Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Điểm nhìn của Ngô Tất Tố trong tác phẩm “Tắt đèn”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.65 KB, 44 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điểm nhìn của Ngô Tất Tố trong tác phẩm “Tắt đèn”
LỜI NÓI ĐẦU
Hơn hai nghìn năm trước Trang Tử đã có một triết lí rất hay về biển cả:
“Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều ra đi từ đó,
nhưng nó không vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng
nó không đầy”. Văn học cũng như những nguồn nước đều đi ra từ biển cả cuộc
đời. Và hàng ngày, tiếng sóng thuỷ triều vẫn âm vang chuyên chở ấy có bao giờ
ngừng nghỉ, cũng như mảnh đất hiện thực có bao giờ vơi đi khi người nghệ sĩ
đến đó để chở nắng, chở gió cuộc đời và tưới mát muôn cây. Ngô Tất Tố cũng
như bao người nghệ sĩ khác, tâm hồn ông, nỗi đau, niềm vui sướng khổ của ông
luôn gắn chặt với mỗi cảnh đời, mỗi con người để từ đó kết tinh lại thành những
trang văn tài hoa, nhức nhối.
Người Nghệ sĩ nói chung và nhà văn nói riêng mỗi khi đặt bút để sáng tạo
những tác phẩm nghệ thuật đều hi vọng gửi gắm vào “đứa con tinh thần” của
mình những xúc cảm suy ngẫm về cuộc đời, về con người mỗi một điểm nhìn
của tác giả ở mỗi một phương diện khác nhau đều hướng tới cái đích chung đó.
Song không phải các tác phẩm được các tác giả sáng tác trong thời điểm giống
nhau đều có điểm nhìn như nhau. Điều đó đã làm nên phong cách riêng của mỗi
một nhà văn.
Với Ngô Tất Tố, hoàn cảnh xuất thân và điều kiện xã hội đã giúp ông tái
tạo lại bức tranh hiện thực của xã hội thực dân phong kiến một cách trung thực
nhất. Đọc “Tắt đèn” của ông, chúng ta như đau những nỗi đau của nhân vật.
Điều quan trọng hơn là trong điểm nhìn của Ngô Tất Tố độc giả đã thấy sức
sống của con người Việt Nam trong xã hội cũ, không chịu khuất phục trước thế
lực phong kiến tàn tạo. Với ý nghĩa đó chúng tôi xin chọn tác phẩm “Tắt đèn” để
khảo sát cho đề tài này với nội dung “Điểm nhìn của Ngô Tất Tố trong tác
phẩm “Tắt đèn””.
Bố cục bài viết gồm:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1: Điểm nhìn và ý nghĩa của nó ở phương diện lý thuyết.


Chương 2: Tác giả Ngô Tất Tố và tác phẩm “Tắt đèn”.
Chương 3: Điểm nhìn của Ngô Tất Tố trong tác phẩm “Tắt đèn”
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
ĐIỂM NHÌN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỀ PHƯƠNG DIỆN
LÝ THUYẾT
1. Tên gọi và quan niệm
Cụm từ “le point de vue” (Tiếng pháp) “the point of view”, “the out look”
(tiếng Anh) và “quan điểm” được dùng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực trong
cuộc sống, có nghĩa là điểm hay chỗ đứng để xem xét, bình giá một sự vật, một
sự kiện, một hiện tượng tự nhiên hay xã hội. Cũng có lúc được mở rộng tương
đương với “quan điểm” (quan điểm về thế giới, về nhân sinh v.v…) khá phổ
biến trong triết học, chính trị và nghệ thuật như là thuật ngữ khoa học.
Ở Âu Mĩ, theo K.Waless, trong nghiên cứu văn học và thi pháp học “điểm
nhìn” là một trong số những thuật ngữ được bàn cãi nhiều nhất trong thế kỷ XX
với nhiều cách hiểu khác nhau với những tên gọi khác nhau: “phối cảnh”
(perspective) hay “góc nhìn” (angle of vision) trong lí thuyết hội hoa, điện ảnh,
tương đương “aspect” (thể, diện) (T.Todorov (1988)), “tiêu điểm tự sự” (Brooks
& Warren (1993).
2. Điểm nhìn của lời trong giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện
2.1. Điểm nhìn của lời trong giao tiếp
Ngữ dụng học quan tâm đến hành động ngôn ngữ, miểu tả thao tác định vị
chủ thể giao tiếp, định vị không gian và định vị thời gian trong hành vi ngôn
ngữ, xác định toạ độ của chủ thể nói năng trong tình huống giao tiếp cụ thể
thông qua các hành vi ngôn ngữ đại từ và từ chỉ xuất (Đỗ Hữu Châu - 1993).
Theo sự khảo sát của chúng tôi, bất cứ một hành động nói năng nào trong
giao tiếp, đều thể hiện vị thế giáo tiếp trong một tình huống cụ thể (thời gian,
không gian), được phân biệt bằng thao tác suy ý về một hay một số quan hệ.
Chẳng hạn: lời chào hàng ngày;
- Chào Anh!

