễn ra thờng xuyên, gây ra mệt mỏi và
căng thẳng về tâm lý. Đa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh từ việc
thiết kế nơi làm việc, các thiết bị và dụng cụ làm việc sẽ giảm bớt đợc trầm uất
của những căng thẳng đó. Đặc biệt đa các hình thức hoạt động văn hoá vào tr-
ớc giờ làm việc có thể tạo ra hứng phấn lao động, vào thời gian nghỉ ngơi và
cuối giờ làm việc có thể nhanh chóng xoá đi sự căng thẳng và mệt mỏi về tâm
lý giúp con ngời nhanh chóng phục hồi sức lực hơn.
Chơng II: Tình hình và thực trạng về văn hoá
trong kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay
I. Văn hoá trong kinh doanh trong các doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
Kể từ khi ban hành Luật doanh nghiệp đầu năm 2000, khu vực kinh tế t

nhân phát triển mạnh với trên 100.000 doanh nghiệp, thu hút hơn 100.000 tỷ
đồng (tơng đơng với khoảng 6,7 tỷ USD) vốn đầu t, tạo ra hơn 1,3 triệu chỗ
việc làm, còn doanh nghiệp dãn doanh đóng góp đáng kể cho nền kinh tế năm
2000 có 14413 doanh nghiệp với đăng ký với số vốn 13700 tỷ đồng, năm 2001
ớc tính có trên 1800 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn khoảng 22.000 tỷ
đồng, cha kể vốn đăng ký bổ sung. Tổng cộng cả hai năm, có 32413 doanh
nghiệp mới đăng ký, gần bằng tổng số doanh nghiệp mới đăng ký trong chín
năm, từ 1991 đến 1999 (45005 doanh nghiệp). Theo báo nhân dân số ra ngày
25 11 2002 thì đến cuối năm 2002 ngoài khoảng 5.000 doanh nghiệp
Nhà nớc đã có gần 80.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp,
cùng hơn 2,1 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể trong toàn quốc. Các
doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn lao động tại
chỗ, đầu t vốn ít, thu hồi vốn nhanh, linh hoạt, nhanh nhậy, đổi mới công nghệ
dễ dàng chuyển đổi thích ứng với yên cầu của thị trờng.
Bên cạnh sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp trong nền kinh
tế, cùng sự đóng góp to lớn trong phát triển. Thì mặt trái của nó tác động nên
nền kinh tế là rất lớn. Mặt trái ở đây có thể hiểu là những tiêu cực hay cách
khác đó là những biểu hiện kém văn hoá trong kinh doanh.
Từ thực tế thấy rằng, các doanh nghiệp ở nớc ta vẫn cha chú ý tới sự cần
thiết tất yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực
kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận, hiện không làm cho các doanh
nghiệp chú ý tới vấn đề văn hoá kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
Nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác, hàng kém chất lợng, kém
phẩm chất, nấp bóng lợi dụng những nhãn hiệu có uy tín trên thị trờng và tìm
cách trà trộn với hàng thật, hàng có chất lợng tốt để tiêu thụ, lừa bịp ngời tiêu
dùng. Do kinh doanh quản lý kém, tổ chức sản phẩm không cạnh tranh đợc
trên thị trờng đa đến thua lỗ phá sản, nhập hàng lậu vào trong nớc để trốn
thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách nhà nớc.
Theo số liệu thống kê trong 4 năm (1999 2003) cả nớc xảy ra trên
1000 vụ ngộ độc thực phẩm với số ngời mắc lên hàng nghìn, trong đó có nhiều

