Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bài giảng FDI - chương 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.06 KB, 20 trang )

Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
1

Chƣơng 1: Những lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niêm về đầu tư
Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là
đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ
này lại được hiểu rẩt khác nhau. Có người cho rằng đầu tư là phải bỏ một cái gì đó vào
một việc nhất định để thu lại một lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng có người lại quan
niệm đầu tư là các hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận. Thậm chí thuật ngữ
này thường được sử dụng rộng rãi, như câu cửa miệng để nói lên chi phí về thời gian, sức
lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống.
Theo từ điển quản lý Tài chính Ngân hàng do nhà xuất bản ngọai văn Viện tiền tệ tín
dụng ấn hành thì tùy theo quan điểm, có ba khái niệm về đầu tư:
 Theo quan điểm kinh tế: đầu tư là tạo một vốn cố định tham gia vào hoạt động
của xí nghiệp trong nhiều chu kỳ kinh doanh nối tiếp. Đây là vấn đề tích lũy
các yếu tố vật ký chủ yếu về sản xuất hay thương mại.
 Theo quan điểm tài chính: đầu tư là làm bất động một số vốn nhằm rút ra tiền
lãi trong nhiều thời kỳ nối tiếp. Khái niệm này, ngòai việc tạo ra các tài sản
có còn bao gồm các chỉ tiêu không tham gia trực tiếp và họat động của xí
nghiệp như nghiên cứu, đào tạo nhân viên…
 Theo quan điểm kế toán: khái niệm đầu tư gắn liền với việc phân bổ một khoản
chi vào một trong các khoản mục của bảng cân đối kế toán.
Theo tác giả Trần Ngọc Thơ trong “Tài chính doanh nghiệp” thì đầu tư chính là sự
hi sinh giá trị chắc chắn trong hiện tại để đổi lấy khả năng không chắc chắn giá trị trong
tương lai (Trang 137, chương 7, PGS.TS Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp, Khoa


tài chính doanh nghiệp trường Đại học kinh tế Tp.HCM).
Vậy đầu tư theo đúng nghĩa của nó là gì? Những đặc trưng nào quyết định một hoạt
động được gọi là đầu tư? Mặc dù vẫn còn có khá nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
2

này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ bản về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó
là “đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai, …
vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu
lợi nhuận”. Người bỏ ra một số lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Chủ
đầu tư có thể là các tổ chức, cá nhân và cũng có thể là nhà nước.
Có hai đặc trưng quan trọng để phân biệt một hoạt động được gọi là đầu tư hay
không, đó là: tính sinh lãi và độ rủi ro của công cuộc đầu tư. Thực vậy, người ta không
thể bỏ ra một lượng tài sản mà lại không dự tính thu được giá trị cao hơn giá trị ban đầu.
Tuy nhiên, nếu mọi hoạt động đầu tư nào cũng sinh lãi thì trong xã hội thì ai cũng muốn
trở thành nhà đầu tư. Chính hai thuộc tính này đã sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy sản
xuất - xã hội phát triển.
Qua hai đặc trưng trên cho thấy, rõ ràng mục đích của hoạt động đầu tư là lợi nhuận.
Vì thế, cần hiểu rằng bất kỳ sự chi phí nào về thời gian, sức lực và tiền bạc vào một hoạt
động nào đó mà không có mục đích thu lợi nhuận thì không thuộc về khái niệm về đầu tư.
Tuy nhiên theo quan điểm của tôi, một định nghĩa về đầu tư phải được làm rõ ba yếu
tố sau: yếu tố tài chính, yếu tố lợi nhuận và phải được tính toán, cân nhắc trong sự tác
động của yếu tố thời gian. Vì thế nếu chỉ xét khía cạnh kinh tế có thể hiểu một cách đơn
giản “ Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ ra một lượng vốn nhất định trong một khoảng thời
gian nhất định nhằm mục đích thu về một lượng giá trị lớn hơn”.
Vốn bỏ ra trong kinh doanh có thể dưới nhiều hình thức sau:
 Tiền tệ

