Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Luận văn về Biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.9 KB, 153 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược được Đảng và Nhà nước ta
xác định ngay từ khi hình thành nền giáo dục cách mạng. Quan điểm đó được
Đảng chỉ đạo xuyên suốt qua đường lối phát triển giáo dục và được khẳng định là
xây dựng một nền giáo dục “Của dân, do dân, vì dân, được xây dựng trên
nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng”. Từ sau các mạng tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh 146/SL ngày 10/8/1946, trong đó
khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi “Toàn dân
tham gia diệt giặc dốt theo phương châm: Người biết dạy cho người chưa biết …
ai cũng phải học”. Người xác định ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục nước
nhà là “Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và tôn chỉ phụng sự lý tưởng
quốc gia và dân chủ”. Từ đó đến nay tư tưởng này đã được Đảng ta khẳng định
qua nhiều văn kiện.
Ngày 11 tháng 01 năm 1979, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 14-
NQ/TW về cải cách giáo dục và đã xác định phương châm “ Phối hợp những cố
gắng đầu tư của Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ
sở sản xuất và sức lao động của thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng
thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng
định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi
người chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình
và cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp Giáo dục
- Đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội,
tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong cộng đồng, trong tập
thể ”.
- 1 -
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta
dành tỷ lệ thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa phát triển giáo dục - đào tạo.
Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho giáo dục - đào tạo. Đẩy


mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục - đào tạo”.
Như vậy xã hội hóa giáo dục chính là tạo điều kiện cho toàn dân được tham
gia học tập và học tập suốt đời, toàn dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục
và toàn dân làm giáo dục theo tinh thần giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà
nước và của toàn dân.
Theo quan điểm và định hướng chung của Đảng và Nhà nước ta, Xã hội hóa
giáo dục được thực hiện trên nhiều lĩnh vực công tác khác nhau, có liên quan đến
nhiều hoạt động, nhiều ban ngành, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và các tổ
chức xã hội nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển sự nghiệp
giáo dục. Một trong những công tác cấp thiết của xã hội hóa giáo dục hiện nay là
công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các bậc
học, cấp học; bởi vì trường học, với cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo
viên và học sinh là cơ sở ban đầu, là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo của sự
nghiệp giáo dục.
Trong những năm qua, công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng và
thực sự đi vào cuộc sống. Quy mô giáo dục và đào tạo không ngừng phát triển.
Đến năm 2004, ngân sách chi cho giáo dục chiếm đến 25% trong tổng chi ngân
sách địa phương và bằng 43,9% trong tổng mức chi ngân sách thường xuyên của
tỉnh; phần nhân dân đóng góp hơn 18,7%. Nhiều trường học đã được tầng hóa,
kiên cố hóa, khang trang, sạch đẹp. Nhiều trường Mẫu Giáo, Mầm Non, Tiểu học
và THCS đạt chuẩn quốc gia đã xuất hiện và phát triển.
Số lượng trường học đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam hiện nay có thể
nói là có bước khởi đầu tốt đẹp. Tuy nhiên số lượng trường chuẩn ở các bậc học,
- 2 -
cấp học phát triển không đều, nhất là cấp THCS còn quá Ýt so với tổng số
trường THCS trong toàn tỉnh (36/184 trường THCS đạt chuẩn quốc gia). Đa số
các trường THCS đạt chuẩn quốc gia đều nằm ở các địa bàn có điều kiện kinh tế
xã hội tương đối phát triển và có nhiều thuận lợi. Số trường còn lại đang gặp rất
nhiều khó khăn trong công tác xây dựng và phát triển giáo dục, nhất là công tác

xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Vì vậy để việc xây dựng trường THCS đạt
chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam trong những năm tới đạt được kết quả tốt hơn
cần phải có những biện pháp tích cực hơn. Một trong những biện pháp tích cực
nhất đó là thực hiện tốt biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây
dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
Công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia
ở tỉnh Quảng Nam là sự đòi hỏi bức thiết để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục
theo tình hình thực tế của tỉnh nhà hiện nay. Bởi lẽ, Quảng Nam là một trong
những tỉnh được thành lập sau, điều kiện kinh tế xã hội đang còn nhiều khó khăn,
vì vậy cần phải có các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục thật tốt để
huy động mọi nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục nói
chung và trường THCS đạt chuẩn quốc gia nói riêng.
Theo các văn kiện và nghị quyết của Đảng ta về xã hội hóa giáo dục, thì việc
xây dựng các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường
THCS đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam hiện nay là sự phù hợp và đáp ứng
các chủ trương của Đảng và Nhà nước. Trong Quyết định số 20/2005/QĐ-
BGD&ĐT ngày 24 tháng 6 năm 2005 về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát
triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005-2010” của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo có ghi: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện liên kết các lực
lượng xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, Đoàn TN
CS HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Khuyến học, Hội
Cựu chiến binh, Ban đại diện cha mẹ học sinh, …) để tạo ra ảnh hưởng tích cực
- 3 -
đối với giáo dục và đào tạo, tập hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng môi
trường nhà trường từ cơ sở hạ tầng, cảnh quan, nề nếp kỷ cương dạy-học đến các
mối quan hệ bên trong nhà trường và quan hệ nhà trường với xã hội, hỗ trợ nhà
trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa … Củng cố và phát triển diễn đàn Đại
hội giáo dục các cấp để thu thập ý kiến đóng góp của mọi lực lượng xã hội, thể
hiện trách nhiệm của xã hội đối với sự nghiệp phát triển giáo dục.”
Với những lý do nêu trên, tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học: “Biện

pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt
chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất các biện pháp quản lý công tác Xã hội hóa giáo dục để xây dựng
trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác Xã hội hóa giáo dục trong xây dựng
trường học đạt chuẩn quốc gia.
3.2 Đánh giá thực trạng các biện pháp quản lý công tác Xã hội hóa giáo dục
trong xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở Quảng Nam thời gian vừa
qua (từ khi có quy định về trường THCS đạt chuẩn cho đến nay).
3.3 Xây dựng hệ biện pháp quản lý công tác Xã hội hóa giáo dục để xây dựng
trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
4.1 Khách thể nghiên cứu : Công tác xã hội hóa giáo dục ở tỉnh Quảng nam.
4.2 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam.
5. Giả thuyết khoa học:
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn
quốc gia ở Quảng Nam trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định,
- 4 -
song vẫn còn nhiều bất cập. Việc xây dựng và phát triển của công tác xây dựng
trường THCS đạt chuẩn quốc gia chưa đồng đều, thiếu vững chắc, chưa ngang
tầm với truyền thống đất học Quảng Nam. Việc huy động các lực lượng trong
toàn xã hội tham gia làm công tác giáo dục chưa kịp thời và đều khắp; đặc biệt là
công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia chưa
đem lại kết quả cao, số lượng trường THCS đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn toàn
tỉnh còn quá khiêm tốn. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý phù hợp hơn thì
sẽ đẩy mạnh và phát huy tốt hơn hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục trong việc
xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia.

6. Phạm vi nghiên cứu:
6.1. Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu khía cạnh quản lý công tác xã hội hóa giáo
dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Quảng Nam.
6.2. Giới hạn khách thể điều tra:
- Lãnh đạo, cán bộ chuyên trách của Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Lãnh đạo Đảng, chính quyền, đại diện các ban, ngành ở một số huyện,
thị xã và các xã, phường
- Một số Phòng Giáo dục. (Lãnh đạo, chuyên viên)
- Hiệu trưởng các trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
- Hiệu trưởng các trường THCS chưa đạt chuẩn quốc gia.
- Đại diện các đoàn thể các nhà trường và Giáo viên THCS để tham khảo.
7. Các phương pháp nghiên cứu:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích nghiên cứu các tài liệu có
liên quan
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra viết, tổng kết kinh nghiệm,
phương pháp chuyên gia…
8. Cấu trúc luận văn: Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu; Nội dung; Kiến nghị và
Kết luận.
- 5 -
Nội dung
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
Ơ
1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng :"Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng". Thực tiễn cách mạng nước ta hơn bảy mươi năm qua đã minh
chứng cho điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Cũng vì thế mà suốt trong quá trình
lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng ta luôn vận động, tập hợp nhân dân tham gia
xây dựng và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo
dục-đào tạo. Quan điểm Êy được thể hiện khá rõ trong thư gửi cán bộ, thầy giáo,
cô giáo, công nhân viên, học sinh nhân dịp bắt đầu năm học mới, (ngày 16. 10.

1968) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: "Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng".
Thực chất đây là chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, mãi đến Hội
nghị Trung ương lần thứ 4 (Khóa VII, 1993) thì tinh thần đó mới chính thức trở
thành một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội
trong xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục. Và xã hội hóa giáo dục đã trở
thành một cuộc vận động rộng lớn toàn xã hội, toàn dân tham gia xây dựng giáo
dục. Nếu như trước đây vì quá nhấn mạnh đến chức năng tư tưởng và văn hóa
của giáo dục, nên giáo dục chỉ được quan niệm là một bộ phận quan trọng của
công tác tư tưởng và văn hóa, hoặc do chưa đánh giá đúng mức vai trò quan
trọng của giáo dục đối với sự phát triển nên giáo dục chỉ được xem là phúc lợi xã
hội, thì nay giáo dục được xem là "quốc sách hàng đầu", đầu tư cho giáo dục là
- 6 -
đầu tư cho phát triển. Do đó, "Giáo dục là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ
phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của nhân dân".
Công tác xã hội hóa giáo dục là một chủ trương rất đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan, đó là khắc phục cơ chế quản lý
tập trung, quan liêu, bao cấp đã lỗi thời, bảo đảm cho giáo dục - đào tạo phát
triển theo đúng bản chất xã hội và các quy luật vốn có của nó. Và xã hội hóa giáo
dục cũng chính là giải pháp mang ý nghĩa chiến lược nhằm thực hiện đổi mới
trong lĩnh vực giáo dục. Đây là một trong những lý do cần nghiên cứu để thấy
được tính ưu việt của công tác xã hội hóa giáo dục, góp phần thực hiện các mục
tiêu giáo dục của Đảng là: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, cần phải đẩy mạnh công tác xã hội
hóa giáo dục nhằm khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham
gia phát triển giáo dục, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ
được học thường xuyên, học suốt đời, tiến tới một xã hội học tập.
Dân tộc Việt nam vốn có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào các bậc cha mẹ cũng mong muốn cho con cái mình
được học hành nên người. Truyền thống hiếu học Êy thể hiện ở chỗ nhân dân ta

rất coi trọng việc học, quý mến thầy giáo và quan tâm đến công tác giáo dục thế
hệ trẻ. Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, tuy Nhà nước chỉ mở trường dạy học
dành cho con em các quan lại, các nhà chức trách và con cái nhà giàu nhưng đại
bộ phận nhân dân lao động cũng đã tự lo liệu để cho con em mình được đi học
bằng cách gởi con cho các thầy đồ dạy hoặc do dân tự mở lớp mời thầy về dạy.
Việc nhân dân tự chăm lo cho con em mình được học hành bằng cách kẻ Ýt
người nhiều, kẻ góp công, người góp của bồi dưỡng thầy giáo; cũng như việc
động viên, cổ vũ, tôn vinh người học thành đạt vốn là việc làm của nhân dân ta
đã có từ thời xa xưa. Sự chăm lo vật chất và động viên tinh thần cho người dạy
và người học Êy đã nói lên sự quan tâm của xã hội đối với công tác giáo dục; hay
- 7 -
nói một cách khác, xã hội hóa giáo dục ở nước ta đã xuất phát từ truyền thống
hiếu học và tôn sư trọng đạo này.
Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, xã hội hóa giáo
dục ở nước ta đã có những bước phát triển mới; nhất là từ khi Đảng Cộng Sản
Việt Nam ra đời lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công, quan điểm giáo dục của
Đảng và Bác Hồ đã được khởi xướng và dấy lên nhiều phong trào học tập rầm
rộ. Khẩu hiệu “Diệt giặc dốt” và sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ của
Chính phủ đã mở đầu cho nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, giáo dục là một bộ phận của cách mạng, do đó giáo
dục cũng là sự nghiệp của quần chúng. Đáp ứng lời kêu gọi diệt giặc dốt của Bác
Hồ và Chính phủ, phong trào học tập được nhân dân hưởng ứng sôi nổi, phong
trào lan ra rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, đâu đâu cũng có người đi học,
đâu đâu cũng có các lớp xóa nạn mù chữ. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chủ Tịch có
tính thuyết phục cao và đem lại hiệu quả to lớn. Hình thức tổ chức dạy- học được
thực hiện theo khẩu hiệu hành động “ Người biết chữ dạy người chưa biết, chồng
dạy vợ, cha dạy con”. Ai biết chữ đều có thể tham gia dạy bình dân học vụ. Quan
điểm giáo dục của Đảng và Bác Hồ đã thực sự đi vào lòng dân và đã khơi dậy
được truyền thống hiếu học của dân tộc, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vượt
qua mọi khó khăn thử thách để “ai cũng được học hành”. Từ đấy Đảng và nhân

dân ta đã ý thức sâu sắc lời dạy của Bác Hồ: “ Vì lợi Ých mười năm phải trồng
cây, vì lợi Ých trăm năm phải trồng người”. Tuy ở trong hoàn cảnh đất nước với
nhiều khó khăn, thử thách, Đảng và nhân dân ta đang phải cùng một lúc đương
đầu với nhiều thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm nhưng nền giáo dục
Việt Nam do Bác Hồ khởi xướng đã phát triển một bước khá dài và mạnh mẽ,
huy động được sự đóng góp to lớn của toàn xã hội.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi (1975) nước nhà độc lập, thống
nhất, Đảng và Chính phủ đã có nhiều nổ lực đầu tư phát triển giáo dục nhưng do
- 8 -
cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, tổ chức thực hiện còn máy móc nên chưa
phát huy hết tiềm năng sẵn có để phát triển mạnh. Chúng ta thay vì thực hiện sự
quản lý giáo dục của Nhà nước, đã hành chính hóa giáo dục, Nhà nước hóa giáo
dục, làm cho giáo dục mất khả năng chủ động và thiếu tính sáng tạo. Nhận thức
được tình hình này, Đảng và Chính phủ đã thực hiện nhiều đợt cải cách giáo dục
nhưng vẫn còn mang tính chắp vá, chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế
- xã hội, nhất là trong thời điểm này, khi nhân loại đang bước sang thời kỳ “làn
sóng thứ ba”, vào thời đại văn minh hậu công nghiệp, khoa học và kỹ thuật phát
triển mạnh mẽ, xu hướng hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, đa phương hóa là quy
luật tất yếu để phát triển đất nước.
Mặc dầu Đảng và Nhà nước đã ra nhiều quyết định để khắc phục tình trạng
trên như Quyết định số 124 về việc thành lập Hội đồng giáo dục ở các cấp và
Quyết định ngày 9/12/1981 của Bộ Giáo dục ban hành điều lệ tổ chức và hoạt
động của Hội đồng giáo dục các cấp chính quyền ở địa phương nhưng mãi đến
Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (1986), với đường lối đổi mới của Đảng, đất
nước ta bắt đầu chuyển mình để bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới tư
duy trên các lĩnh vực mà trước tiên là lĩnh vực kinh tế hàng hóa - kinh tế thị
trường với xu thế mở cửa. Hoàn cảnh khách quan và chủ quan đã đặt ra nhiều
thời cơ và thách thức mới đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải phát triển với tốc
độ cao, đạt tới trình độ phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quan
điểm đa dạng hóa, đa phương hóa trong giáo dục vốn có được tiếp tục khơi dậy

và nâng cao lên một tầm mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của BCH TW khóa VIII đã chính thức đề
cập đến nội dung của công tác xã hội hóa giáo dục: “Nhà nước cần đầu tư nhiều
hơn cho giáo dục nhưng vấn đề rất quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến
hành tốt các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục
trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội… Phải coi đầu tư cho
- 9 -
giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển… Phải coi đầu
tư cho phát triển là một trong những hướng chính, tạo điều kiện cho giáo dục đi
trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội
làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục
quốc dân dưới sự quản lý của của Nhà nước.” [Tr.61]
Trong văn kiện Đại hội lần VIII (1996), Đảng ta một lần nữa đã lại khẳng
định xã hội hóa là một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính
sách xã hội. Nghị quyết 90/CP của Chính phủ (tháng 8/1997) nêu rõ phương
hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Đến
tháng 8/1999, Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 73/1999 NĐ-CP về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế,
văn hóa, thể thao. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, BCH TW khóa VIII tiếp tục nêu
rõ vấn đề trên, khẳng định: “ Giáo dục-đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân”. Văn kiện Đại hội IX (2001) yêu cầu “ Tăng cường đầu tư cho giáo dục từ
ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục-đào tạo” [12; 204].
Không riêng ở Việt Nam mà nhiều nước khác trên thế giới như ở Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Ên Độ, Inđônêxia, Philippin, các nước Châu Á Thái
Bình Dương … cũng đều rất quan tâm đến việc xây dựng và củng cố các tổ chức
phục vụ trực tiếp cho giáo dục, vì chất lượng đào tạo thế hệ trẻ. Trung Quốc đã
xác định “Cần phải đưa giáo dục lên vị trí ưu tiên cho sự phát triển”. Ên Độ cũng
huy động xã hội tham gia công tác giáo dục gắn liền với phát triển nông thôn,
huy động cộng đồng phát triển giáo dục phi chính quy.
Nh vậy, xã hội hóa giáo dục là một hệ thống định hướng hoạt động của mọi

người, mọi lực lượng xã hội nhằm trả lại bản chất xã hội cho giáo dục, trả lại
nhiệm vụ xã hội cho chính giáo dục, nhằm xây dựng một xã hội học tập.
1.2. Các khái niệm cơ bản.
- 10 -
1.2.1. Khái niệm về quản lý.
Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trên cơ sở
những cách tiếp cận khác nhau. Theo một số tác giả, tiếp cận trong quản lý là
đường lối xem xét hệ thống quản lý, là cách thức thâm nhập vào hệ thống quản
lý, là cơ sở để xử lý các vấn đề nảy sinh trong quản lý.
Có nhiều quan điểm tiếp cận quản lý như: quan điểm tiếp cận lịch sử, tiếp
cận phân tích tổng hợp, tiếp cận mục tiêu, tiếp cận hệ thống
Các tác giả đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, ví dụ như:
- Nguyễn Ngọc Quang quan niệm: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của của môi trường[ 29,tr 42]
- Theo Phan Văn Kha: Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử
dụng các hệ thống nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định.
- Xét quản lý với tư cách là một hành động, Vũ Ngọc Hải cho rằng: “ Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.”[17, tr 1]
- Xét theo chức năng quản lý, hoạt động quản lý thường được định nghĩa:
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt
động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.[ 8, tr. 1]
Như vậy, quản lý là một chức năng riêng biệt nảy sinh ra từ bản thân, bản
chất của quá trình xã hội, của lao động thuộc về nó. Bản chất của quản lý là một
quá trình điều khiển mọi quá trình xã hội khác. Giữa chủ thể quản lý và khách
thể bị quản lý diễn ra một mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và
chính nhờ mối quan hệ đó mà hệ thống vận động đến mục tiêu. Tổ hợp những tác

động từ chủ thể đến khách thể làm cho hệ vận hành đến mục tiêu và chuyển từ
- 11 -
trng thỏi ny sang trng thỏi khỏc. ú l qun lý, tp hp cỏc tỏc ng qun lý
lm ny sinh ra cỏc mi quan h qun lý.
Quan im tip cn h thng cho rng: cú th xem xột cỏc hot ng qun
lý nh mt h thng hon chnh bao gm nhng nhõn t v mi quan h tng
tỏc gia cỏc nhõn t t c mc tiờu ó xỏc nh.
Theo lý thuyt h thng, cú th coi h thng xó hi ch ngha Vit Nam l
mt h thng ln bao gm nhiu h thng nh (H thng giỏo dc o to, h
thng kinh t, h thng vn hoỏ, h thng chớnh tr, ) Mi h thng nh bao
gm nhng h thng nh hn:
S mi quan h gia GD-T trong h thng kinh t xó hi
Mi loi h thng chu s tỏc ng v chu s chi phi tỏc ng qua li bi
- 12 -
Giáo
dục và
đào tạo
Hệ thống chính
trị
Hệ thống kinh
tế
Hệ thống
vănhoá
Thị trờng lao
động
các hệ thống đồng cấp và bản thân nó có tính độc lập tương đối, có chức năng và
nhiệm vụ riêng, vận hành và phát triển bởi những tác động qua lại theo những
quy luật riêng của những nhân tố bên trong hệ thống đó.
Các mối quan hệ nêu trên được thể hiện:
- Quan hệ cung cầu giữa các hệ thống lớn: giữa đào tạo-sử dụng-thị trường

lao động
- Quan hệ nhân quả giữa các nhân tố trong cùng một hệ thống
- Quan hệ mục tiêu tổng thể với các mục tiêu chuyên biệt, giữa mục tiêu với
các hoạt động và các điều kiện đảm bảo.
- Liên thông trong toàn bộ hệ thống GD-ĐT ( Phân luồng hợp lý, liên thông
về nội dung chương trình )
1.2.2. Bản chất và chức năng của quản lý:
Bản chất của quản lý là sự phối hợp các nỗ lực của con người thông qua
các chức năng quản lý.
Quá trình quản lý có 4 chức năng cơ bản có liên quan mật thiết với nhau
bao gồm: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
- Lập kế hoạch: Kế hoạch là văn bản, trong đó xác định những mục tiêu đề
ra. Có thể hiểu lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu của hệ thống, các
hoạt động và các điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó. Kế hoạch là
nền tảng của quản lý.
- Tổ chức: Là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các
nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể hoạt động và đạt được các
mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả.
Đối với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức của đơn vị cũng
khác nhau. Người quản lý cần có quyền được lựa chọn cấu trúc tổ chức cho phù
hợp với những mục tiêu và nguồn lực hiện có. Quá trình đó được gọi là quá trình
thiết kế tổ chức. Tổ chức là một công cụ của quản lý.
- 13 -
- Chỉ đạo: Là quá trình tác động đến con người làm cho họ nhiệt tình, tự
giác nỗ lực phấn đấu đạt các mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra: Là những hoạt động của chủ thể quản lý nhằm đánh giá và xử lý
những kết quả của quá trình vận hành tổ chức. Nếu có sự chênh lệch thì cần điều
chỉnh hoạt động. Trong trường hợp cần thiết thì có thể điều chỉnh mục tiêu.
Các chức năng cơ bản của quá trình quản lý có quan hệ mật thiết với nhau
và cùng với các yếu tố khác có liên quan tới cả 4 chức năng đó thì thông tin kích

thích (khuyến khích/ tạo động cơ ) và ra quyết định.
Hệ thống thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, là sức mạnh của công tác
quản lý. Thông tin là mạch máu lưu thông tin tức giữa các bộ phận đảm bảo cho
toàn bộ hệ thống hoạt động, đảm bảo sự thống nhất trong quản lý. Quá trình quản
lý phụ thuộc chặt chẽ vào các thông tin. Vai trò của thông tin trong quản lý rất
quan trọng: Là cơ sở, chất liệu hình thành các quyết định quản lý. Chất lượng
hiệu quả của quyết định quản lý phụ thuộc vào tính đầy đủ, chính xác, kịp thời
của thông tin.
Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý và hệ thống thông tin được biểu
diễn thành sơ đồ sau:

- 14 -
LËp kÕ ho¹ch
KiÓm tra Th«ng tin
ChØ ®¹o
Tæ chøc
Sơ đồ 2: Các chức năng quản lý và thông tin trong quản lý
Nh vậy, đối với mỗi hệ thống hoạt động quản lý có thể phân chia thành 4
nội dung lớn: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, kiểm tra
đánh giá các hoạt động và việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong những
điều kiện cần thiết có thể điều chỉnh lại kế hoạch, hoặc mục tiêu hoặc các hoạt
động cụ thể hoặc có thể đồng thời điều chỉnh hai hoặc ba nhân tố cho phù hợp.
1.2.3. Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
trong lĩnh vực công tác giáo dục. Nói một cách đầy đủ hơn, quản lý giáo dục là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể
quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các
cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng
xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.

Quản lý giáo dục còn là một ngành, một bộ phận khoa học có tính liên
ngành nhằm vận dụng những khoa học quản lý sao cho phù hợp với nhu cầu và
đặc điểm của các hệ thống giáo dục.
Quản lý giáo dục cũng có bốn chức năng cơ bản của quản lý nói chung,
nghĩa là có bốn chức năng: Lập kế hoạch; tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.3. Xã hội hóa và xã hội hóa giáo dục
1.3.1. Khái niệm về xã hội hóa
Xã hội hóa là quá trình hội nhập của một cá nhân vào xã hội hay mét trong
các nhóm của xã hội thông qua quá trình học các chuẩn mực và các giá trị xã hội.
Đó cũng là quá trình tiếp thu và phê phán các giá trị chuẩn mực và khuôn mẫu
hành động mà trong đó mỗi thành viên xã hội tiếp nhận và duy trì được năng lực
hành động xã hội.
- 15 -
Khái niệm trên đây đã nêu lên nội dung cơ bản thuộc phạm trù xã hội hóa.
Từ đó ta có thể rót ra:
Xã hội hóa là quá trình học tập suốt đời của cá nhân. Trong đó, cá nhân
với tư cách là chủ thể hành động không chỉ tiếp thu mà còn làm phong phú thêm
các quan hệ xã hội, các giá trị vật chất và tinh thần dưới hình thức cá nhân. Yếu
tố xã hội là quan trọng nhất nhưng không phải là cơ sở duy nhất để tạo nên cái
độc đáo có một không hai trong nhân cách, có thể có mâu thuẫn nảy sinh một
cách tự phát hay được tạo ra một cách có ý thức thông qua những yêu cầu khách
quan. Do đó, cá nhân chỉ phát triển khi có sự định hướng cả về nhận thức lẫn
hành động của xã hội và giáo dục.
Xã hội hóa có mục tiêu chủ yếu là: huy động sức mạnh của toàn xã hội, tạo
ra nhiều nguồn lực đa dạng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa,
giáo dục, y tế, thể thao, làm cho các lĩnh vực này thực sự gắn bó với dân, do dân
và vì dân để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cần phân biệt rõ hai khái niệm xã hội hóa và giáo dục như sau:
Xã hội hóa Giáo dục
- Là toàn bộ quá trình học tập theo

nghĩa rộng nhất, cho dù quá trình
đó diễn ra có ý thức, có kế hoạch
như mong muốn hay không, ở đâu
và lúc nào đi nữa.
- Là quá trình học tập của cá nhân
diễn ra trong suốt cuộc đời để hòa
nhập vào xã hội.
- Có quan hệ chủ yếu là cá nhân-
xã hội. Cá nhân phải hội nhập tự
giác, tích cực vào cộng đồng xã
- Là hoạt động có chủ định, có kế hoạch,
hướng vào các mục tiêu xác định và diễn
ra trong các thiết chế đặc thù nh ở nhà
trường.
- Là quá trình học tập của cá nhân diễn
ra mang tính giai đoạn.
- Có quan hệ chủ yếu là người dạy-
người học. Là quá trình truyền đạt và lĩnh
hội tri thức, kinh nghiệm sống.
- 16 -
hội.
- Là quá trình cá nhân học tập các
chuẩn mực của nhóm và xã hội để
hòa nhập vào cộng đồng xã hội loài
người.
- Là quá trình hình thành những tri thức
khoa học của thế giới, lý tưởng đạo đức,
hình thành nhân sinh quan nhằm phát
triển cả đức- trí- thể- mỹ cho con người.
Nhưng trong thực tế, không Ýt người cán bộ kể cả quần chúng còn có nhận

thức chưa đầy đủ về bản chất và nội dung xã hội hóa. Có người cho rằng xã hội
hóa có nội dung chủ yếu là huy động tiền của trong nhân dân, giảm bớt gánh
nặng cho ngân sách Nhà nước. Quan điểm phiến diện, lệch lạc này cùng với sự
buông lỏng trong quản lý đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực làm cho
người dân hiểu là xã hội hóa đồng nhất với việc thu tiền, làm giảm đi sự tâm
huyết với giáo dục trong việc thực hiện công tác xã hội hóa. Lại có người cho
rằng: Xã hội hóa có nghĩa là: Nhà nước và nhân dân cùng làm. Hiểu như vậy là
vô tình hạ thấp vai trò quản lý của Nhà nước, dẫn tới việc chưa thấy được vai trò
chủ đạo và thống nhất trong quản lý của Nhà nước. Hoặc một số ý kiến chưa
thấy hết tầm quan trọng của sự phối hợp liên thông, liên ngành dẫn tới tư tưởng
cục bộ, hay địa phương chủ nghĩa trong giáo dục.
Năm 1997, Chính phủ đã ban hành nghị định 90, khẳng định nội dung cốt
lõi của xã hội hóa bao gồm:
- Tuyên truyền, vận động sự tham gia đóng góp rộng rãi của nhân dân và của
toàn xã hội.
- Xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các tổ chức Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng, các đơn vị kinh tế, cơ sở doanh nghiệp.
- Đa dạng hóa các hình thức hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội, tạo
điều kiện cho các tầng lớp nhân dân được bình đẳng và chủ động tham gia các
hoạt động xã hội.
- Đa dạng hóa các nguồn đầu tư về nhân lực và vật lực đang tiềm tàng trong
- 17 -
nhân dân.
- Thực chất nội dung xã hội hóa là quá trình vận động quần chúng nâng cao
tính tích cực và tự giác, phát huy sức mạnh của quần chúng vì sự nghiệp giáo
dục. Đây cũng là quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và cơ chế quản lý của
Nhà nước để đa dạng hóa các hình thức hoạt động giáo dục.
Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh cách mạng nói
chung và giáo dục nói riêng đã luôn luôn coi trọng việc huy động toàn xã hội
tham gia giáo dục. Đến đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996) vấn đề xã hội hóa

giáo dục đã trở thành một quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã
hội, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Nh vậy, kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, thuật ngữ "Xã hội hóa" được
dùng chính thức trong các văn kiện của Đảng. Khái niện xã hội hóa đã hàm chứa
một tư tưởng chiến lược, một quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự phát triển
của đất nước ở một giai đoạn mới trong nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Khái niệm xã hội hóa giáo dục
Giáo dục là một nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Điều này chứng tỏ không thể tách giáo dục ra khỏi đời
sống xã hội. Giáo dục chính là một phương tiện để xã hội đổi mới và phát triển.
Xã hội hóa giáo dục là quá trình giáo dục gia nhập và hòa nhập vào cộng
đồng; đồng thời xã hội tiếp nhận giáo dục như là một công việc chung mà mọi cá
nhân, đoàn thể, tổ chức, bộ máy đều có trách nhiệm tham gia.
Xã hội hóa giáo dục có tác dụng tích cực đến quá trình xã hội hóa con
người, xã hội hóa cá nhân. Thực hiện xã hội hóa giáo dục là duy trì mối liên hệ
phổ biến có tính quy luật giữa cộng đồng và xã hội, làm cho giáo dục phát triển
phù hợp với sự vận động của xã hội. Nội dung quy luật này là ở chỗ: Mọi người
- 18 -
phải làm giáo dục để giáo dục cho mọi người. Nghĩa là xã hội hóa giáo dục có
hai phương diện: Mọi người có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo
dục và giáo dục là nhằm mục đích phục vụ cho mọi người, tạo điều kiện để mọi
người ở mọi độ tuổi, ở mọi vùng được học tập, học thường xuyên, học suốt đời
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hai phương diện trên đã nêu rõ hai yêu cầu cơ bản thuộc về bản chất giáo
dục là: xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục và xã
hội hóa về quyền lợi giáo dục nghĩa là mọi người có quyền được thụ hưởng mọi
thành quả của giáo dục.
Hai yêu cầu này có quan hệ chặt chẽ và có sự tác động lẫn nhau, trong đó
xã hội hóa quyền lợi giáo dục là mục tiêu, cốt lõi của xã hội hóa giáo dục, làm

sao mọi người đều được học tập.
Trong hoạt động thực tiễn, cần phân biệt rõ tính chất xã hội của giáo dục
và xã hội hóa giáo dục. Nếu không có định hướng rõ ràng thì bản thân hoạt động
giáo dục vẫn có tính chất xã hội một cách tự phát nhưng không thể đạt tới trình
độ xã hội hóa đích thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó.
Cần có sự phân biệt, không thể đồng nhất xã hội hóa giáo dục với tính
chất xã hội của giáo dục. Nếu cho rằng xã hội hóa giáo dục để dẫn đến giới hạn
là chỉ nói đến tính chất xã hội của giáo dục là không đúng. Xã hội hóa giáo dục
là cách nói vắn tắt, ngắn gọn của xã hội hóa công tác giáo dục. Cần xác định rõ
rằng: Nội hàm xã hội hóa giáo dục nói ở đây thuộc phạm trù phương thức,
phương châm, cách làm giáo dục, thuộc phương thức tổ chức và quản lý giáo dục
đúng với bản chất và nội dung xã hội hóa đã nêu trên.
Thực tế còn tồn tại hai quan niệm về công tác xã hội hóa giáo dục:
Quan niệm thiếu - sai lệch Quan niệm đủ - đúng đắn
Là huy động tiền của trong nhân Là cuộc vận động lớn trong xã hội với sự
- 19 -
dân nhằm giảm nhẹ gánh nặng
cho Nhà nước.
tham gia đóng góp của các tổ chức, cá
nhân và toàn xã hội.
Nhà nước và nhân dân cùng làm
giáo dục.
Tập thể, các tổ chức Đảng, Nhà nước,
đoàn thể, cơ quan, đơn vị và quần chúng
có sự cộng đồng trách nhiệm trong công
tác GD.
Là trách nhiệm của ngành giáo
dục, của các nhà trường.
Là trách nhiệm chung của toàn Đảng,
toàn dân, trong đó ngành GD là nòng cốt.