ngời tử vong 1999 có 327 vụ, số ngời mắc là 7576 ngời, đến năm 2003 là 204
vụ với 5924 ngời mắc. Ngoài ra số vụ ngộ độc thực phẩm do ăn phải thực
phẩm ô nhiễm hoá chất độc hại có chiều hớng tăng lên: Năm 1999 là 11%,
năm 2000 là 17%, năm 2002 là 25,2%, năm 2003 là 23%, còn 3 tháng đầu
năm 2004 cục quản lý thị trờng (Bộ thơng mại) bắt và xử lý 1865 vụ hàng giả,
hàng kém chất lợng. Các mặt hàng chủ yếu làm giả là rơu, bia, nớc giải khát,
bánh kẹo. Những con số trên là những minh chứng cho sự làm ăn chộp giật,
lừa đảo vì theo đuổi lợi nhuận sản xuất ra các sản phẩm kém chất lợng làm
ảnh hởng tới sức khoẻ, cũng nh lợi ích của ngời tiêu dùng.
Sự kinh doanh không có văn hoá không chỉ xảy ra đối với các doanh
nghiệp t nhân, mà còn xảy ra ngay với các doanh nghiệp Nhà nớc. Còn nhiều
doanh nghiệp trốn lậu thuế, nợ đọng vốn, khai gian thu nhập để chiếm đoạt
thuế VAT. Thiếu quan tâm đến đời sống của công nhân viên nh nợ lơng,
không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vì lợi nhuận không chú ý tới tính
an toàn trong lao động, sức khoẻ của đời sống nhân dân lao động, để ngày
càng nhiều ngời mắc các căn bệnh độc hại.
Để thấy rõ sự tác động của những doanh nghiệp kinh doanh có văn hoá
đối với nền kinh tế. Những kết quả nghiên cứu thực tế ở nhiều nớc về doanh
nghiệp mới thành lập đã đi đến kết luận rằng doanh nghiệp càng trẻ càng dễ
thất bại, doanh nghiệp càng nhỏ càng dễ thất bại và 90% nguyên nhân thất bại
của các doanh nghiệp trẻ là do quản lý tồi.
Tuy nhiên, thực tế này không phải dễ dàng đợc các nhà quản lý doanh
nghiệp nhận ra hay chấp nhận. Những kết quả điều tra ở 570 doanh nghiệp
trình bày trong bảng sau là một minh chứng.
Theo chủ doanh nghiệp Theo chủ nợ
Suy thoái kinh tế 68 29
Ngời quản lý kém năng lực 28 59
Thiếu vốn 48 33
Nợ khó đòi 30 18
Cạnh tranh 40 9

Thiết bị lạc hậu 32 6
Địa điểm bất lợi 15 3
Lãi suất cao 11 2
Thay đổi bất thờng 11 2
Bảng 1: Nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp mới, theo đối tợng
quan sát.
Vậy quản lý tồi là nh thế nào? Đây là một phạm trù khá rộng đã đợc bàn
nhiều đến trong các nghiên cứu về quản trị kinh doanh. Cách tiếp cận mới
nhằm giúp những ngời quản lý hiểu thêm một khía cạnh còn cha đợc quan tâm
đúng mức của quản lý hiện đại, vấn đề hiện nay của các công ty thành đạt sử
dụng nh một vũ khí cạnh tranh có sức mạnh tuyệt đối. Đó là bản sắc hay
văn hoá doanh nghiệp.
Để đợc xã hội chấp nhận, doanh nghiệp cần chú trọng tới việc xây dựng
hình ảnh của mình thành những biểu tợng bằng chính những viên gạch đạo
đức trong kinh doanh chính vì tính quan trọng của văn hoá trong kinh doanh,
mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cha xây dựng đợc hình ảnh cho
mình, đổi lại tạo ra tác động xấu đối với nền kinh tế. Biểu hiện tác động xấu
này, làm cho nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay không đợc ngời tiêu
dùng thừa nhận. Tạo ra sự phát triển bấp bênh của nhiều doanh nghiệp. Cộng
hởng tới nền kinh tế, làm cho nền kinh tế ta bị ảnh hởng. Làm sự tác động ng-
ợc trở lại đối với các doanh nghiệp, kìm hãm sự phát triển của các doanh
nghiệp. Để phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần đi đúng với quy luật
của nền KTTT. Cần coi trọng đạo đức kinh doanh, biến nó là vũ khí cho sự
tồn tại cạnh tranh và phát triển.
II. Những kết quả đạt đợc trong việc đa văn hoá vào
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nớc ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã vơn
lên phát huy mạnh mẽ các tiềm lực của mình. Về mặt nông nghiệp, nớc ta đạt đ-
ợc nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trớc. Sản lợng lơng thực phát triển tốt