 Các loại tài sản hữu hình: máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất, bất động sản, tài
nguyên, nhà xưởng, máy móc thiết bị…
 Các loại tài sản vô hình: bằng phát minh – sáng chế, nhãn hiệu, uy tín, thương
hiệu, biểu tượng, bí quyết công nghệ …
 Các dạng vốn đầu tư đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, vàng bạc đá
quý… (cổ phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ nhằm mục đích tham gia
trực tiếp vào họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vẫn được
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
3

xem là đầu tư trực tiếp nước ngòai, các truờng hợp năm giữ cổ phiếu khác là
đầu tư gián tiếp)
1.1.2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI (Foreign Direct Investment) đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi hình thức
này mới xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra một khái niệm
tổng quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác
nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đưa ra định nghĩa như sau: Đầu tư trực tiếp
nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản
ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện
quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường
hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong trường hợp đó nhà đầu tư thường hay đươc gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được
gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Trong cuốn cẩm nang thanh toán, xuất bản lần thứ 5 năm 1993, Quỹ tiền tệ quốc tế
IMF (International Monetary Fund) định nghĩa “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc
tế mà một đơn vị cư trú của một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) đầu tư vào một đơn vị

cư trú của một nền kinh tế khác (xí nghiệp đầu tư trực tiếp) với mục đích thu được lợi ích
lâu dài từ hoạt động đầu tư này”.
Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 ) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di
chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó
những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ”.
Theo tác giả Trần Ngọc Thơ trong cuốn sách tài chính quốc tế thì “ Đầu tư trực tiếp
nước ngoài xảy ra khi công dân của một nước (nước đầu tư) nắn giữ quyền kiểm soát các
họat động kinh tế ở một nước khác (nước tiếp nhận đầu tư). Các công ty nắm quyền kiểm
soát hoạt động ở nhiều quốc gia được xem như các công ty đa quốc gia, các công ty
xuyên quốc gia hay các công ty toàn cầu. Sự phát triển họat động của các công ty này
chính là động lực thúc đẩy sự phát triển trong thương mại quốc tế thông qua hình thức
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
4

đầu tư trực tiếp và các quốc gia khác trên thế giới” (Trang 379, chương 18, PGS.TS Trần
Ngọc Thơ và PGS.TS Nguyễn Ngọc định, Tài chính quốc tế, khoa tài chính doanh nghiệp
trường Đại học kinh tế Tp.HCM)

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1997 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp
nước ngòai là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước
ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài theo quy định của luật này”.
Luật đầu tư 2005 không có định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng
theo khoản 2 và khỏan 12 điều 3 định nghĩa:
 “ Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư”.

 “Đầu tư nước ngoài là việt nhà đầu tư nước ngòai đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành họat động đầu tư”.
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở
hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối
đa hóa lợi ích cho mình”. Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân
tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI đó là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm
vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào họat động sử dụng
vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Khác với đầu tư gián tiếp nứơc ngòai ( Oficial Deverlopment Assistance – ODA
nguồn tài trợ chính thức chủ yếu) thì đầu tư trực tiếp nứơc ngoài có những đặc trưng sau:
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ dựa vào vốn nước tiếp nhận đầu tư mà
bên cạnh đó còn có cả công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh, năng lực
quảng bá, xây dựng hình ảnh, thương hiệu, kinh nghiệm quản lý…
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
5

 Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài không làm gia tăng nợ cho nước
tiếp nhận mà còn tạo điều kiện để nước đó tiếp nhận đầu tư phát huy tiềm
năng kinh tế.
1.2. Hiệu quả và phân loại hiệu quả
1.2.1. Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả là phép so sánh dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục
tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều
kiện nhất định.
Theo từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa "Hiệu quả là kết quả đạt được trong việc

thực hiện một nhiệm vụ nhất định" (Từ điển Lepetit Lasousse, 1999, Paris.tr.57)
Ký hiệu:
K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu
C là chi phí bỏ ra
E là hiệu quả
Công thức tính:
Hiệu quả tuyệt đối: E = K - C
Hiệu quả tương đối: E = K/C
1.2.2. Phân loại
 Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội
Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất - kinh doanh hay hiệu quả
doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính
phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế.
Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả KT-XH là hiệu quả tổng hợp
được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể của hiệu quả KT-XH là toàn bộ xã
hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét
trong hiệu quả KT-XH xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
 Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
6

Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án, một doanh
nghiệp (một đối tượng).
Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho đối tượng khác.
Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt các dự án khác.
Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiệu quả của các dự án khác là

hiệu quả gián tiếp.
 Hiệu quả trƣớc mắt và hiệu quả lâu dài :
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong những khoảng thời gian dài hay ngắn
Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích
được xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời. Việc nhập
những thiết bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiền có thể mang lại hiệu quả trước mắt
nhưng về lâu dài không hẳn là như vậy.
Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài. Việc bỏ tiền
mua bảo hiểm có thể lợi ích trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài,
nó cho phép san bớt những rủi ro nhờ nhiều người mua bảo hiểm.
1.3. Lý do đầu tƣ và tiếp nhận đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Trong thời đại và bối cảnh thế giới hiện nay, trên cơ sở đem lại lợi ích cho cả hai
bên, vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt
động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Bài viết này chủ yếu đề
cập tới vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển khi ở vị trí
của nước nhận đầu tư và các nước phát triển cũng như đang phát triển khi ở vị trí nước
đầu tư.
1.3.1. Đối với nước đi đầu tư
Thứ nhất, nước đi đầu tư có thể tận dụng được lợi thế so sánh của nước nhận đầu
tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu
hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Bằng đầu tư ra nước
ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao
động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp bởi các nước nhận đầu tư là các
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
7

nước đang phát triển, thường có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng do có hạn chế về

vốn và công nghệ nên chưa được khai thác, tiềm năng còn rất lớn) để hạ giá thành sản
phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước
nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Thứ hai, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ.
Thông qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần
các sản phẩm công nghiệp (phần lớn là các máy móc thiết bị) ở giai đoạn cuối của chu kỳ
sống của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như là sản phẩm mới ở
các nước này hoặc ít ra cũng như các sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường nước nhận
đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi
nhuận cho các nhà đầu tư. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật như ngày
nay thì bất cứ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trường
tiêu thụ công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ,
kỹ thuật mới.
Thứ ba, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư có thể mở rộng thị
trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản
phẩm là máy móc thiết bị sang đây (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các
nước khác (do chính sách ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có
vốn đầu tư nước ngoài), nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh
với hàng nhập từ các nước.
Thứ tƣ, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khuyến khích xuất khẩu của nước đi đầu tư.
Cùng với việc đem vốn đi đầu tư sản xuất ở các nước khác và nhập khẩu sản phẩm đó về
nước với một số lượng lớn sẽ làm cho đồng nội tệ tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá
hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ có xu hướng giảm dần. Sự giảm tỷ giá hối
đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất trong nước tăng cường xuất khẩu,
nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
Chương 1:
Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài


Đỗ Thành Trung. Chỉ share ở
8

Thứ nhất, FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt
vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Đối với các nước
đang phát triển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước ngoài sẽ vừa tác động đến
tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt cầu, vì đầu tư là một bộ
phận lớn và hay thay đổi chủ chi tiêu nên những thay đổi bất thường về đầu tư có ảnh
hưởng lớn đến sản lượng và thu nhập về mặt ngắn hạn. Về mặt cung, khi thành quả của
đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng
cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm
giảm xuống. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến
lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng
tích lũy, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống
cho mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai, đầu tư sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các nước đang phát
triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng cảu nền
kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành
nguồn đầu tư quan trọng của quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo
công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần
hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một
số địa phương đất kém màu mỡ. Điều này giúp cho các nước đang phát triển nâng cao
được năng lực cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới trong việc tiếp
tục thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán,
do khoản mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư trực tiếp nước ngoài thường hoạt động
trong các lĩnh vực xuất khẩu do đó giảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ từ hoạt động của
doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Do vậy sẽ làm cán cân thanh toán dịch chuyển theo chiều
thăng dư. Hầu hết các nước đang phát triển ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh
toán.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×