Là tăng cường nguồn lực ngân
sách Nhà nước cho GD.
Là đa dạng hóa các nguồn đầu tư: nhân
lực, vật lực, tài lực, trí lực cho GD.
Là phát triển loại hình chính quy,
công lập.
Là phát triển đa dạng các loại hình GD
chính quy và phi chính quy: Công lập,
bán công, dân lập, tư thục.
Mọi người đều được có trách
nhiệm, nghĩa vị chăm lo đến sự
phát triển sự nghiệp giáo dục của
đất nước.
Mọi người đều có trách nhiệm đối với sự
phát triển của sự nghiệp GD vừa có
quyền lợi được thụ hưởng những thành
quả do GD mang lại.
Mọi người đều được học tập. Mọi người đều được học tập, học thường
xuyên, học suốt đời; tiến tới một xã hội
học tập.
Là giải pháp tình thế trong hoàn
cảnh đất nước còn nghèo, kinh
phí đầu tư cho giáo dục còn hạn
hẹp.
Là tư tưởng chiến lược và phương thức
tất yếu để phát triển sự nhiệp giáo dục.
Là sù tham gia của liên ngành và cộng
đồng, là con đường để thực hiện dân chủ
hóa và công bằng giáo dục nhằm nâng
cao chất lượng GD cuộc sống.


Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, của xã hội vào việc tham gia công tác giáo dục.
- 20 -
Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và phát triển có hiệu quả sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói riêng và nền giáo dục toàn dân nói chung. Nói
rằng đó là tư tưởng chiến lược vì nó mang giá trị chỉ đạo quá trình phát triển giáo
dục một cách lâu dài. Tư tưởng Êy xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục nhằm
đạt những mục tiêu đã định.
Không nên hiểu xã hội hóa công tác giáo dục chỉ là sự chia sẻ bớt gánh
nặng từ phía Nhà nước sang nhân dân mà quan trọng và sâu sắc hơn xã hội hóa
giáo dục là cộng đồng trách nhiệm và lợi Ých, nhằm thu hút sự tham gia của mọi
tầng lớp nhân dân vào phát triển giáo dục, xây dựng nền giáo dục toàn dân vào
phát triển giáo dục, xây dựng nền giáo dục toàn dân, khuyến khích mọi người
học thường xuyên, học suốt đời, gắn bó hữu cơ giữa giáo dục và phát triển kinh
tế - xã hội. Giáo dục phải đảm bảo công bằng xã hội, thỏa mãn mọi nhu cầu học
tập đa dạng của nhân dân, đáp ứng, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
Trong nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII đã nêu
rõ: "Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và của mỗi
cộng đồng, của từng gia đình và của mỗi cá nhân. Kết hợp giáo dục học đường
với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh; người lớn làm gương cho trẻ em noi theo. Phát động phong trào rộng
khắp toàn dân học tập, người người đi học, học ở trường lớp và tự học suốt đời,
người biết dạy người chưa biết, người biết nhiều dạy người biết Ýt, mỗi người
phải tự nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Phát triển các hình
thức giáo dục từ xa, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại
hình trường phù hợp với tình hình mới, với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và của
toàn xã hội." [11; 12].
Nghị quyết này đã nêu lên những điểm mới của nội dung xã hội hóa sự

nghiệp giáo dục là: Người người đều đi học, học thường xuyên, học suốt đời, do
- 21 -
đó toàn xã hội sẽ là một xã hội học tập. Trong các văn bản trước đó, vấn đề xã
hội hóa giáo dục mới chỉ dừng ở mức độ phát triển quy mô giáo dục. Từ quan
điểm trên của Đảng, chúng ta nhận thức rõ được xã hội hóa công tác giáo dục là
một tư tưởng lớn, một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự kế
thừa và phát huy truyền thống hiếu học, đề cao sự học, chăm lo sự học của nhân
dân ta trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây cũng là bài học lớn của lịch sử xây
dựng hơn 50 năm nền giáo dục cách mạng. Lần đầu tiên công tác xã hội hóa giáo
dục được gọi bằng một khái niệm mới mang tính tổng quát là xã hội hóa sự
nghiệp giáo dục.
Gần đây hơn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thêm một lần nữa khẳng
định, đồng thời với chủ trương chuẩn hóa, hiện đại hóa cần tiếp tục "Tăng đầu tư
cho giáo dục từ nhân sách Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo.
Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả
các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội phát triển đa dạng các hình
thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ
chức khuyến học, bảo trợ giáo dục" [12; 204]
Trong Nghị định 90/CP bgày 21/8/1999 của Chính phủ cũng đã cụ thể hóa
quan điểm xã hội hóa sự nghiệp lá quá trình tuyên truyền vận động và tổ chức để
đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đơn vị tổ chức, đoàn thể trong xã
hội cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục, là sự cộng đồng trách nhiệm
chung của mọi người để xây dựng và phát triển một môi trường giáo dục lành
mạnh, đa dạng hóa sự đầu tư vào các hình thức giáo dục dưới sự quản lý của Nhà
nước.
1.3.3. Xã hội hóa giáo dục là một nhân tố để xây dựng trường THCS đạt
chuẩn quốc gia
Tại Đại hội IX của Đảng, xã hội hóa được coi là một trong ba phương
hướng để đẩy mạnh sự phát triển Giáo dục- Đào tạo đi vào thế kỷ XXI: "Tiếp tục
- 22 -

nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa".
Nh vậy, xã hội hóa để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia cũng
phát xuất từ nội dung của một trong ba phương hướng của Đảng ta. Vì vậy, quản
lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia
đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy - học trên cơ
sở xây dựng trường, lớp đạt chuẩn, đội ngũ cán bộ quản lý , giáo viên, công
nhân viên có trình độ chuẩn hóa, áp dụng phương pháp giảng dạy và trang thiết
bị giảng dạy hiện đại để đẩy mạnh phát triển giáo dục .
Mét trong năm tiêu chuẩn để xét công nhận trường THCS đạt chuẩn quốc
gia theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo đó là tiêu chuẩn 5: Công tác xã
hội hóa giáo dục: " Tích cực làm tham mưu cho cấp Uỷ Đảng và chính quyền
địa phương về công tác giáo dục. Có nhiều hình thức huy động các lực lượng xã
hội vào việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diên; đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ về giáo dục giữa nhà
trường, cha mẹ học sinh và cộng đồng theo chương VII của Điều lệ trường
trung học; huy động các lực lượng xã hội tham gia đóng góp xây dựng cơ sơ vật
chất của nhà trường".
Trong thực tế ở tỉnh Quảng Nam hiện nay, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và
UBND tỉnh, ngành giáo dục các cấp đã có nhiều nổ lực trong việc triển khai
thực hiện chủ trương xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia theo hướng xã
hội hoá giáo dục và bước đầu đã đem đạt một số kết quả đáng kể. Tuy nhiên, ở
nhiều địa phương, nhất là các vùng sâu, vùng xa, điều kiện cơ sở vật chất cho
các trường học nói chung, và trường THCS nói riêng, còn gặp rất nhiều khó
khăn; thậm chí không đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục nếu chỉ dựa vào
nguồn kinh phí Nhà nước. Vì vậy, chính sách xã hội hóa giáo dục giải quyết
- 23 -
phần nào mâu thuẫn cơ bản, kéo dài và gay gắt đang diễn ra ở hầu hết các địa
phương là: sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển giáo dục ngày càng tăng và khả

năng có hạn của cơ sở vật chất, của tài chính đáp ứng sự phát triển đó. Hơn nữa
công tác xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia lại có yêu cầu khá cao về
một nhà trường vừa chuẩn về khâu tổ chức quản lý, về đội cán bộ quản lý, ngũ
giáo viên, nhân viên, trường, lớp, trang thiết bị, môi trường giáo dục vừa đòi hỏi
chất lượng đào tạo phải đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội ngày càng cao. Do
đó công tác xã hội hóa giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đầu
tư xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia; hay nói một cách khác, xã hội
hóa giáo dục là nhân tố quyết định để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc
gia.

1.3.4. Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: "Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
nhu cầu phát triển xã hội".
Xét từ phương diện quản lý giáo dục theo hướng xã hội hóa thì có thể hiểu
đây chính là quản lý công tác xã hội hóa giáo dục.
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục trước hết là xây dựng cơ chế vận hành
của hoạt động xã hội hóa, tạo hành lang để hoạt động xã hội hóa đi đúng quỹ
đạo, theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục có những cách làm khác nhau, cũng
giúp cho công tác quản lý có những phương pháp linh hoạt và thích hợp với từng
điều kiện, từng hoàn cảnh cụ thể. Nếu quản lý theo phương pháp máy móc, cứng
nhắc sẽ rơi vào tình trạng hành chính hóa, làm thui chột tính năng động của hoạt
động xã hội hóa. Nếu quản lý nghiêng về phương pháp dễ dãi, giản đơn sẽ đẩy
hoạt động xã hội hóa vào những sai lầm, nhất là huy động các nguồn thu.
- 24 -
Quản lý công tác xã hội hóa đòi hỏi phương pháp mềm dẻo, linh hoạt, tạo
được phong trào, định hướng được phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân,
tăng cường nguồn lực của xã hội và cộng đồng cho Giáo dục - Đào tạo.
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục không hoàn toàn là công việc của

ngành Giáo dục - Đào tạo. Với chức năng nhà nước của mình, ngành Giáo dục -
Đào tạo chủ yếu làm công tác tham mưu, vận động, tuyên truyền để xã hội nhận
thức đầy đủ hơn về giáo dục, chia xẻ khó khăn với giáo dục, cộng đồng trách
nhiệm và tham gia vào quá trình phát triển Giáo dục - Đào tạo. Tuy nhiên trong
một chừng mực nhất định, ngành Giáo dục - Đào tạo trực tiếp chỉ đạo và quản lý
hoạt động xã hội hóa trong các nhà trường, giúp cho công tác xã hội hóa đi đúng
hướng và có kết quả cao.
1.4. Những vấn đề lý luận về xã hội hóa giáo dục
1.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác xã hội hóa giáo
dục.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc
lệnh 146/SL ngày 10/8/1946, trong đó khẳng định " Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu". Người kêu gọi " Toàn dân tham gia diệt giặc dốt theo phương châm:
Người biết dạy cho người chưa biết ai cũng phải học". Người xác định ba
nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục nước nhà là "Đại chúng hóa, dân tộc hóa,
khoa học hóa và tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân chủ".
Tháng 7 năm 1950, Hội đồng Chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục
lần thứ nhất và xác định " Tính chất của nền giáo dục mới của ta là một nền giáo
dục của dân, do dân và vì dân, được xây dựng trên nguyên tắc dân tộc, khoa học
và đại chúng".
Đến Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, xã hội hóa được Đảng ta xác định
là cơ sở để hoạch định hệ thống chính sách xã hội: "Các vấn đề chính sách xã
hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt,
- 25 -

×