- Chào anh ạ!
- Em chào anh ạ!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(So với lời chào tiếng Anh, tiếng Pháp, định vị thời gian được nhấn mạnh
thể hiện điểm nhìn chia cắt thời gian khác người Việt).
Mỗi biểu đạt thể hiện một điểm nhìn: Vị thế được xá định với người nói,
thái độ của bản thân với người nghe v.v… Ngoài ra phải tính đến ngữ điệu, và
một số yếu tố phi ngôn ngữ đi kèm như ánh mắt, vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ v.v…
để suy ra thái độ chân thật hay giả dối, nghiêm túc hay giễu cợt v.v… Từ tiêu
điểm thông tin và tiêu điểm biểu cảm gắn với chủ thể giao tiếp, người nhận qua
thao tác suy ý, nhận ra điểm nhìn của lời nói cụ thể trong tình huống cụ thể.
Như vậy, điểm nhìn của lời nói giao tiếp là toạ độ của hai trục: lời nói
hiển nghô và hành vi giao tiếp và do thao tác suy ý người nhận có thể tiếp nhận
được.
Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp có gì khác với điểm nhìn trong một văn
bản tự sự (truyện ngắng, tiểu thuyết) v.v…
2.2. Điểm nhìn trong truyện
Điểm nhìn hay gọi đầy đủ hơn là “điểm nhìn nghệ thuật” trong truyện có
điểm giống với điểm nhìn trong lời nói giao tiếp. Bởi vì, bất cứ một hành động
ngôn ngữ nào, dù nói một câu hay viết hàng trăm nghìn cầu đều là những hành
động giao tiếp bằng ngôn ngữ và mỗi hành động giao tiếp đều chứa đựng một
hay một số điểm nhìn nhất định.
Những điểm khác nhau cơ bản giữa lời nói tự nhiên trong giao tiếp với lời
nói trong văn bản là chức năng và câu trúc của chúng.
Chức năng của lời nói giao tiếp là giao tiếp hội thoại, giao tiếp trực tiếp,
gắn với một tình huống hội thoại cụ thể với một đối tượng cụ thể. Vì vậy, nó
phải phục tùng các quy tắc, các phương châm hội thoai, trong khi lời nói trong
văn bản phải phục tùng các qui tắc cấu tạo văn bản, nó phải đặt trong tổ chức
văn bản bảo đảm tính mục đích, tính mạc lạc, tính hệ thống toàn vẹn của văn
bản. Do đó, mọi lời nói trong văn bản đều phải được cấu trúc lại, hệ thống hoá

theo một mục đích nhất định.
Đói với văn bản nghệ thuật (thơ, truyện, kĩ) thì một mặt, tổ chức văn bản
được sáng tạo tự do và sử dụng tự do những lời nói hồn nhiên nhưng mặt khác
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lại đòi hỏi rất cao về mặt nghệ thuật biểu đạt, nghệ thuật xử lí ngôn từ nhằm mục
đích thẩm mĩ. Vì vậy, điểm nhìn nghệ thuật tuy tiềm ẩn trong văn bản nhưng cần
phải chú ý phân tích và điều này không còn là mới đối với các nhà phê bình,
nghiên cứu văn học. Tuy vậy, các khái niệm “điểm nhìn nghệ thuật”, “quan điểm
phản ánh” v.v. chưa phải lúc nào cũng được phân biệt rõ ràng như viện sĩ
M.Khrapchenko đã thừa nhận.
Trong thi pháp học, những quan niệm về điểm nhìn khác nhau với những
tên gọi khác nhau là lẽ tất nhiên. Cho nên, cần làm rõ các khái niệm điểm nhìn
với “cái nhìn”, “góc nhìn” (nghệ thuật), “thể” (hay diện), (T.todorov), “tiêu
điểm” và “tiêu cự” (G.Genette) v.v.
3. Điểm nhìn của văn bản
Do chỉ có ý nghĩa trong trường hợp có phản đề, một thủ pháp kết cấu bất
kỳ sẽ thành thủ pháp phân bịêt nghĩa riêng nếu như nó được kết nối vào sự đối
lập với một hệ thống tươg phản. Ở nơi nào mà toàn bộ văn bản được hàm chứa
và chỉ trong một bình diện, thì cái gọi là bình diện nói chung không cảm thấy
được. Chẳng hạn không thấy được nó trong những trần thuật sử thi. “Những
bước chuyển mau lẹ” (Pushkin) của các truyện lãng mạn chủ nghĩa chỉ có nghĩa
khi phối hợp với các đoạn trần thuật chậm rãi. Cũng như vậy “cái nhìn” sẽ trở
thành yếu tố nhận thấy được của cấu trúc nghệ thuật khi xuất hiện khả năng thay
đổi của nó trong phạm vi sự trần thuật (hoặc chiếu một văn bản trên một văn bản
khác với cách nhìn khác.
Khái niệm “điểm nhìn” tương tự như khái niệm góc nhìn trog hội hoạ và
điện ảnh.
Khái niệm “điểm nhìn nghệ thuật” thể hiện ra với tư cách là quan hệ của
hệ thống đối với chủ thể của mình (“hệ thốg” trong văn cảnh này có thể là hệ
thốg ngôn ngữ, hoặc ở những cấp độ khác cao hơn). Bằng khái niệm “chủ thể