bảo đảm giữ vững an ninh lơng thực quốc gia, tạo nguồn xuất khẩu gạo lớn thứ
hai thế giới Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan trọng có tác động
đến các ngành kinh tế đều tăng khá nh điện, sắt thép, phân bón chất lợng sản
phẩm ngày càng cao, giành đợc sự tín nhiệm của ngời tiêu dùng, gần 100 mặt
hàng đợc bình chọn là hàng Việt Nam chất lợng cao, có chỗ đứng trên thị trờng.
Có thể nói hàng Việt Nam chất lợng cao đã đáp ứng đợc phần nào nhu cầu,
thịhiếu và sở thích của ngời tiêu dùng ở hai khía cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật
phẩm văn hoá. ở đây, các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã đa các nhân tố văn
hoá, bản sắc dân tộc vào hoạt động kinh doanh, họ đã biết gắn chặt chẽ và hài
hoà giữa cái lợi với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Đó chính là biểu hiện nền kinh
doanh có văn hoá và lối sống có văn hoá của các doanh nghiệp Việt Nam dần
dần đợc hình thành. Đó cũng chính là lợi thế cạnh tranh của giới doanh nhân
Việt Nam trên thơng trờng. Để thấy đợc số doanh nghiệp biết xây dựng cho mình
đạo đức kinh doanh thông qua hàng Việt Nam chất lợng cao, ta có thể quan sát
biểu đồ sau:
Số lợng doanh nghiệp đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lợng cao (phụ
trơng Sài Gòn tiếp thị, thời báo kinh tế Sài Gòn số 4, tháng 1- 2003).
Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thơng mại đã đạt có sự tăng trởng vợt bậc.
Xuất khẩu năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1990, tổng mức bán lẻ hàng
hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trờng trong nớc tăng 6 lần so với cùng kỳ
Qua đó, thấy đợc nét văn hoá trong kinh doanh đợc thể hiện rõ ở các
điểm: kinh doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá
trị) và giá trị thặng d cho xã hội, sản phẩm đạt chất lợng cao, đợc xã hội và ng-
ời tiêu dùng trong và ngoài nớc chấp nhận, hoạt động kinh doanh đảm bảo
chính sách, tuân thủ pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với nhà nớc (thuế) tạo ra
lòng tin (chữ tín) vững chắc, ổn định đối với khách hàng trong và ngoài nớc.
Các đơn vị nh nông trờng Sông Hậu ở Cần Thơ Công ty mía đờng Lam Sơn
(Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là những điển hình về văn hoá
kinh doanh.
120

187
270
360
372
422
447
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
III. Đa nhân tố văn hoá vào hoạt động sản xuất kinh doanh
trong giai đoạn hiện nay.
Xu thế tiến bộ của thế giới chỉ trở thành nguồn lực nội sinh khi nhận biết
và dám hành động theo quy luật phát triển. Chỉ dừng lại ở nhận thức t tởng
cũng chẳng có ích gì cho nhân dân, nếu không chuyển từ nhận thức sang hoạt
động tổ chức thực tiễn.
Các giải pháp dới đây thuộc lĩnh vực tổ chức thực tiễn.
1. Đa nhân tố văn hoá vào quá trình khôi phục và phát triển lực lợng
sản xuất xã hội.
Muốn đa nhân tố văn hoá vào bồi dỡng và khai thác các lực lợng sản xuất
của đất nớc cần có một số giải pháp thiết thực nh:
- Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nớc ta
chuẩn bị tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Đổi mới tổ chức phơng thức và phơng pháp, quản lý nhà nớc và quản lý
kinh doanh theo hớng vận dụng động lực kép bao gồm lợi ích kinh tế và lợi
ích văn hoá đối với ngời lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích kinh tế và lợi
ích văn hoá đối với ngời lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích cá nhân, lợi
ích bộ phận lợi ích quốc gia.
- Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo trên cơ sở mạnh dạn làm
thí điểm đổi mới đồng bộ về giáo trình, giáo viên và phơng thức đào tạo. Đồng
thời sớm khắc phục tình trạng thơng mại hoá lan tràn trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo.
- Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo, trớc hết đối với đội ngũ

