Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.65 KB, 28 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam. Ông chính là
người hoàn thiện cho bức tranh hiện thực phê phán của văn học Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám. Sáng tác của Nam Cao là những tiếng thở dài day dứt,
dằn vặt, những cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội của tầng lớp trí thức hay tiếng kêu
đau khổ, chua chát, tuyệt vọng của người nông dân dưới chế độ cũ. Ngòi bút
tỉnh táo, sắc lạnh của ông khiến người ta liên tưởng tới giọng văn của Lỗ Tấn.
Nam Cao cũng là một trong số ít những nhà văn xây dựng được cho mình
một phong cách nghệ thuật đặc sắc với những tác phẩm để đời như: Chí Phèo, Sống
mòn, Đôi mắt….Có thể nói, cả Nam Cao và tác phẩm của ông đều thu hút được
sự chú ý của các nhà nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu xoay quanh vấn đề Nam Cao
và các tác phẩm của ông nhưng lại chủ yếu là về mặt nội dung và phong cách
nghệ thuật. Trong bài viết này người viết muốn tiếp cận các tác phẩm của ông
dưới góc nhìn của Ngôn ngữ học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề trong các tác phẩm của Nam Cao là rất nhiều nhưng bài viết này
chỉ tập trung tìm hiểu về đại từ nhân xưng.
Trong khuôn khổ của một niên luận, chúng tôi chỉ lựa chọn 4 tác phẩm
trước cách mạng của ông làm tư liệu khảo sát, đó là : Nghèo, Chí Phèo, Lão
Hạc, và Những chuyện không muốn viết.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện niên luận này chúng tôi nhằm mục đích khảo sát và phân loại
hệ thống đại từ nhân xưng trong tác phẩm của Nam Cao, đồng thời, tìm hiểu
cách sử dụng cũng như giá trị nghệ thuật trong ấy để khẳng định một lần nữa
những đóng góp to lớn của ông về nghệ thuật ngôn từ trong văn xuôi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về đại từ và đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
1.1. Đại từ trong tiếng Việt
1.1.1. Một số quan niệm về đại từ trong tiếng Việt
Đại từ là một từ loại được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm và đã
được nhiều sách Ngữ pháp tiếng Việt thống nhất đặt tên. Ngôn ngữ học N.V.
Stankêvich đã nhận xét: “đại từ là một nhóm rất quan trọng ở trong ngôn ngữ,
và thường là một nhóm từ ít có hiện tượng vay mượn từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác. Vì vậy đem hệ thống đại từ ra so sánh là một hiện tượng rất thú
vị và rất có ý nghĩa về mặt loại hình học” ( tiếng Việt hiện đại Nguyễn Văn
Thành, 2003). Việc tìm hiểu, so sánh hệ thống đại từ luôn nảy sinh nhiều vấn đề
đặc biệt là trong tiếng Việt. Cũng chính N.V. Stankêvich nhận xét: “ở ngữ pháp
tiêng Việt trước nay các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến rất khác nhau khi
quan niệm thế nào là đại từ và khi phân loại đại từ thành các nhóm nhỏ. Điều
này đã tạo ra sự rắc rối về thuật ngữ.”
Trong cuốn ngữ pháp tiếng Việt ( Nxb Từ điển Bách khoa, 2001, tr 150),
Nguyễn Hữu Quỳnh quan niệm: “ đại từ là những từ dùng để chỉ sự vật, để xưng
hô, để thay thế cho danh từ, động từ, tính từ và cụm từ trong câu.”
Các tác giả cuốn Việt Nam văn phạm ( 1940) lại định nghĩa “đại danh tự
là tiếng dùng thay danh tự”
Tác giả Nguyễn Lân trong Ngữ pháp tiếng Việt lớp 7, 1955 quan niệm “
đại từ là thứ từ dùng thay thế cho một danh từ để khỏi nhắc lại danh từ ấy và để
câu được gọn gàng”
Để tiện cho việc khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi xin đồng ý với định
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghĩa về đại từ của tiến sĩ Nguyễn Văn Thành trong cuốn Tiếng việt hiện đại
(Nxb Khxh 2003)
“Đại từ là những từ dùng để chỉ người, chỉ vật,chỉ ngôi thứ thay cho các