của hệ thống” (hệ thống tư tưởng, phong cách…), chúng tôi nhằm nói đến cái ý
thức vốn có khả năng sinh ra cấu trúc đồng dạng và do đó có thể cải tạo lại được
trong khi tiếp nhận văn bản.
Hệ thống nghệ thuật được tạo nên như là sự phân tầng của các quan hệ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chính khái niệm “có nghĩa” muốn nói đến sự tồn tại của một mối liên hệ tin tức,
tức là một sự kiện có tính khuynh hướng xác định. Do chỗ mô hình nghệ thuật
trong hình thức chung nhất của nó tái tạo hình ảnh thé giới theo một ý thức nhất
định, tức là mô hình hoá quan hệ của cá nhân và thế giới (trường hợp cá biệt -
quan hệ của cá nhân nhận thức và thế giới được nhận thức) cho nên sự định
hướng sẽ mang tính chất chủ thể - khách thể.
Một yếu tố cấu trúc nghệ thuật tồn tại như một khả năng trong cấu trúc
ngôn ngữ, và rộng hơn, trong ý thức cấu trúc con người. Do vậy có thể mô tả
lịch sử tiến triển nghệ thuật của nhân loại căn cứ theo một trong số những yếu tố
đó, chẳng hạn lịch sử ẩn dụ, lịch sử nhịp điuêụ hoặc lịch sử thể loại này hay
khác. Nếu chúng ta nắm được đầy đủ những mô tả kiểu như vậy thì khi quy
chung về các chùm quan hệ, chúng ta có thể có được bức tranh phát triển của
nghệ thuật. Thế nhưng hiếm có yếu tố nào lại liên quan trực tiếp đến việc xây
dựng bức tranh thế giới như “điểm nhìn nghệ thuật”. Nó liên quan trực tiếp đến
các vấn đề trong những hệ thốg mô hìh hoá thứ cấp như vị thế của người sáng
tạo văn bản, vấn đề tính chân thực, vấn đề cá tính.
“Điểm nhìn” cấp cho văn bản sự định hướng nhất định về chủ thể của nó
(điều này đặc biệt rõ ràng trong lời nói trực tiếp). Nhưng mỗi văn bản lại thuộc
về một cấu trúc ngoại văn bản mà cấp độ trừu tượng hoá cao nhất của nó có thể
xác định như “loại hình thế giới quan” “bức tranh thế giới” hoặc “mô hìh văn
hoá” (ranh giới rạch ròi giữa cái khái niệm đó trong trường hợp này không quan
trọng).
Nhưng ở mỗi một mô hình văn học lại có sự định hướng của nó biểu hiện
trong một thang bậc nhất định những giá trị: chân thực và giả tạo, cao quý và
thấp kém. Nếu hình dung “bức tranh thế giới” của một nền văn hoá cụ thể như là

một văn bản nhất định ở cấp độ trừu tượng, thì tính định hướng này ở trog điểm
nhìn của văn bản ấy. Vậy là xuất hiện vấn đề về các quan hệ khả thể của điểm
nhìn văn bản văn hoá và điểm nhìn của các văn bản cụ thể này hay khác (thuộc
cấp độ biểu hiện bằng ngôn ngữ hay những ký hiệu khác của cấp độ này, chẳng
hạn hình vẽ).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra, quan hệ “điểm nhìn - văn bản” luôn luôn là quan hệ “người sáng
tạo - sản phẩm sáng tạo”. Đối với văn bản văn học thì đây là vấn đề vị thế của
tác giả, của “nhân vật trữ tình”… Còn đối với mô hình văn hoá đây là hợp thể
của những vấn đề triết học tổng quát, liên quan đến sự ra đời của thế giới và tính
có ý thức của nó. Bởivì quan hệ giữa tính định hướng của văn bản văn hoá và
những điểm nhìn của các văn bản cụ thể ở trong nó được xem như quan hệ của
tính chân thực hay giả mạo, nên ngay lập tức hiện ra hai quan hệ có tính
khẳnông nghiệp: sự đồng nhất trọn vẹn và sự đối lập hoàn toàn.
Vấn đề cái nhìn đưa đến cho văn bản yêu tố năng động: mỗi cái nhìn
trong văn bản đều có đạt đến tính chân lý và mong muốn khẳng định mình trong
cuộc đấu tranh với những cái nhìn đối lập. Nhưng nếu đưa chiến thắng này đến
việc thủ tiêu hệ thống đối lập, thì nó cũng thủ tiêu luôn mình một cách nghệ
thuật. Với sự biến mất của chủ nghĩa lãng mạn thì sự luận chiến với nó cũng
chết về phương diện nghệ thuật. Do vậy khi đẩutanh với những hệ thống đối lập,
điểm nhìn không chỉ thủ tiêu mà còn phục hồi chúng, và nâng cao tính tích cực.
Vậy là cấu trúc “đa giọng điệu” phức tạp của những cái nhìn đã ra đời, làm cơ
sở cho nghệ thuật trần thuật hiện đại.
4. Người kể chuyện và các điểm nhìn
Mở đầu bài viết Tiểu thuyết như sự tìm tòi ra mắt lần đầu năm 1955, sau
được tập hợp trong Luận về tiểu thuyết (1964). Michel Butor đưa ra định nghĩa:
“Tiểu thuyết là một hình thức đặc biệt của trần thuật”.
Đến một tiểu luận khác, nhan đề Những tìm tòi về kỹ thuật tiểu thuyết
cũng in trong tập sách trên, ông dành hẳn một mục để xác định “Khái niệm trần
thuật và vai trò tiểu thuyết trong tư duy hiện đại”. Theo ông, “thế giới phần lớn