giáo viên, đội ngũ quản lý, dần dần hình thành đội ngũ có trình độ cao với tấm
lòng vì dân, vì nớc.
2. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
biến đổi cơ cấu xã hội dân c .
Hiện nay nớc ta đang ở thời kỳ hình thành các quan hệ kinh tế mới và
quan hệ xã hội mới trong quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ sang kinh tế thị tr-
ờng. Các quan hệ mới đang hình thành phải đợc đặt trong xu thế kết hợp tăng
trởng kinh tế với văn hoá thì nớc ta mới có thể đi đến mục tiêu dân giàu nớc
mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Muốn vậy, trong các chiến lợc và chính sách cũng nh tổ chức thực hiện
phải phản ánh đợc yêu cầu của thang gíatrị mới.
Từ yêu cầu này, cần đổi mới quan điểm và phơng pháp đánh giá, các tiêu
chuẩn đánh giá về hiệu quả của hoạt động kinh tế, về con ngời lao động, ngời
lãnh đạo, quản lý kinh tế xã hội. Muốn xây dựng quan điểm, phơng pháp
và tiêu chuẩn đánh giá theo thang giá trị mới, cần phải xuất phát từ việc phân
tích thực tiễn nớc ta và thế giới.
Sự áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá này trớc hết phải bắt đầu từ trên
xuống bắt đầu từ cấp trởng trong các đơn vị, có nh vậy mới tránh khỏi đợc tình
trạng biến các t tởng tốt đẹp thành khẩu hiệu hô hào suông.
3. Từng bớc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị,
nâng cao tầm vóc và hiệu quả của nó.
Đối với mỗi nớc, hệ thống chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực
tiếp sự phát triển của đất nớc. Ngày nay vấn đề văn hoá với chính trị trở
thành vấn đề cốt lõi trong xu thế vận động kết hợp tăng trởng kinh tế với văn
hoá.
4. áp dụng hệ thống ISO trong sản xuất kinh doanh ở tất cả các
doanh nghiệp.
Việc áp dụng này, tạo ra sự kiểm tra các giai đoạn sản xuất, từ đó tạo ra
sản phẩm đầu ra chất lợng tốt, tạo ra sự quan tâm tới ngời lao động trong
chính các giai đoạn sản xuất đó. Sản phẩm sản xuất ra có chất lợng cao, giá

thành hạ rễ đợc khách hàng chấp nhận hơn. Giúp cho sản phẩm có thể cạnh
tranh đợc với các sản phẩm khác trên thị trờng, tạo ra sự thuận lợi kinh doanh
cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp không phải chộp giật, tìm cách tồn tại mà
dành nhiều thời gian, chi phí đầu t cho công nghệ, cho phát triển. Tạo ra các
sản phẩm có chất lợng đảm bảo ở các giai đoạn sản xuất trong tơng lai.
Chơng III: Nguyên nhân, phơng hớng và một số giải
pháp chủ yếu để đa văn hoá vào trong hoạt động sản
xuất kinh doanh ở nớc ta hiện nay.
I. Nguyên nhân
1. Cha nhận thức đợc vai trò của văn hoá trong kinh doanh.
Do các doanh nghiệp cha nhận thức đợc mối quan hệ giữa văn hoá về
kinh doanh. Cho nên cha có cái nhìn đúng đắn về kinh doanh có đạo đức. Họ
chỉ nghĩ đơn thuần kinh doanh là vì lợi nhuận, theo đuổi lợi nhuận la cách
thức sống còn tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cha nhận thức đợc đầy
đủ vai trò của văn hoá đối với sản xuất kinh doanh. Vẫn mờng tợng văn hoá và
kinh doanh là hai phạm trù khác hẳn nhau. Cha thấy hết đợc kinh doanh có
văn hoá sẽ tạo ra sự phát triển ổn định và vững chắc cho doanh nghiệp. Giúp
doanh nghiệp sớm đi đầu trong lĩnh vực mới của thị trờng. Vẫn còn sự duy cố
hữu bảo thủ hay cha nhìn nhận hết đợc sức mạnh to lớn của văn hoá, không
chỉ đối với kinh doanh mà cả với các lĩnh vực khác.
2. D luận xã hội còn có quá nhiều áp lực về văn hoá và kinh doanh.
Từ khi bớc sang nền kinh tế thị trờng, nớc ta thoát khỏi nền kinh tế tập
trung bao cấp lạc hậu, tự túc tự cấp. Những nhà kinh doanh xuất thân từ nông
dân, ngời lính, ngời thợ. Chính vì vậy kiến thức kinh doanh trong họ cha có
nhiều lắm. Họ vào thơng trờng kinh doanh với sự mò mẫm, đợc chăng hay
chỗ. Có ngời thành công, có ngời thì thất bại. Cho nên mỗi ngời một vẻ, cha
tạo nên nét truyền thống trong kinh doanh. Việc kinh doanh mang nặng tính
kinh nghiệm, coi kinh doanh là phải có lãi theo đuổi lợi nhuận bằng bất cứ giá
nào. Xem thừa đạo đức kinh doanh, vì lợi nhuận họ tìm mọi cách kinh doanh
theo kiểu chộp giật, cơ hội miễn sao mình có lợi, không hề coi trọng nét đẹp