danh từ cụ thể và để chỉ định xác định các danh từ, các đại từ nhân xưng làm cho
chúng có tính xác định rõ ràng”
Đại từ chỉ người, chỉ vật chỉ ngôi trong tiếng Việt rất phong phú về sắc
thái tu từ ngay cả trong trường hợp dùng riêng. Bên cạnh đó, tiếng Việt còn có
một hệ thống đại từ lâm thời mượn danh từ như: anh, em , ông , bà, chú , bác,
cha, mẹ…cho nên việc chuyển đổi các ngôi càng phức tạp. Theo Nguyễn Văn
Thành “bên cạnh việc tách riêng các đại từ thay thế danh từ và phân loại ngữ
nghĩa đại từ như phân loại các từ loại khác, còn phải áp dụng khái niệm phạm
trù ngữ pháp hiện đại, để xác định các hệ hình đối lập, diễn đạt các ý nghĩa ngữ
pháp đối lập về ngôi thứ, về số ít, số nhiều và nêu rõ quy luật chuyển đổi hay
thay thế của chúng”. Ông còn phân loại đại từ thành các loại:
+ Đại từ chỉ người và chỉ vật: bao gồm các đại từ: ai, kẻ, người, người ta,
gì, cái gì.
+ Đại từ nhân xưng bao gồm: tao, tôi, chúng tao, chúng tôi (ngôi thứ
nhất), mày, chúng mày (ngôi thứ hai), nó, họ, chúng nó (ngôi thứ ba). Và trong
Tiếng Việt còn một loạt các danh từ được sử dụng chuyển loại thành đại từ nhân
xưng như: bố, mẹ, con, anh, chị, em…
+ Đại từ chỉ định bao gồm: này, kia, nọ, đấy, nay, ấy, đây, làm sao, thế
nào, ra sao, đó nào…,
+ Đại từ xác định bao gồm: cả, tất cả, mọi, từng, mỗi, ai đó, cái gì, suốt,
thâu…
+ Đại từ không xác định bao gồm: bất kì, ai đó, cái gì đó.
+ Đại từ nghi vấn bao gồm: ai, cái gì, thế nào, ra sao, này, kia
+ đại từ phản thân: mình
+ Đại từ tương hỗ phản thân: nhau
Việc sử dụng các đại từ trong Tiếng Việt khá phức tạp để diễn đạt ý nghĩa
ngữ pháp và ý nghĩa tu từ. Cho nên, việc tách riêng phạm vi hoạt động của đại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từ sẽ giúp cho việc sử dụng đại từ được nhất quán và chặt chẽ.
1.1.2. Vị trí của đại từ trong hệ thống từ loại Tiếng Việt

Đại từ là một từ loại đặc thù. Nó không điển hình cho thực từ cũng không
giống như những hư từ khác. Đánh giá về vị trí của đại từ trong hệ thống từ loại
tiếng Việt, cũng có nhiều ý kiến khác nhau,có thể quy về hai hướng: hướng thứ
nhất coi đại từ thuộc nhóm thực từ, trong đó có người nhấn mạnh vào nét đặc
thù của đại từ so với các từ loại khác. Trong tác phẩm Từ loại tiếng Việt hiện đại,
tác giả Lê Biên cho rằng: “đại từ có đặc tính của thực từ nhưng nó không phải la
thực từ đích thực mà chỉ có tính chất thực từ”; hướng thứ hai không xếp vào
thực từ cũng không xếp vào hư từ. Trong sách Ngữ pháp tiếng Việt (NXB
ĐHQG, 2001) tác giả Đinh Văn Đức viết: “đại từ không được xếp vào thực từ
cũng không được xếp vào hư từ mà thường có vị trí trung gian riêng biệt trong
quan hệ với thực từ và hư từ trong hệ thông từ loại”.
Trong cuốn Bài tập ngữ pháp tiếng Việt (NXB GD- 2002) tác giả Đỗ Thị
Kim Liên đã nhấn mạnh chức năng của đại từ: “đại từ không như các danh từ,
động từ, tính từ mang nghĩa thực xác định mà đại từ chỉ xuất hiện với chức năng
thay thế, nghĩa là nó phải tồn tại nhờ vào các danh từ, động từ, tính từ (hoặc cụm
động từ, cụm danh từ, cụm tính từ). Chính vì chức năng đó nên đại từ không thể
mở đầu câu của văn bản, nhưng vì cái mà đại từ thay thế đều là giá trị thực nên
chúng tôi xếp vào nhóm thực từ. Ngoài ra, đại từ đều có hai khả năng điển hình
của danh từ, động từ, tính từ là khả năng làm trung tâm cụm từ và khả năng làm
thành phần chính của câu”. Có thể nói quan niệm của Đỗ Thị Kim Liên đã tổng
kết được các quan niệm của các nhà Ngôn ngữ học trước đó và đưa ra một quan
niệm hợp với thực tế của tiếng Việt
1.2. Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
Đại từ nhân xưng là những từ dùng để thay thế cho người nói như: tôi,
tao, chúng tôi, chúng ta, mày, chúng mày…hoặc để chỉ người và vật được nói
đến như: nó, họ, hắn, y, thị…
Tìm hiểu về đại từ nhân xưng trong tiếng Việt, tác giả Phạm Thành đã có
bài viết Đại từ nhân xưng tiếng Việt đối với người nước ngoài đăng trên tạp chí
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khoa học Đại học tổng hợp Hà Nội, số 1/1987. Theo bà, hệ thống đại từ nhân

xưng tiếng Việt bao gồm 2 lớp: lớp đại từ thực thụ và lớp đại từ lâm thời. Số đại
từ thực thụ chỉ gồm có 12 đại từ sau: tôi, tao, tớ, mày, nó, chúng tôi, chúng ta,
chúng mình, chúng mày, chúng nó, họ, chúng tao. Các đại từ lâm thời trong
tiếng Việt được mượn từ các danh từ chỉ người, mà trước hết là các danh từ chỉ
quan hệ thân thuộc như: ông, bà, chú, bác, bố, mẹ, anh, chị…Chính các đại từ
lâm thời này đã khiến cho hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt cực kì
phong phú cả về số lượng lẫn chất lượng (40 từ). Các đại từ nhân xưng tiếng
Việt diễn đạt các ý nghĩa biểu cảm và tu từ tinh tế, mang sắc thái khác nhau. Do
đó khi xem xét chúng ta cần phải căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể. Trong bài viết tác
giả Phạm Thành cũng đã nêu ra nguyên nhân của sự biến đổi từ danh từ sang đại
từ nhân xưng trong tiếng Việt. Theo bà, ác danh từ chỉ quan hệ thân tộc được sử
như các đại từ nhân xưng là do tiếng Việt không biến hình, từ trong tiếng Việt dễ
dàng chuyển hoá từ loại. Bên cạnh đó còn một nguyên nhân nữa thuộc về xã hội
đó là sự phân biệt thứ bậc rõ ràng trong quan hệ gia đình, mang tính độc lập giữa
thế hệ bậc trên và thế hệ bậc dưới
Ví dụ: cha, mẹ anh,chị ông, bà, chú, bác, cô, dì…
Con em cháu
Người Việt Nam lại rất coi trọng cách xưng hô theo quan hệ đó. Điều đó
đặt ra cho hệ thống đại từ nhân xưng thêm chức năng biểu đạt cách xưng hô ấy.
Vì vậy hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt phải mượn thêm một loạt các danh
từ chỉ quan hệ thân tộc.
Nếu như các đại từ thực thụ chịu sự ràng buộc vốn có của hệ thống (mỗi
từ chỉ hoạt động hạn chế trong pham vi một ngôi) thì các đại từ lâm thời lại hoàn
toàn khác. Chúng có thể hoạt động ở cả ba ngôi.
Ví dụ: Trong giao tiếp người Việt có thể nói:
- Mẹ tặng con món quà này.
Mẹ: ngôi thứ nhất
Con: ngôi thứ hai
Hoặc cũng có thể nói:
Website: Email : Tel : 0918.775.368

