Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Giải Phẫu Thận Và Tuyến Thượng Thận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.82 KB, 10 trang )

Giải Phẫu Thận Và Tuyến
Thượng Thận
Mục tiêu bài giảng
1. Mô tả được vị trí, kích thước, hình thể ngoài, hình thể trong và liên quan của
thận.
2. Mô tả được động mạch của thận. Kể tên các phân thuỳ của thận.
3. Nắm được cấu tạo của tuyến thượng thận.

I. Thận
Thận là một cơ quan chẵn, có một số chức năng:
Ngoại tiết:
- Thải chất độc trong cơ thể qua nước tiểu.
- Duy trì thăng bằng nước điện giải.
Nội tiết:
- Tiết Renin điều chỉnh huyết áp.
- Tiết Erythropoietin kích thích tủy xương tạo hồng cầu.
1. Hình thể ngoài
Thận nằm sau phúc mạc, trong góc xương sườn XI và cột sống thắt lưng, ngay
trước cơ thắt lưng, trên mặt phẳng phân giác của của góc tạo bởi mặt phẳng đứng
dọc giữa và mặt phẳng đứng ngang. Thận phải thấp hơn thận trái khoảng 2 cm.

Hình 6. 1. Thận và tuyến thượng thận
1. Cực dưới 2. Bờ ngoài 3. Cực trên 4. Tuyến thượng thận
5. Động mạch thận 6. Tĩnh mạch thận 7. Niệu quản

Thận có hình hạt đậu, màu nâu đỏ, bề mặt trơn láng, được bọc trong một bao xơ.
Thận có hai mặt: Mặt trước: lồi, nhìn ra trước và ra ngoài; mặt sau: phẳng nhìn ra
sau và vào trong.
Thận có hai bờ: bờ ngoài: lồi, bờ trong: lồi ở phần trên và dưới, lõm ở giữa gọi là
rốn thận là nơi động mạch tĩnh mạch, niệu quản đi qua.
Thận có hai đầu: đầu trên và đầu dưới.


Trục lớn là đường nối hai đầu, chếch từ trên xuống dưới, ra ngoài và ra sau.
Mỗi thận nặng 150 gram, cao 12 cm, rộng 6 cm, dày 3 cm. Trên phim X quang,
mỗi thận cao bằng 3 thân đốt sống.
2. Hình chiếu
- Phía trước:
+ Thận trái: rốn thận ngang mức môn vị, cách đường giữa 4 cm. Cực dưới nằm
trên đường ngang qua 2 bờ sườn.
+ Thận phải: rốn và cực dưới hơi thấp hơn phần này.
- Phía sau:
+ Thận trái: rốn thận ngang mức mõm ngang đốt sống L
1
. Cực trên: ngang bờ trên
xương sườn XI. Cực dưới: cách điểm cao nhất của mào chậu 5cm.
+ Thận phải: Cực trên ngang bờ dưới xương sườn XI. Cực dưới cách mào chậu
3cm.
3. Mạc thận
Thận và tuyến thượng thận cùng bên được bao bọc trong một mạc gọi là mạc thận,
có một trẻ ngang ngăn cách hai cơ quan này.
Mạc thận có hai lá trước và sau:
-Phía trên hai lá nhập lại và hoà vào mạc của cơ hoành.
-Phía dưới, hai lá thường không hợp lại mà hoà lẫn vào lớp mô ngoài phúc mạc.
-Phía ngoài, hai lá chập vào nhau.
-Phía trong, lá sau hoà vào mạc cơ thắt lưng rồi đến bám vào thân các đốt sống thắt
lưng, lá trước mạc thận đi trước và dính vào các mạch máu lớn rồi hoà và lá trước
bên đối diện, nhờ thế mà hai ổ thận không thông với nhau.
Mạc thận ngăn cách với bao xơ thận bởi bao mỡ gọi là mỡ quanh thận.
Phía ngoài mạc thận có một lớp mỡ khác gọi là mỡ cạnh thận.
4. Liên quan
4.1. Phía trước
4.1.1. Thận phải

Ở sau phúc mạc, gần như nằm trên rễ mạc treo kết tràng ngang.
- Đầu trên và phần trên båì trong: liên quan với tuyến thượng thận phải.
- Bờ trong và cuống thận: liên quan phần xuống của tá tràng.
- Mặt trước: liên quan phần lớn với vùng gan ngoài phúc mạc. Phần còn lại liên
quan với góc kết tràng phải và ruột non.
4.1.2. Thận trái
Ở phía sau phúc mạc có rễ mạc treo kết tràng ngang bắt chéo phía trước.
- Đầu trên và phần trên bờ trong: liên quan với tuyến thượng thận trái.
- Phần dưới: liên quan với dạ dày qua túi mạc nối, tụy tạng và lách, góc kết tràng
trái, phần trên kết tràng trái và ruột non.