truyền thống kinh doanh có văn hoá, là gắn cái lợi với cái đẹp, cái hợp lý, cái
chân thiện mỹ. Vẫn còn coi trọng tính kinh tế cao hơn tính văn hoá, đạt đợc
kinh tế rồi thì kinh tế sẽ bù lấp văn hoá. ý nghĩ này không chỉ nằm ở đại đa số
những ngời kinh doanh mà còn tồn tại trong phần lớn tầng lớp của xã hội. Vẫn
cho nhân tố văn hoá là thứ yếu xếp sau kinh tế, việc đạt đợc kinh tế rồi mới
nghĩ đến văn hoá, thậm chí còn nghĩ rằng kinh doanh chi phối và bao trùm cả
văn hoá.
Chính vì sự coi nhẹ văn hoá, nghĩ rằng kinh doanh chi phối và bao trùm
cả văn hoá. Cho nên các doanh nhân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng,
vẫn cứ theo đuổi hành vi kinh doanh bất chấp đạo đức, bất chấp sự tồn tại đến
ngời tiêu dùng. Theo đuổi cái lợi vì lợi nhuận, quên đi công tác xây dựng cho
mình một hình ảnh, một bản sắc văn hoá doanh nghiệp. Mà tơng lai không xa
xu thế cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh là kinh doanh có văn hoá. Các
nhà nghiên cứu đã tổng kết rằng trong quá trình vận động và phát triển của
kinh tế thị trờng, phơng thức cạnh tranh là văn hoá kinh doanh, tức là sắc thái
kinh doanh đặc sắc dựa trên nền tảng phơng thức tác động tổng hợp với hành
vi ứng xử, tôi quyết định lựa chọn ngời tiêu dùng.
Mặt khác, do môi trờng kinh doanh có văn hoá còn khá mới mẻ trong
nhận thức. Kèm theo sự cha chú ý của nhà nớc cũng nh các cơ quan quản lý
tới vấn đề văn hoá trong kinh doanh nên cha có sự chỉ đạo kịp thời, cũng nh
điều chỉnh để tạo ra một môi trờng văn hoá kinh doanh thuận lợi. Biểu hiện ở
đây là nhà nớc và các cơ quan quản lý đề ra các chính sách và cơ chế quản lý
kinh doanh hiện hành cũng mới chỉ chú ý tới các khía cạnh kinh tế, xã hội và
môi trờng của kinh doanh. Sự thiếu vắng hoặc mờ nhạt của khía cạnh văn hoá
trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành có nguyên nhân
cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu hụt rõ ràng trong nhận thức của các nhà hoạch
định chính sách.
Còn thiếu định hớng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hoá kinh doanh, văn
hoá tiêu dùng, tạo nên bầu không khí và áp lực d luận xã hội về vấn đề này. Sự
chú ý của các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ ở nớc ta cho đến nay

hầu nh còn vắng trên lĩnh vực này.
Sự hạn chế trong việc tìm ra các số liệu hay tiêu chuẩn để xác định sự
ảnh hởng của văn hoá đến kinh doanh hay kết quả thu đợc từ sự áp dụng văn
hoá trong kinh doanh, không áp dụng văn hoá trong kinh doanh cụ thể ra sao?
Cho nên không có đủ các thông số để đánh giá sự trực tiếp hay gián tiếp đến
kết quả sản xuất kinh doanh. Chính sự mập mờ này càng làm cho doanh
nghiệp coi nhẹ, và cha đánh giá hết đợc mức độ ảnh hởng của nhân tố văn hoá
tới kinh doanh. Càng tạo ra tính thiếu áp dụng trong thực tiểu kinh doanh ở
các doanh nghiệp. Làm cho môi trờng kinh doanh ngày càng mất đi tính cân
bằng, ổn định cho sự phát triển.
II. Một số định hớng trong xây dựng văn hoá kinh doanh ở
các doanh nghiệp Việt Nam.
1. Xây dựng môi trờng kinh doanh thuận lợi.
Thực tế môi trờng kinh doanh của Việt Nam cha thuận lợi cho việc
xâydựng văn hoá kinh doanh. Bộ máy nhà nớc còn nhiều biểu hiện quan liêu,
giấy tờ, nhiều loại thuế cao và pháp luật không rõ ràng, cha có một sân chơi
bình đẳng cho các doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nớc th-
ờng đợc u đãi hơn về vốn, tín dụng, đất đai Hay nh Luật thuế giá trị gia tăng
sau khi đợc ban hành, có thêm 200 văn hoá dới luật để hớng dẫn, điều chỉnh.
Trong hệ thống luật và văn bản dới luật không ít các trờng hợp mâu thuẫn
nhau, gây khó khăn cho ngời thực hiện chức trách của mình và nhiều khi gây
thiệt hại cho ngời kinh doanh.
2. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp.

×