chỉ hiện ra với chúg ta qua sự trung gian của những điều người ta kể với ta về
nó: trò chuyện, bà học, sách báo v.v…”, đơn vị cơ bản của truyện kể ấy có thể
gọi là một “thông báo” hay một “tin tức”… Nhưng sự hiểu biết của chúng ta về
thế giới thườg sai lệch vì tin tức tam sao thất bản và đủ thứ nguyên nhân khác,
kể cả trí nhớ hạn hẹp của mỗi người, khiến nỗi “có biết bao nhiêu ảo ảnh giữa
chúng ta và thế giới, giữa chúng ta và những người khác, giữa chúng ta và bản
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thân chúng ta!”. Các ảo ảnh ấy chẳng bao giờ hết. Chẳng bao giờ có thể vạch ra
ranh giới dứt khoát giữa cái thực và cái tưởng tượng. Cách duy nhất để nói sự
thật, để đi tìm sự thật là “đối chiếu không mệt mỏi, một cách có phương pháp
những gì chúng ta thường kể với những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe, với
những thông tin chúng ta nhận được, nghĩa là làm việc trên truyện kể”, và “tiểu
thuyết là nơi tốt nhất cho một công việc như thế”.
Tiểu thuyết là một hình thức đặc biệt của truyện kể, điều đó cũng dễ thấy.
Trong tiểu thuyết có ai kể , kể về ai và kể cho ai, vì dù nói gì thì nói, con người
vẫn chiếm vị trí trung tâm của tiểu thuyết, và tiểu thuyết viết ra là để cho người
khác đọc; trên đai thế tạo thành cái thế tam giác; người kể chuyện - nhân vật -
độc giả. Nói đến người kể chuyện, là nói tới điểm nhìn được xác định trong hệ
đa phương, không gian, thời gian, tâm lý, tạo thành góc nhìn. Người kể chuyện
là ai, kể chuyện người khác hay kể chuyện chính bản thân mình, khoảng cách về
không gian từ nơi sự việc xảy ra đến chỗ đứng của người kể chuyện cũng như
độ lệch thời gian giữa lúc sự việc xảy ra và khi sự việc được kể lại vẫn thường
được các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu.
Một dạng phổ biến của tiểu thuyết truyền thống là người kể chuyện giấu
mặt (người trần thuật), coi như đứng ở một vị trí nào đấy trong không gian, thời
gian,bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra trọng vẹn và thuật lại
với chúng ta. Chuyện được kể ở ngôi thứ ba số ít. Dù nhân vật người kể chuyện
không xuất hiện, ta không biết tên tuổi, mặt mũi, tư cách ra sao, nhưng ngầm
hiểu trước sau vẫn một người ấy. Đó là loại tiểu thuyết một điểm nhìn.
Trong tiểu thuyết không thiếu gì những lúc các nhân vật đối thoại với

nhau, ngôn từ gián tiếp thay thế bằng ngôn từ trực tiếp, nhưng do cách viết sử
dụng đối thoại như “những lời trích dẫn” thông qua khâu chọn lựa của nhà văn,
nên các đối thoại ấy thường thiếu tư cách độc lập như ta đã có dịp nói đến, và
không thoát ra được vùng ảnh hưởng của điểm nhìn duy nhất.
Một dạng phổ biến khác của tiểu thuyết trước kia là lối kể chuyện ở ngôi
thứ nhất với người kể chuyện xưng “tôi”. Câu chuyện gây cảm giác đáng tin cậy
hơn, vì người kể không phải ai đó xa lạ, đứng ở tận đâu đâu, trên cao, ngoài xa
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phóng tầm con mắt quan sát mọi chuyện mà hoà mình trực tiếp tham gia vào các
biến cố, nhất là khi người kể chuyện đóng vai nhân vật chính. Tuy nhiên, dù
nhân vật xưng “tôi” kể chuyện người khác hay kể chuyện mình thì tình hình
cũng chẳng cải thiện được bao nhiêu vì vẫn là loại tiểu thuyết một điểm nhìn.
Với loại tiểu thuyết nhiều điểm nhìn. Câu chuyện sẽ hiện ra sinh động với
nhiều bình diện, từ nhiều góc nhìn của nhiều chủ thể kể chuyện khác nhau, tuy
có hơi khó theo dõi một chút đối với những ai quen đọc loại tiểu thuyết cũ. Song
nói như thế hoàn toàn không có nghĩa đem so sánh các tiểu thuyết ấy với hội hoạ
của trườg phái lập thể.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
TÁC GIẢ NGÔ TẤT TỐ VÀ TIỂU THUYẾT “TẮT ĐÈN”
1. Khái quát về tác giả
Mỗi nhà văn chúng ta đến với văn học, đến với cách mạng bằng một con
đường riêng. Ngô Tất Tố thuộc thế hệ những nhà nho cuối mùa như Nguyễn
Trọng Thuật, Mai Đăng Đệ, Phạm Quế Lâm, Nguyễn Khắc Hiếu … Những
người đã từng chứng kiến cảnh chợ chiều của các nhà nho cũng như cảnh tiều
tuỵ sa sút của một nền Hán học đã hơn nghìn năm rực rỡ. Thật là kì lạ khi ta
thấy từ điểm xuất phát đó, nhà nho nghèo yêu nước Ngô Tất Tố đã phấn đấu để
trở thành một nhà văn bạn đường của giai cấp công nhân trong thời kì Mặt trận
dân chủ và về sau một đảng viên cộng sản. Có thể nói trong quá trình “đổi mới
tư duy”, Ngô Tất Tố đã nêu một tấm gương sáng cho thế hệ của mình. Tất nhiên

quá trình diễn biến tư tưởng của Ngô Tất Tố có lúc đã in dấu vết của những tư
tưởng Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Hồ Thích, đã chịu ảnh hưởng của Lư
Thoa (Rou sseau), Mạnh - Đức - Tư - Cưu (Montes quieu) . Nhưng điều cần chú
ý là ông đã thẳng thắn chỉ trích phong trào “Âu hoá, vui vẻ trẻ trung cũng như
đã vạch mặt trái cái kiểu “đánh bại Tây” bịp bợm của Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh.
Trong không khí của thời kỳ mặt trận dân tộc, ông đã tìm đọc tác phẩm
của Lỗ Tấn, Qúch Mạt Nhược, Gorki và cuối cùng ông đã tìm đến những sách
báo của Đảng, của Chủ nghĩa Mác-Lênin - Trong những môn đệ của Khổng
Mạnh, nhiều người ngơ ngác tụt lại phía sau nhưng Ngô Tất Tố đã phấn đấu
vượt lên phía trước, đuổ kịp thế hệ trẻ và trở thành một trong những người tiến
bộ nhất của lớp nhà nho cuối mùa.
Ngô Tất Tố sinh 1893 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là huyện Đông Anh
ngoại thành Hà Nội. Ông mất ngày 20-04-1954 tại Yên Thế Bắc Giang chỉ ít
tuần lễ trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi. Sự nghiệp văn
học của Ngô Tất Tố khởi đầu bằng tác phẩm dịch Cẩm Hương Đình (1923) và
khép lại với vở chèo 10 cảnh Nữ chiến sĩ Bùi Thị Thác (1951). Ba mươi năm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cầm bút miệt mài, say mê bằng tài năng và tâm huyết trên nhiều tư cách: Nhà
tiểu thuyết, phóng sự, nhà báo, nhà khảo cứu, dịch thuật… Ngô Tất Tố đã kể lại
một sự nghiệp văn chương đồ sộ và đa dạng từ tiểu thuyết, phóng sự truyện ký
lịch sử đến khảo luận nghiên cứu, những công trình dịch thuật và hàng trăm bài
tiểu phẩm báo chí.
Điều đáng quý hơn là Ngô Tất Tố và sự nghiệp văn chương của ông vẫn
sống mãi “sống khoẻ mạnh và sắc sảo trong văn học ta”. Như sinh thời nhà văn
Nguyễn Tuân đánh giá về ông. Vượt lên sự phôi pha vốn như một quy luật sàng
lọc tự nhiên, sòng phẳng và nghiêm ngặt của thời gian. Khối trước tác khổng lồ,
đa dạng của Ngô Tất Tố càng ngày càng hiện hình lừng lững, càng lấp lánh vẻ
đẹp của một tài năng, một tấm lòng, một nhân cách lớn, và càng có giá trị tự
thân khẳng định vị trí đầy vinh dự của Ngô Tất Tố trong dòng văn học hiện thực

phê phán Việt Nam cũng như vị trí xứng đáng của ông trong nền văn học lịch sử
dân tộc.
Năm 1996 Ngô Tất Tố vinh dự được là một trong số ít các nhà văn được
nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Nhà xuất bản Văn học
cũng đã xuất bản toàn tập Ngô Tất Tố, 5 tập trên 4000 trang in. Khơi trong
nguồn mạch hiện thực của đời sống, gắn với quỹ đạo nghệ thuật vị nhân sinh,
khơi sâu vào những tầng vỉa giá trị nhân văn sâu xa với ý thức, tấm lòng và tâm
huyết của một người cầm bút yêu nước tiến bộ luôn tâm nguyện “phải hoạt
động, phải sông pha, phải lặn lội luôn luôn với dân chúng”. Chính nhờ vậy khối
chước tác của Ngô Tất Tố đã là khối tài sản vô giá khẳng định một cách thuyết
phục sức sống của một tài năng lớn, một sự nghiệp lớn của nhà văn - nhà văn
hoá Ngô Tất Tố.
Là một nhà Nho nghèo, Ngô Tất Tố đã từng phải chung chia cái nghèo,
cái đói của một gia đình triền miên phải lĩnh thêm ruộng làng để cày cấy và
thường xuyên phải oằn lưng chịu những gánh nợ lãi. Cái nghèo, cái đói đã ăn
vào, lặn vào thành máu, thành thịt của nhà văn. Lại cũng sinh ra và lớn lên ở
một vùng quê nghèo giữa những cuộc đời khốn khổ luôn bị cột chặt trong vòng
vây của đói khát, tù tùng, bóc lột, chà đạp, của những hủ tục quái dị, nặng nề…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
suốt cuộc đời kể cả khi phải cách xa làng quê, lặn lội viết báo, viết văn kiếm
sống, Ngô Tất Tố vẫn thiết tha gắn bó trái tim mình với những con người nghèo
khổ cần cù nhân ái vẫn rất gần gũi với cuộc sốg của ông. Hoàn cảnh đó, sợi dây
tình cảm đó khiến Ngô Tất Tố dễ dàng cảm thông sâu sắc và luôn tìm mọi cách
sẻ chia, bênh vực đến cùng những con người “nhỏ bé”, “mờ xám” đang quằn
quại trong khổ đau, bất hạnh đồng thời cũng khiến ông căm ghét và tố cáo đến
cùng bọn quan lại thống trị “một phần nguyên nhân trong cảnh thống khổ của
dân chúng”. Cảm thông, yêu tương và căm ghét, tố cáo - đó chính là tố chất cơ
bản, là linh hồn, là máu thịt của từng trang văn tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc
và giá trị nhân văn sâu xa trong văn nghiệp của Ngô Tất Tố. Cũng chính điều đó
lý giải vì sao Vũ Trọng Phụng đã đánh giá rất cao Ngô Tất Tố. Theo Vũ Trọng