Hình 6. 2. Liên quan trước của thận
1. Tuyến thượng thận phải 2. Tá tràng 3. Thận phải
4. TM chủ dưới 5. Tuyến thượng thận trái 6. Đuôi tụy 7. TM cửa

4.2. Phía sau
Xương sườn XII nằm chắn ngang ở phía sau chia liên quan sau của thận thành hai
tầng: ngực và thắt lưng.
- Tầng ngực: liên quan với xương sườn XI, XII, cơ hoành, ngách sườn hoành của
màng phổi.
- Tầng thắt lưng: từ trong ra ngoài liên quan với cơ thắt lưng, cơ vuông thắt lưng
và cơ ngang bụng




Hình 6. 3. Liên quan của mặt sau thận
1. Tĩnh mạch chủ dưới 2. Động mạch chủ bụng 3. Tầng ngực 4. Cơ ngang bụng
5. Cơ vuông thắt lưng 6. Cơ thắt lưng 7. Niệu quản
5. Hình thể trong

5.1. Đại thể
Trên thiết đồ cắt ngang thận:
Thận được bọc trong một bao sợi, ở giữa là xoang thận, có mạch máu thần kinh,
bể thận đi qua và được làm đầy bởi tổ chức mỡ, bao quanh là nhu mô thận có hình
bán nguyệt.
5.1.1. Xoang thận
Xoang thận thông ra ngoài rốn thận. Thành xoang có nhiều chỗ lồi lõm.
- Chỗ lồi có hình nón gọi là nhú thận. Đầu nhú có nhiều lỗ của các ống sinh niệu
đổ nước tiểu vào đài thận nhoí úp vào nhú thận. Có 7 - 14 đài thận nhỏ. Các đài
thận nhỏ họp thành 2 - 3 đài thận lớn. Các đài thận lớn tạo thành bể thận.
5.1.2. Nhu mô thận
Gồm có hai phần:
- Tuỷ thận
Tuỷ thận được cấu tạo bởi nhiều khối hình nón gọi là tháp thận, đáy tháp quay về
phía bao thận, đỉnh hướng về xoang thận tạo nên nhú thận. Ở phần giữa của thận, 2
- 3 tháp chung một nhú thận, ở phần hai đầu thận, có khi 6 - 7 tháp chung nhau 1
nhú.

Hình 6. 4. Hình thể trong của thận
1. Bao sợi 2. Vỏ thận 3. Tháp thận 4. Đài thận lớn 5. Bể thận 6. Cột thận 7.
Niệu quản

-Vỏ thận
Vỏ thận là phần nhu mô bao quanh các tháp thận, gồm:
+ Cột thận: nằm giữa các tháp thận.
+ Tiểu thuỳ vỏ: từ đáy tháp đến bao sợi. Tiểu thuỳ vỏ có 2 phần:
Phần tia: các khối hình tháp nhỏ, đáy nằm trên tháp thận, đỉnh hướng ra bao sợi.
Phần lượn: là phần nhu mô xen lẫn giữa các phần tia.
5.2. Vi thể
Dưới kính hiển vi, thận được cấu tạo gồm các đơn vị thận, mỗi đơn vị thận gồm:

5.2.1. Tiểu thể thận
Tiểu thể thận có hai phần: một bao ở ngoài bọc xung quanh một cuộn mao mạch.
5.2.2. Hệ thống ống sinh niệu
Gồm ống lượn gần, quai Henlé, ống lượn xa, ống thu thập.
Tiểu thể thận, ống lượn gần, ống lượn xa nằm trong phần lượn.
Quai Henlé, ống thu thập nằm trong phần tia của vỏ thận và tuỷ thận.
6. Mạch máu - thần kinh
6.1. