Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Lời nói đầu
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam
từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu
phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được
mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ,
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá,
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích
nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương mại.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy
nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước
đầu hình thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ
biến và hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt
chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế - kinh doanh, vừa với vai
trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương
mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân
phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác
của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên
tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương
với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được tăng cường,
mở rộng cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn
hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn,
hiệu quả hơn.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng
tăng và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời
gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển
của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy
động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu
đối với các ngân hàng thương mại và NHCT Hoàn Kiếm cũng không là ngoại
lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất
thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm
hiểu tình hình thực tế tại NHCT Hoàn Kiếm vừa qua, em đã mạnh dạn chọn
đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng
Công Thương Hoàn Kiếm ”. Làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I : Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn
Kiếm.
Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân
Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Chương I
hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát chung về NHTM.
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước
phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch
với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là
một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế
càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng
những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều
chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi
tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh
nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng
hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong
nền kinh tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng
hầu như là giống nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất
giữa các nước trên thế giới.
1.1.1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.1.1. Khái niệm.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM,
người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị
trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt
động. Ví dụ: Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Hay theo như Luật Ngân hàng của ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là
cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa
NHTM, nó tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng
lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa
đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một
tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh
khác của chính Ngân hàng.
Trên thế giới các ngân hàng thương mại hoạt động với chức năng,
nghiệp vụ khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các
nghiệp vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng
thương mại ta có thể dựa trên các tiêu chi sau:
* Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành:
- Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một
cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một
địa phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương.
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn
vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu
này chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các
hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người
nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh
đa dạng.
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu
thuộc về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất
ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
* Căn cứ theo tính chất hoạt động
- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng.
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên
doanh, thường chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định.
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây
là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ
yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân
hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó
thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng
cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một
giao dịch thường nhỏ.
* Căn cứ theo cơ cấu tổ chức
Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự
phân chia này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực
tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán,
bất động sản nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách
pháp nhân để kinh doanh.
Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước ta quan niệm: (Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam
ban hành 02/ 1997/QH 10) “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được
thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
*Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước
cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành
kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân
hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho. Hiện nay có
các ngân hàng thương mại quốc doanh sau: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát
triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công
Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng
chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và
hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ
cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân
hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp
luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước
ngoài (ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam.
- Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và
dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp
thông qua các giấy tờ có giá.
- Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là
những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung,
dài hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu
tư trực tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước( gồm sở hữu Nhà nước
và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những
chính sách của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận.
-Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín
dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành
viên tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu
tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
1.1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
a. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản
xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội
xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương
mại ra đời là chìa khoá giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn
tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối
được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế cùng nhau phát
triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh
nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành tái
sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn. có lợi nhuận
cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng,
không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức
trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất
cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.
b. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản
xuất bất cứ cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thị trường. Thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản
phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng
dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được
nâng cao Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng
vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Ngân hàng sẽ
giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các
sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
c. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ
của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành
phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự
giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần
kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các
nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong
hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay
vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia
vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp
đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai
trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
d. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Ngày nay, trong su hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc
hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên
thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính
của một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng
thương mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra
nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận.
Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so
sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương
mại với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh
và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện,
thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy
động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba
nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát
triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ
này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền
gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài
sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy
động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào
ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn
có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư,
khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền
kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và
tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh.
* Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục
đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị
trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu
hay vay có đảm bảo Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ
yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó
không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể
tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động
không thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi
hỏi các Ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối
tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
* Vốn chủ sở hữu của NHTM :
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý
bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định,
ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở
vật chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân
ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh
doanh của bản thân Ngân hàng mang lại.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các
mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi
nhuận. Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như
khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt
buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NH
thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề
mà mọi NH thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi
nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của
ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo
thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức
đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích
có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông
nghiệp, cho vay thuê mua
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động
được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới
các hình thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị
trường và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
* Nghiệp vụ khác
Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn,
dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; king doanh và dịch vụ bảo
hiểm
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian khác
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số
nghiệp vụ khác như:
* Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp , tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua
hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực
hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán
chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
* Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền;
cho thuê két sắt, bảo mật
1.2. Vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức
năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo
tiền.Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có
hiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vốn hoạt động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
“ Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư
hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác ”.
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của ngân
hàng thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm
các nguồn tiền tệ của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn
tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác
nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ
khác của ngân hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân
hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá
của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các
ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê Nói
chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực
hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu.
- Vốn huy động.
- Vốn đi vay.
- Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh
của NHTM.
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng
có toàn quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
nhà cửa Đây là nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính
ngân hàng. Ngân hàng có to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn
kho khách hàng khi đến giao dịch. Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành
và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng
lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngân
hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ).
Tuỳ theo hình thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, do
cổ đông đóng góp nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là
ngân hàng liên doanh và của cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân.
b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời
gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay
từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm Nguồn vốn bổ sung này tuy
không thường xuyên song đối với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ
sung này chiếm một tỷ lệ rất lớn.
c. Các quỹ
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một
mục đích riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn
vốn, quỹ phúc lợi, quĩ khen thưởng Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ
lợi nhuận. Các quỹ này thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi
thành cổ phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
Ngân hàng có thể sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.2.2.2. Vốn huy động
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn
và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân
hàng có thể huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội với nhiều
hình thức khác nhau.
a. Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch )
Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng
với mục đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền
gửi thanh toán này có thể được trả lãi ( trả lãi thấp ) hoặc không được trả lãi
tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng. Người gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền với một mức phí thấp. Các ngân hàng có thể sử
dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của mình.
b. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo
các chu kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền
này không tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán ( do khi cần tiền phải đến ngân
hàng để rút ) nhưng bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo
độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp đồng.
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi. Họ gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn
và sinh lời đối với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết
kiệm xác định rõ thời gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng.
Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
gay gắt giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn
đưa ra các hình thức huy động đa dạng như tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng
và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều kỳ hạn để
người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất.
d. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn
có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh
toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.
1.2.2.3. Vốn đi vay
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi
vay để đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc Các ngân hàng có thể
vay ở:
a. Vay ngân hàng Nhà nước ( ngân hàng trung ương )
Khi các ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp bách về vốn thì người
dang tay cứu giúp sẽ là ngân hàng trung ương. Hình thức vay chủ yếu là tái
chiết khấu ( hay tái cấp vốn ). Các ngân hàng thương mại sẽ mang các trái
phiếu mà mình đã chiết khấu lên ngân hàng trung ương để tái chiết khấu.
Thông thường các ngân hàng trung ương chỉ cho tái chiết khấu những trái
phiếu có chất lượng, thời hạn ngắn và phù hợp với mục tiêu của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
b. Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa
ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình
thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân
hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không
cần thế chấp hoặc thế chấp bằng các chứng khoán của kho bạc. Các khoản
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu
cầu tức thời.
c. Vay trên thị trường vốn
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu) trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng
các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những
ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn
các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các
ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay
mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính,
các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ
1.2.2.4. Vốn khác
a. Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng
nguồn vốn của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp
phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ
b. Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng
làm tăng nguồn vốn của mình.
c. Nguồn khác
Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả
1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm
và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng
phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần
khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường
nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các
ngân hàng thương mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết
kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân
hàng trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ
thanh toán đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay
vòng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát
triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân
đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều
kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng
hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy
động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân
sách nhà nước nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua
các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất.
1.2.3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
a. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có
vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các
nguồn khác. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì
phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự
án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương
mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được
các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
b. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng.
Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn.
Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín
dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.
Các ngân hàng lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng.
Phạm vi hoạt động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ.
Chính vì vậy càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
c. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được
ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân
hàng chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của
ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi
giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh
toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các
ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.
d. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều
kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo
khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân
hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân
hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với
các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả
lãi Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được
thực hiện tốt hơn.
1.3. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Một hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến
hành huy động vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn
đó hầu như đều giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức
huy động thì lại rất khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được
lựa chọn để phân loại.
1.3.1. Phân loại căn cứ theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó
liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy
động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức
huy động được chia thành:
1.3.1.1. Huy động ngắn hạn
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại
thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và
các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán Phần lớn số này
được dùng để cho vay ngắn hạn ( dưới 1 năm ) hoặc được chuyển hoán kỳ
hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động
ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém.
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
1.3.1.2. Huy động trung hạn
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ
trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm).
Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy
nhiên lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn
huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các
hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất
cao.
1.3.1.3. Huy động dài hạn
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường
vốn, với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn
định cao ( từ 5 năm trở lên ). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất
cao.
1.3.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động
1.3.2.1. Huy động vốn từ dân cư
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân
hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển
đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy
động từ dân cư thường khá ổn định .
1.3.2.2. Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao
trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các
doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các
doanh nghiệp khi bán được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi
cần. Chu kỳ rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống
nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể
sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi
khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ
các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến
các dịch vụ ngân hàng.
1.3.2.3. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi
ở lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán Ngoài ra việc vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi
ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng
thanh toán bị đe doạ các ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá
trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy
động này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại
tệ. Trong số những người cho ngân hàng vay có một người đặc biệt. Đó là
ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người cho vay
cuối cùng để cứu cho các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra.
Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ
dàng nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao
hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng sử dụng không nhiều.
1.3.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng
thương mại sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng
tạo sự thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy
động bao gồm:
1.3.3.1. Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi
a. Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát
triển có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản
tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách
hàng gửi tiền phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá
nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người
gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ ba. Hình
thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn bằng séc. Đặc biệt
người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua
các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền
gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai:
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có
toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền
gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường
được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách
hàng còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng
vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng
nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí
không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng
tiền mặt thấp ( trong đó có Việt Nam ) và để tăng mức động viên tiền gửi,
ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này ( có những thời điểm được trả ngang
bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ). Tỷ lệ huy động từ nguồn
này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng
chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của
người gửi tiền.
b. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
rút ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh
tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định,
ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi
suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử
dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi
suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân
hàng.
ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (
mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích ) với các thời hạn 3
tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai
trò hay việc tạo vốn cho các ngân hàng.
c. Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương
mại. Bao gồm các loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy
nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít
biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta.
Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3
tháng, 6 tháng Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị
phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả
khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay,
để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong
việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D
hàng với lãi suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số
ngày gửi thực tế
- Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài.
Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát triển nhưng ở nước ta
còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút
ra khi đến hạn ( thời hạn tương đối dài ). Loại hình này giúp cho ngân hàng
có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn.
1.3.3.2. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường
kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể
vay từ nhiều nguồn:
a. Vay từ các tổ chức tín dụng
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên
thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây
dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không
vay ngân hàng trung ương.
b. Vay từ ngân hàng trung ương
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc
hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể
cầu cứu là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình
thức tái chiết khấu thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các
thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng
có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại
một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của
chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung
vốn cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất
định.