Phụng, Ngô Tất Tố hơn bất cứ nhà văn nào cùng thời, là người có “đủ tư cách”,
“đủ thẩm quyền” để viết và đã là người viết ra thật cảm động những trang sách
“đáng khóc, đáng cười” về cảnh sống cơ cực ở thôn quê và của người dân quê
thời thực dân phong kiến.
Thôn quê Việt Nam dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố không như bọn thực
dân bưng bít và một lũ nhà văn tư sản tô điểm. Trong những luỹ tre xanh gầy và
gai góc kia, chiều chiều khói thổi cơm nhoi lên những mái tranh xám, tản ra
những cánh động lặng lẽ, không phải là những cảnh thơ mộng mà sự thật là
những người mẹ gần chết đói, con thơ nằm bên vẫn còn kéo dài vú ra nhay, là
những người cha ốm nhìn hấp hối trong những bếp đầu rau chỉ còn trolạnh và
những mảnh nồi vỡ, bao nhiêu áo cơm và hơi sức của bao nhiều người làm ăn
lấm lưỡi đều bị sưu cao thuế nặng lột hết, lột hết.
Và những nóc đình mái cong, ngói rêu có những cây gạo mọc vút lên hoa
đỏ rực trời, không phải chỉ có văng vẳng tiếng trống chèo và dập dìu bài Lưu
thuỷ về giêng, hai, ba, đình đám! Ở đây cả một bọn quan lại và cường hào cạnh
tranh nhau, tranh từng miếng phao câu, từng ngón tay xôi, cờ bạc, rượu chè, cô
đầu, chia nhau chấm nút cấu xé ruộng đất và sưu thuế, cưỡi trên những sống
lưng gần ngã gục của nông dân nô dịch…
Ngòi bút rắn chắc của Ngô Tất Tố đã không e dè đưa lên những sự thật
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ấy. Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa ánh lên
sức đấu tranh, những sự thống khổ của họ đem phơi ra đã được một phần nào
thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo và ruỗng nát lúc bấy giờ. Bên cạnh
đó, những sự đè nén, lừa bịp và ăn gian nói dối của bọn thực dân và lũ bồi bút
của chúng ngày càng tàn tệ, trâng tráo. Cuộc chiến tranh thứ 2 vừa nổ, Pháp ở
Đông Dương liền quy ngay gối, mở cửa cho quan phiệt Nhật vào. Hai tầng áp
bức bóc lột và khủng bố lấy dân chúng. Văn hoá trong tay hai bọn ăn cướp nọ
càng khốc hại. Chúng nó cố kéo con người trở lại với tất cả những gì là thoái bộ,
dìm cho con người cắm đầu mê muội không thể nào cất nhìn lên, trông về tương
lai. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố là ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thật, căm

giận, chửi rủa và phá bỏ, Cái mạnh, ái sắc của Ngô Tất Tố còn ở những chố đi
sâu vào những khía cạnh đen tối, sai trái của kẻ thù. Nhưng quằn quại gần hết
một đời người trong những thiếu thốn ê hề, tàn nhẫn của sự sống và không sớm
được trau dồi ý thức đấu tranh sáng suốt, tươi tắn, quyết liệt và đúng mực, sắt
đá, rộng rĩ, cái ý thức cách mạng và khoa học của công nhân nên trong một số
sáng tác ngắn và sơ thảo trong kháng chiến của Ngô Tất Tố, nhân vật và sự sống
chưa được diễn tả đúng thực và còn nhiều chỗ lệch lạc, không toát lên được cái
hướng đi lên của xã hội.
Tóm lại, “ở con người Ngô Tất Tố là sự quy tụ, hoà hợp của nhiều con
người trong một con người: Nhà nho Ngô Tất Tố với vốn kiến thức học vấn
uyên thâm về cổ học, nhà trí thức với khuynh hướng xã hội tiến bộ, nhà văn hiện
thực am hiểu và bênh vực quyền lợi người nông dân, nhà báo năng động với
ngòi bút và giàu tính chiến đấu”. Nếu tách riêng trên mỗi lĩnh vực “Ngô Tất Tố
là người viết sâu sắc và bộc lộ hết mình”, ông “luôn luôn làm ta kinh ngạc vì
cách đặt vấn đề xã hội từ các tầng tiềm ẩn sâu xa của sự sống và của cả nền văn
hoá và vì sự nhạy cảm, thức thời, cập hật của thời sự của hiện tại. Nhưng “tổng
hợp lại ông càng lớn trong những tầng hiểu sâu xa về cuộc sống và con người,
về xã hội và thời cuộc, về tri thức và văn hoá, về văn chươg và học thuật”.
Ba mươi tuổi Ngô Tất Tố bước vào làng văn, làng báo và suốt 30 năm còn
lại của cuộc đời, ông chân thành, miệt mài đem ngòi bút cống hiến cho sự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp cách mạng, cho nền văn hoá dân tộc. Con đường ông đi là con đường
thẳng từ khởi điểm nhà nho nghèo yêu nước, thường dân để đến với cách mạng,
đến với Đảng và trở thành nhà văn cách mạng. Ba mươi năm Ngô Tất Tố hoạt
động văn học cũng là 30 năm của những biến động thăng trầm dữ dội trong đời
sống chính trị, xã hội và văn hoá dân tộc. Nhưng Ngô Tất Tố không hề chao đảo
nghiêng ngả. Ông tự tin và quả quyết sống hết mình, viết hết mình trong nỗ lực
và mong mỏi: ngòi bút mình hữu ích cho xã hội, cho con người. Thức thời
nhưng không xu thời. Nghèo nhưng không hèn. Vượt trên mọi hư danh, cám dỗ.
Ngô Tất Tố “đã biết đánh đổi cơm áo để lấy cái quyền viết theo chỉ thị của trái

tim mình”, trái tim chỉ thuộc về đất nước mà ông hết lòng yêu thương, chỉ thuộc
về nhân dân mà ông thiết tha gắn bó. Chính đó là cái lõi để tạo nên tài năng lớn,
đa dạng nơi ông trong nhiều tư cách: Một cây bút tiểu thuyết, phóng sự xuất sắc,
một nhà báo “cự phách”, “có biệt tài”, một nhà khảo cứu, dịch thuật giàu tâm
huyết và bao trùm là tư cách một nhà văn hoál ớn. Chính đó cũg là cái lõi tạo
nên giá trị đặc sắc riêng trong di sản văn hoá đồ sộ của Ngô Tất Tố, là cơ sở
chắc chắn để khẳng định vị tri vững vàng của ông trong nền văn học dân tộc.
2. Tiểu thuyết “Tắt đèn”
Ngô Tất Tố là một nhà văn có nhiều thuận lợi để viết về nông thôn, một
cái vốn Nho học vững chắc và một sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông
dân Việt Nam. “Tắt đèn” ngay từ lúc mới ra đời đã được dư luận hoan nghênh
nhiệt liệt. Vũ Trọng Phụng một nhà tiểu thuyết có tên tuổi lúc bấy giờ đã ca
ngợi: ““Tắt đèn” một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn phụng sự dân
quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy mà lại của một tác
giả đã được cái may hơn nhiều nhà văn khác là đã được sống nhiều ở nơi thôn
quê (…) đọc quyển “Tắt đèn” này, những độc giả khó tính cũng sẽ phải chịu
rằng óc quan sát của Ngô Tất Tố về những cảnh làm ruộng, thu thuế, chè chén,
xôi thịt, ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân quê quả là một thứ óc quan sát rất
tinh tường, rất chu đáo”. Các báo chí cách mạng ở Sài Gòn cũng cho rằng viết
về cuộc đời của nông dân sau lũy tre xanh thì “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố “đã
thành công một cách vẻ vang hết sức”. Nhà văn đã mang đến một cách nhìn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mới, có màu sắc “duy vật biện chứng”, một cách miêu tả và biểu hiện mới trong
nghệ thuật so với những tác phẩm đã viết về nông thôn đương thời.
Tác phẩm xuất sắc nhất của Ngô Tất Tố và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất
về nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, không thể không đề cập
đến Tắt đèn: “Một cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội… hoàn toàn phụng sự dân
quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy”, theo đánh giá
của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố viết Tắt đèn năm 1937, ít lâu sau khi tác phẩm
Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình ra đời, trong ảnh hưởng của phong

trào Mặt trận Dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở thời điểm đó, vấn đề nông
dân, vấn đề đấu tranh chống lại chính sách sưu thuế, áp bứ bóc lột của bọn thực
dân, quan lại, địa chủ, cườg hào, đòi cải thiện đời sống cho người dân cày là một
vấn đề lớn, trọng tâm của cách mạng. Đó cũng là một đề tài lớn, phổ biến của
văn học, nơi để lại những thành tựu nghệ thuật sáng giá trong văn nghiệp của
những nhà văn tên tuổi: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… Tuy vậy, không
một cay bút nào đề cập đến vấn đề nông dân một cách thiết tha, tập trung như
Ngô Tất Tố. Lòng yêu nước, thương dân, tình cảm gắn bó với số phận người
nông dân lao động vốn như một nội lực của ngòi bút Ngô Tất Tố, khiến nhà văn
có thể nhanh chóng tiếp thu và tiếp thu một cách chân thành, tự nhiên tinh thần
dân chủ, tiến bộ của phong trào Mặt trận Dân chủ. Chính sự gặp gỡ giữa yêu cầu
của thời đại, của cách mạng và sự thôi thúc bên trong của ngòi bút Ngô Tất Tố
đã tạo nên một đặc sắc và thành công xuất sắc của ông trong mảng đề tài nông
dân, nông dân nói chung và tiểu thuyết Tắt đèn nói riêng.
Trước Cách mạng tháng Tám, thuế má là tại hoạ khủngk hiếp đối với
người nông dân. Xoáy sâu vào thuế thân - nột thứ thuế vô nhân đạo nhất trong
chính sách thuế khoá dã man của chế độ thuộc địa. Tắt đèn đã phơi bày đến tận
cùng bản chất bóc lột xấu xa, bẩn thỉu của chế độ thực dân phong kiến Việt
Nam. Thuế đánh vào người sống. Thuế đánh cả vào những cái xác chết. Vì suất
thuế của chồng và cái thẻ sưu của người em chồg “chết dở năm Tây” mà bọn
quan tây và vua quan ta đang cố kết “dựng dậy, đòi cho kỳ được cái suất sưu”,
“món nợ nhà nước đó” (Nguyễn Tuân), mà chị Dậu bị dồn đẩy đến bước đường
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cùng: Phải bòn bán hai gánh khoai (chút lương ăn cuối cùng của đàn con nhỏ và
cả gia đình), bán chó, rồi bán con và cuối cùng bán xứ đi ở vú cho nhà quan
huyện. Cả một chuỗi tai hoạ thắt buộc số phận người đàn bà. Khơi sâu vào nỗi
thống khổ và số phận thể thảm của người dân quê.
Tắt đèn, do vậy, là bản tố cáo quyết liệt, bênh vực quyền sống của họ. Quả
quyết, sắc sảo vạch mặt chỉ tên cả một bộ máy thống trị của quan Tây, quan ta,
nghị viện, địa chủ, cường hào gian ác đã làm nên “cái tối giời, tối đất” (Nguyễn