- Con cảm ơn mẹ!
Con: ngôi thứ nhất
Mẹ: ngôi thứ hai
Hoặc:
- Con ra gọi mẹ vào ăn cơm đi.
Mẹ: ngôi thứ ba
Con: ngôi thứ hai
Khả năng có thể hoạt động ở cả ba ngôi như vậy khiến cho việc xác định
ngôi của các đại từ lâm thời hoàn toàn phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Đầu tiên, các đại từ lâm thời được sử dụng trong gia đình nhằm phân biệt
thứ bậc rõ ràng. Sau đó trong giao tiếp thường nhật, những người không có quan
hệ thân thuộc muốn tạo ra sự gần gũi thân thiết cũng sử dụng hệ thống đại từ
này. Vì vậy, với các mức độ khác nhau, đại từ lâm thời trong tiếng Việt được sử
dụng phổ biến. Ngoài xã hội nguyên tắc tôn trọng thứ bậc trong xưng hô mờ
dần, thay vào đó là những quy ước xã giao phụ thuộc vào các điều kiện tâm lý
xã hội: tuổi tác, địa vị, nghề nghiệp, thái độ tình cảm… Điều này tạo ra sự đối
lập giữa cặp xưng hô có sự tương ứng nghiêm ngặt giữa cặp xưng hô có sự
tương ứng không nghiêm ngặt.
Ví dụ: Về tương ứng nghiêm ngặt như: Con – Cha, mẹ
Em – anh, chị
Cháu – ông, bà, chú , bác, cô, cậu…
Về sự tương ứng không nghiêm ngặt: Tôi – anh, chị
Em – bác
Tôi – ông, bà
Trong xã hội cũ, sự phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt cho nên việc xưng hô
cũng tuân theo nguyên tắc rõ ràng: “xưng phải khiêm, hô phải tôn”. Người nói
khi xưng mình phải nhún xuống, còn khi gọi người khác phải tôn lên. Đặc biệt
với những người ở địa vị thấp, nguyên tắc này càng rõ rệt. Họ phải nhún mình
xuống hạng “con, cháu” và gọi những người có địa vị là “ông, bà, cụ”.
Ví dụ: Lạy cụ ạ! Bẩm cụ… con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ

Website: Email : Tel : 0918.775.368
(Chí Phèo – Nam Cao)
Do đại từ nhân xưng lâm thời được mượn từ các danh từ chỉ quan hệ thân
tộc và chịu tác động của các yếu tố xã hội, yếu tố tâm lý nên chúng luôn biến
động. Theo lịch sử và theo thói quen giao tiếp có nhiều đại từ dần ít được sử
dụng như: nàng, thiếp, chàng… và cũng có những đại từ mới nảy sinh như: đồng
chí, bạn… Bên cạnh làm phong phú hệ thống đại từ nhân xưng, các đại từ lâm
thời còn khiến cho sắc thái, phong cách của hệ thống này trở nên phức tạp. Điều
này gây khó khăn cho những người học tiếng Việt do phải lựa chọn đại từ trong
từng hoàn cảnh giao tiếp.
Hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt mang đặc trưng về sắc thái biểu
cảm. Mỗi đại từ dù thuộc lớp đại từ thực thụ hay lớp đại từ lâm thời, dù ở chức
năng xưng hô hay ở chức năng thay thế đều mang một sắc thái biểu cảm nhất
định. Vì vậy việc lựa chọn đại từ nhân xưng trong giao tiếp của người Việt cũng
là một yêu cầu rất quan trọng. Và như tác giả Phạm Thành viết: “sắc thái biểu
cảm của câu nói thể hiện trong cách sử dụng đại từ nhân xưng, cho nên có thể
nói đại từ nhân xưng tiếng Việt mang ý nghĩa giao tế rộng lớn. Sự phong phú về
số lượng và sức biểu cảm mạnh mẽ của chúng thể hiện cách ứng xử tế nhị, muôn
màu muôn vẻ của con người Việt Nam.
2. Vài nét về tác giả, tác phẩm Nam Cao
2.1. Tác giả Nam Cao
Nam Cao tên là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915 ở làng Đại Hoàng, Lý Nhân,
Hà Nam. Làng Đại Hoàng nằm trong vùng chiêm trũng, nông dân quanh năm
nghèo đói, lại bị cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ.
Gần gũi với nông dân cùng với kinh nghiệm long đong lận đận của một trí
thức nghèo đã khiến Nam Cao thấu hiểu sâu sắc cuộc sống vật chất cũng như
tinh thần của người nông dân, tri thức trước cách mạng. Nhân vật trong tác
phẩm của Nam Cao hiện lên như những con người thật đang hoạt động, suy
nghĩ, rên rỉ và gào thét trong cơn cùng quẫn, bế tắc. Các nhân vật ấy giao tiếp
với nhau bằng thứ ngôn ngữ của đời thường và được tác giả gọi bằng những cái

