Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.53 KB, 15 trang )



LỜI NĨI ĐẦU

Sự kết thúc của cục diện thế giới hai cực thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng đa
phương, đa dạng hố quan hệ quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức
mạnh tổng hợp từng quốc gia và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ
quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, khơng có nghĩa đã hết khả năng
xảy ra căng thẳng mới, rối loạn hoặc xung đột cục bộ. Thêm vào đó là những vấn
đề tồn cầu trở nên gay gắt.
Từ năm 1986, trước u cầu bức bách của tình hình trong nước (khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, mục tiêu tổng thể của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 thất bại; lòng
tin của nhân dân giảm sút; những khó khăn bên trong do vấn đề Campuchia và hậu
quả của cuộc chiến tranh biên giới năm 1979) và sự phát triển mới của tình hình
quốc tế (thuận lợi: xu thế hồ hỗn Đơng - Tây; xu thế tồn cầu hố và cạnh tranh
kinh tế trong QHQT; khu vực châu Á - TBD phát triển năng động nhất thế giới;
vấn đề Campuchia đang từng bước được giải quyết bằng thương lượng chính trị; và
khó khăn: Mỹ và phương Tây tiếp tục duy trì bao vây, cấm vận đối với VN; cải tổ
và sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đơng Âu và Liên Xơ), Đảng ta từng bước xây
dựng CSĐN mới.
Q trình đổi mới tư duy đối ngoại được thể hiện qua các Văn kiện, Nghị
quyết sau:
- N/Q 32/BCT khố V (7/1986)
- Đại hội VI (12/1986)
- N/Q 13/BCT khố VI (20/5/1988)
- N/Q TW 6 khố VI (3/1989)
- Đại hội VII (6/1991)
- N/Q TW 3 khố VII (6/1992)
- Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1/1994)
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN



- Đại hội VIII (6/1996)
- Đại hội IX (4/2001)
- N/Q 07/BCT ngày 27/11/2001 của BCT
- N/Q TW 8 khố IX (8/2003)
- Đai hội X (4/2006 ).
Nội dung đổi mới tư duy đối ngoại nhằm vào các vấn đề sau:
 Đổi mới nhận thức về đặc điểm, mâu thuẫn, xu thế phát triển của thế
giới.
 Đổi mới quan điểm về các vấn đề an ninh và phát triển, dân tộc và giai
cấp, về tập hợp lực lượng.
 Đổi mới về đường lối, chính sách, tư tưởng chỉ đạo, phương châm
hoạt động đối ngoại.





1. Đổi mới nhận thức về đặc điểm, mâu thuẫn, xu thế phát triển của thế giới:
Về tính chất thời đại, trong Cương lĩnh được thơng qua tại Đại hội VII, Đảng ta
khẳng định: "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, lồi người
cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hố của XH". Đại hội
VIII lại khẳng định: "Sau những biến cố chính trị ở Liên Xơ và Đơng Âu, CNXH
tạm thời lâm vào thối trào, nhưng điều đó khơng làm thay đổi tính chất của thời
đại; lồi người vẫn đang trong thời đại q độ từ CNTB lên CNXH". Tới Đại hội
IX, luận điểm "theo quy luật tiến hố của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới
CNXH" lại được nhấn mạnh một lần nữa.
Về mâu thuẫn thời đại, Cương lĩnh 1991 có nhiều điểm mới. Một là, thay vì
nêu mâu thuẫn giữa "phe XHCN và phe đế quốc chủ nghĩa" như trước đây, Cương
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN



lĩnh đề cập mâu thuẫn "giữa CNXH và CNTB đang diễn ra gay gắt". Hai là, khi đề
cập mâu thuẫn giai cấp trong lòng các nước tư bản phát triển, trước đây chỉ đề cập
mâu thuẫn "giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp tư sản", Cương lĩnh vạch rõ "mâu
thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính XH hố ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng sâu sắc", đồng thời chỉ ra mâu
thuẫn "giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đồn tư
bản độc quyền, các cơng ty xun quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát
triển". Ba là, do hệ thống thuộc địa đã tan rã, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã
được độc lập ở mức độ khác nhau nên thay vì nêu "mâu thuẫn giữa các dân tộc bị
áp bức với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân" như trước đây, nay Đảng ta nêu
lên "mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển tăng
lên". Bốn là, nếu như trước đây nhấn mạnh "hệ thống XHCN đang trở thành nhân
tố quyết định sự phát triển của xã hội lồi người", thì nay Đảng ta chỉ rõ "chính sự
vận động của tất cả các mâu thuẫn đó và sự đấu tranh của nhân dân lao động các
nước sẽ quyết định số phận của CNTB". Năm là, nay khơng còn xếp loại "mâu
thuẫn cơ bản", "mâu thuẫn chủ yếu" như trước đây, vì mỗi loại mâu thuẫn có vai
trò và phạm vi tác động của nó, giữa chúng khơng có khoảng cách, mà đan xen
nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Về chiến tranh và hồ bình, nếu như NQTW 9 khố III còn nêu "nhân dân các
nước đứng trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới", thậm chí Đại hội
VI vẫn đánh giá rằng, chưa bao giờ nguy cơ chiến tranh hạt nhân lại lớn như hiện
nay, thì Đại hội VIII đã nêu nhận định "nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy
lùi" và đến Đại hội IX, Đảng ta nói rõ thêm "trong vài thập kỷ tới ít có khả năng
xảy ra chiến tranh thế giới". Cách tiếp cận mới về mặt này bắt nguồn từ sự đánh giá
rằng "hồ bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới" (Đại hội VIII) được khẳng định
lại tại Đại hội IX "hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc".

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


Về cách mạng khoa học - cơng nghệ và q trình tồn cầu hóa. Tới Đại hội IV
(1976), cách mạng khoa học - kỹ thuật đã được coi là "then chốt" trong ba cuộc
cách mạng (bên cạnh quan hệ sản xuất và tư tưởng - văn hố). Và trong Cương lĩnh
được thơng qua tại Đại hội VII đã nhận định rằng "cuộc cách mạng khoa học và
cơng nghệ hiện đại đang diễn ra một cách mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở
mức độ khác nhau". Các Đại hội VIII và IX của Đảng đều khẳng định những nhận
định nêu trên, đặc biệt trong Văn kiện Đại hội IX có 2 nét mới là: Đã đánh giá
"kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng
sản xuất; thay vì nêu khái niệm "quốc tế hố" đã nhấn mạnh một khái niệm rộng
hơn về phạm vi và sâu hơn về nội dung là: "tồn cầu hố kinh tế là một xu thế
khách quan lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đồn kinh tế tư bản xun quốc gia chi phối, chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có
đấu tranh".

2. Đổi mới quan điểm về các vấn đề an ninh và phát triển, dân tộc và giai cấp,
về tập hợp lực lượng:
Tháng 7 năm 1986, Bộ Chính trị khố V của Đảng đã ra Nghị quyết 32, điều
chỉnh bước đầu CSĐN của VN. Nghị quyết nhấn mạnh cần chủ động chuyển sang
thời kỳ cùng tồn tại hồ bình, góp phần xây dựng Đơng Nam Á thành một khu vực
hồ bình, ổn định và hợp tác... Từ đó, Đại hội VI đã đề ra chính sách "Ra sức kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ những điều kiện quốc tế
thuận lợi để xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, chủ động tạo thế ổn định để tập
trung xây dựng kinh tế". Tuy nhiên, những nghị quyết này chưa đổi mới chính sách
tập hợp lực lượng do đó chưa làm chuyển động mạnh quan hệ đối ngoại của nước
ta.
Ngày 20 tháng Năm 1988, BCT khố VI ra NQ 13 với chủ đề "Giữ vững hồ

bình, phát triển kinh tế", đã đổi mới chiến lược đối ngoại: đổi mới tư duy, mục tiêu
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