Tuân) ở nông thôn, Tắt đèn đồng thời là bản án đanh thép kết tội bọn quan lại
thống trị yhà hiếp, đục khoét người nông dân. Nhưng không chỉ thấu hiểu, sẻ
chia nỗi thống khổ không cùng với người lao động nghèo trong cuộc sống lầm
lụi, bị giày vò, đạy đoạ, Ngô Tất Tố còn phát hiện ở họ những tình cảm đẹp đẽ,
nhân ái, cao thượng và bản lĩnh kiên cường bất khuất, “Trên cái tối giời, tối đất
của đồng lúa ngày xưa”, Ngô Tất Tố đã dựng lên “sừng sững cái chân dung lạc
quan của chị Dậu”, “đã đưa ra, đã dám đưa ra một nhân vật đàn bà nông thôn
khoẻ khoắn, lành mạnh”, tiêu biểu cho hình ảnh khoẻ khoắn, ngời sáng của
người phụ nữ nông dân Việt Nam, một điển hình phụ nữ nông dân xuất sắc nhất
của văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Giá trị nhân văn của tác
phẩm, do vậy càng sâu sắc. Có thể nói, Ngô Tất Tố là người duy nhất trong số
các nhà văn cùng thời có được cái nhìn nhất quán, đầy trân tọng, yêu thương
như vậy đối với người nông dân. Tắt đèn xứng đáng là một “áng văn mới mẻ
nhất về loại văn chương xã hội ngày nay”, “một thiên kiệt tác hoàn toàn phụng
sự dân quê… khiến người đọc phải có những tư tưởng cải tạo xã hội”, một trong
những thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực Việt Nam
trước cách mạng. Ngay từ khi mới ra đời, Tắt đèn đã được dư luận và báo chí
tiến bộ đánh giá cao ở giá trị hiện thực: mô tả “những sự tàn bạo ghê gớm,
những chuyện hà lạm hèn mạt, những cảnh đói nghèo tai hại”; ở nghệ thuật tiểu
thuyết: “không còn là những điều biện giải khô khan của luân lý mà nó đã gắn
liền được vào cái nghệ thuật uyển chuyển của một tiểu thuyết gia”, “Ngô Tất Tố
đã dùng được đắc sách cái phương pháp khách quan, phương pháp rất mới mà
“chỉ nhà văn xã hội theo phương pháp duy vật biện chứng mới có mà có một
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cách đầy đủ”. Một số ý kiến đặc biệt nhấn mạnh đến lập trường, cách nhìn nhận
đúng đắn của Ngô Tất Tố: “Trái với Tự lực văn đoàn khi nói tới quê nhà: một
đằng là chế giễu những ngớ ngẩn và thi vị hoá cảnh quê, một đừng là nói những
cái bất bình nhìn từ con mắt của chính một người nông dân nhìn ra. Suốt trong
sáu thập kỷ qua. Tắt đèn đã được tái bản nhiều lần, và giá trị của cuốn tiểu
thuyết ngày càng được khẳng định vững chãi hơn, ở những tầng vỉa giá trị hiện

thực và nhân văn cao sâu hơn. Hàng chục bài viết của các nhà văn: Nguyên
Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng… và các nhà nghiên cứu,
phê bình: Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê,
Nguyễn Hoành Khung, Hà Minh Đức, Như Phong, Hồng Chương… từ nhiều
góc độ tiếp cận khác nhau, đều đi tới khẳng định giá trị đặc sắc của Tắt đèn,
“đỉnh cao” của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, đặc biệt đi sâu vào
hình tượng nhân vật chị Dậu “cái đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn” (Nguyễn
Tuân), vào nghệ thuật xây dựng nhân vật chị Dậu và nghệ thuật “kể chuyện,
cách dựng truyện” tài tình của Ngô Tất Tố, một trong những yếu tố quan trọng
góp phần tạo nên sự “rung động”, sức hấp dẫn và giá trị của cuốn tiểu thuyết.
Hơn nữa thế kỷ qua, tên tuổi Ngô Tất Tố trước hết và gần như bao quát là
gắn với Tắt đèn, “một tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn phụng sự dân quê,
một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy”, theo cách nói của tác
giả Giông tố, Số đỏ. Nhà văn đã hoàn thành tác phẩm ngay chính trên làng quê
của mình, đã đào xới vào tận các tầng sâu nỗi khổ của người dân như trên các
luống cày của đất quê, trên số phận của những người thân kẻ sơ một vùng quê
không xa ánh sáng thành thị là mấy, mà cứ như hun hút ngập vào đêm đen Trung
cổ. Tắt đèn có tất cả mọi cung bậc một tiếng nói tố khổ quyết liệt cho số phận
người nông dân trong xã hội cũ, dường như bất dịch, không thay đổi hàng nghìn
năm, cho đến khi có “ông Tây”; và đến lúc có ông Tây rồi, tình cảnh người nông
dân vẫn chẳng có bao nhiêu thay đổi. Một xã hội nối dài từ các “việc làng”,
chung quanh một cái đình làng cho đến một tư thất hoặc công đường nơi huyện
sở, rồi một cảnh cụ cố - vú em ở phố tỉnh; hc thì có mở rộng, nhưng số phận con
người thì vẫn cứ thắt buộc trong tối tăm và oan khổ. Tắt đèn ánh lên cái nhan

×