tên cũng rất dân dã. Viết về người nông dân xưa, bằng chất văn chân thật, mộc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mạc, bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân, cho nên hệ thống đại từ nhân xưng
trong văn Nam Cao cũng rất gần gũi, mang tính mộc mạc, suồng sã.
2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao thực sự thành danh từ tác phẩm Chí Phèo (1941) nhưng trước
đó, năm 1936 ông đã có sáng tác được đăng báo. Sự nghiệp sáng tác của ông có
thể chia làm hai thời kì: trước và sau cách mạng.
Trước cách mạng sáng tác của Nam Cao tập trung chủ yếu vào hai đề tài:
cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống cùa người nông dân.
Sau cách mạng Nam Cao tự nguyện làm người tuyên truyền vô danh cho
cách mạng. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu vào đề tài chiến tranh.
2.3. Đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm Nam Cao
Tuy là người giai đoạn sau nhưng Nam Cao đã tạo ra một hướng đi riêng,
một phong cách đặc trưng cho sáng tác của mình. “Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh
táo, sắc lạnh, vừa trĩu nặng suy tư và đằm thắm yêu thương”. Bên cạnh giọng kể
lạnh lùng, hệ thống đại từ nhân xưng trong các tác phẩm được Nam Cao sử dụng
cũng đã giúp ông đạt được mục đích. Ngoài ra, hệ thống đại từ nhân xưng còn
góp phần làm cho các tác phẩm của Nam Cao “vừa hết sức chân thực vừa thấm
đượm ý vị triết lý và trữ tình”.
3. Đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
3.1. Khái quát về đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
Ngôn ngữ là phương tiện phản ánh cuộc sống của văn chương đặc biệt là
các tác phẩm tự sự. Từ ngôn ngữ nhà văn dựng nên cả thế giới những sự kiện,
hiện tượng với những nhân vật mang tính cách con người trong xã hội thực.
Trong thế giới ấy các nhân vật hoạt động, suy nghĩ và giao tiếp, và dù là độc
thoại hay đối thoại, nhân vật phải xưng hô nghĩa là phải sử dụng đại từ nhân
xưng. Ngoài ra một tác phẩm tự sự (bao gồm truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài) bao giờ cũng có một hình tượng người tường thuật, hoặc là hình tượng của
tác giả nói, viết hoặc là hình tượng nhân vật kể chuyện. Các tác phẩm của Nam

Cao cũng không là ngoại lệ. Trái lại, các sáng tác của Nam Cao là điển hình cho
việc sử dụng một hệ thống đại từ nhân xưng cực kỳ phong phú, đa dạng với
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những sắc thái biểu đạt khác nhau.
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc, ngôn ngữ Nam Cao “sống động, uyển
chuyển, tinh tế rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng”. Nó phản ánh
trực tiếp trạng thái ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. Và điều này một phần có được
là do nghệ thuật sử dụng linh hoạt, toàn diện hệ thống đại từ nhân xưng. Có thể
nói ông là nhà văn bậc thầy trong lĩnh vực này. Sáng tác của Nam Cao trần thuật
từ cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Dường như hệ thống đại từ nhân xưng của
phương ngôn Bắc Bộ đã được thâu tóm trong tác phẩm của Nam Cao. Thế giới
nhân vật trong văn Nam Cao rất đông đảo: những người nông dân dưói đáy xã
hội, những quan lại bề trên chỉ chuyên bóc lột đè nén dân đen, những trí thức
tiểu tư sản nghèo. Cho nên hệ thống đại từ nhân xưng trong tác phẩm của Nam
Cao cũng rất phong phú. Trong phạm vi hẹp của một niên luận là cũng do hạn
chế về trình độ chúng tôi chỉ khảo sát hệ thống đại từ nhân xưng trong bốn tác
phẩm: Nghèo; Chí Phèo; Lão Hạc; Những chuyện không muốn viết.
Trong bốn tác phẩm chúng tôi đã thống kê được 49 đại từ nhân xưng với
1457 lần xuất hiện:
- Ngôi thứ nhất xuất hiện 317 lần chiếm 21.77%
- Ngôi thứ hai xuất hiện 133 lần chiếm 9.13%
- Ngôi thứ ba xuất hiện 1006 lần chiếm 69.1%
3.2. Các tiểu loại đại từ nhân xưng trong tác phẩm Nam Cao
2.2.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất
2.2.1.1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít
Bao gồm các đại từ như: Tôi: xuất hiện 252 lần
Tao: xuất hiện 11 lần
Con: xuất hiện 8 lần
Ta: xuất hiện 11 lần
Bu: xuất hiện 6 lần

Thầy: xuất hiện 3 lần
Tớ: xuất hiện 1 lần
Cái thằng tôi nó: xuất hiện 1 lần
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Đại từ tôi
Đại từ Tôi trong các tác phẩm của Nam Cao phần lớn được dùng trần
thuật toàn truyện. Có thể thấy các truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất với đại
từ Tôi của Nam Cao thường là những câu chuyện có tính chất cá nhân, tâm tình,
hồi tưỏng:
- Tôi mời lão hút trước (Lão Hạc).
- Chính tôi cũng đang trách tôi cái sự ấy (Những chuyện
không muốn viết).
Vốn dĩ, đại từ Tôi chỉ người nói, thuộc văn phong ôn hoà. Nó được sử
dụng khi phải báo cáo việc gì đó trước tập thể, đối thoại giữa nam nữ để thể hiện
tính nghiêm túc của vấn đề, để giữ tư thế bình đẳng hay để nâng cao tư thế của
mình.
Ngoài ra nó còn sử dụng trong văn phong trần thuật, tự sự thể hiện hành
động, suy nghĩ, tình cảm của mình.
Nam Cao thường sử dụng đại từ tôi trong các sáng tác để bộc lộ tình cảm,
suy nghĩ của nhân vật – mà ở đó thấp thoáng bóng dáng của nhà văn, một người
có điạ vị xã hội từ bấy giờ. Từ tôi cũng là cách xưng hô giữa nhà văn với độc
giả.
* Đại từ tao
Đây là một đại từ độc đáo trong tiếng Việt và cũng đã được Nam Cao sử
dụng triệt để. Đại từ tao trong tác phẩm Nam Cao được dùng với nhiều sắc thái
tình cảm. Có khi nó thể hiện sự thân mật suồng sã. Cũng có thể đấy là lời nói
của một kẻ vô học, xưng hô để xoá nhoà ranh giới tôn kính giữa kẻ trên người
dưới trong địa vị xã hội:
- Không được! ai cho tao lương thiện (Chí Phèo)
Đây là câu Chí Phèo nói với Bá Kiến trước khi vụ án mạng xảy ra. Trước

đó hắn luôn gọi Bá Kiến là “cụ” và xưng “con”, nhưng lần này hắn lại xưng
“tao”. Đó giống như tiếng nói đòi quyền bình đẳng, đòi quyền sống và đòi lương
thiện. Đó cũng là tiếng nói chống lại chế độ, tiếng nói của những người cùng
cực nhằm xoá bỏ ách thống trị, áp bức của tầng lớp địa chủ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, đại từ tao còn đước sử dụng với thái độ tức giận và khinh
ghét đồng thời khẳng định vị thế bề trên của mình như lời bà Huyện nói với cái
Gái con chị đĩ Chuột:
- Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì
tao đào mả lên đấy! (Nghèo).
* Đại từ tớ
Đại từ tớ thuộc văn phong bình dân, được dùng trong xưng hô bạn bè, tỏ
ý thân mật, nhưng Nam Cao lại sử dụng trong một lời tỏ tình của đôi trai gái
đang yêu:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui! (Chí Phèo)
Đó là câu nói phong tình của Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chỉ
với đại từ tớ Nam Cao đã lột tả hết vẻ ngượng ngùng, gượng gạo và sự cố gắng
của Chí Phèo . Và chỉ với từ tớ Nam Cao đã thay đổi hẳn Chí Phèo về mặt chất:
từ một con quỷ dữ, một kẻ cướp giật, ăn vạ trở thành một con người hiền lành
lương thiện, suồng sã, dễ gần.
* Các đại từ khác như: bu, thầy, con được dùng với tư cách đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhât số ít thể hiện nét văn hoá Bắc Bộ cũ trong văn Nam Cao . Đó là
cách xưng hô quen thuộc của người nông dân xưa thể hiện quan hệ thứ bậc trong
gia đình cũng là tình cảm thân thuộc, ruột thịt
* Đại từ ông
Đại từ ông, bên cạnh thể hiện quan hệ thứ bậc, còn thể hiện thái độ
ngạo ngược
Ví dụ:
- Hôm nay ông không có tiền, nhà mày bán chịu cho ông một chai (Chí
Phèo)

Với đại từ ông, Chí Phèo đã tự nâng mình lên địa vị cao hơn so với mụ
hàng rượu. Trong câu nói ấy, dường như Chí Phèo muốn khẳng định vị thế của
mình trong xã hội, cụ thể là làng Vũ Đại
Cũng có lúc đại từ ông được dùng trong lối xưng hô thân mật, gần gũi với
người dưới của bề trên:

×