cơng tác đối ngoại, phương thức đấu tranh và chính sách tập hợp lực lượng, thay
đổi hẳn quan điểm về bạn-thù, từ đó đưa ra chính sách đối ngoại đổi mới.
Nghị quyết 13 đã chuyển từ coi trọng an ninh sang coi trọng phát triển và mở
rộng quan hệ quốc tế: "Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ
mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có khả năng
giữ vững độc lập và xây dựng thành cơng CNXH hơn". Nghị quyết đã xác định lại
mục tiêu của cơng tác đối ngoại của nước ta: "Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân
dân ta sau khi giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất, đi lên CNXH là phải
củng cố và giữ vững hồ bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế."
Nghị quyết đã nêu phương thức đấu tranh mới: "Chủ động chuyển cuộc đấu tranh
từ trạng thái đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hồ
bình" với tất cả các đối tác chính. Nghị quyết đã đánh giá lại quan hệ bạn-thù: đã
"vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và kết hợp chủ nghĩa quốc tế chân chính với chủ
nghĩa u nước trong sáng trong tình hình mới", từ đó bỏ chủ trương "làm nghĩa vụ
quốc tế có tầm quan trọng chiến lược", khơng còn coi nước nào là "hòn đá tảng",
"đối lập" hay "kẻ thù trực tiếp", "kẻ thù cơ bản, lâu dài" của nước ta nữa, do đó đã
tạo bước ngoặt trong việc thực hiện chính sách đối ngoại mới: Đổi mới quan hệ với
Liên Xơ và các nước anh em Lào và Campuchia, chủ động tạo điều kiện để bình
thường hố quan hệ với Trung Quốc XHCN, thúc đẩy xây dựng khu vực Đơng
Nam Á hồ bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác, tranh thủ Mỹ và từng bước mở rộng
quan hệ với các nước phương Tây.
Để đảm bảo cơng cuộc đổi mới đúng hướng và thành cơng, Hội nghị TW lần 6,
tháng Ba 1989, tiến hành kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và
đề ra những quan điểm và ngun tắc chỉ đạo cơng cuộc đổi mới. Nghị quyết của
Hội nghị nhấn mạnh đổi mới khơng phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho
mục tiêu ấy được thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp,

bước đi thích hợp; đồng thời phải tiếp tục kết hợp chủ nghĩa u nước với chủ
nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


Đại hội tồn quốc lần thứ VII của Đảng, tháng Sáu 1991, đã xác định nhiệm vụ
đối ngoại là giữ vững hồ bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Từ phương châm "thêm bạn, bớt thù" của Nghị quyết 13,
Đảng ta đã nâng thành phương châm: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển''. Đại hội và
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ q độ lên CNXH đề ra chính sách
"đa phương hố, đa dạng hố quan hệ đối ngoại", hợp tác bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở
các ngun tắc cùng tồn tại hồ bình.
Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới khơng còn lấy ý thức hệ làm tiêu chí
chính trong tập hợp lực lượng, khơng còn đứng theo hai phe, hai cực nữa. Các nước
đều xem xét, điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Tuy nước ta cơ bản đã
chuyển sang hình thái cùng tồn tại hồ bình với các đối tác chính, nhưng với việc
Liên Xơ-Đơng Âu sụp đổ, nước ta lại mất các đối tác quan trọng, mất nguồn viện
trợ và thị trường chính, do đó cần thời gian để tìm các đối tác mới và hình thành
đường lối đối ngoại trong bối cảnh mới. Qn triệt tinh thần Chiến lược đối ngoại
mới của Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, từ Nghị quyết TW 3 khố VII (6-1992)
Đảng ta đã từng bước xây dựng và hồn thiện đường lối đối ngoại sau Chiến tranh
lạnh. Nghị quyết đề ra tư tưởng chỉ đạo "giữ vững ngun tắc vì độc lập, thống nhất
và CNXH đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt" và nêu bốn phương
châm để xử lý quan hệ đối ngoại trong tình hình mới, từ đó Đảng ta đã từng bước
nâng cao lên thành đường lối, chính sách.
- "Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa u

nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân". Lúc này cách mạng thế giới
lâm vào thối trào, việc nước ta vượt qua mọi thử thách để tìm đường xây dựng
thành cơng CNXH ở nước ta chính là làm nghĩa vụ quốc tế một cách thiết thực.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

×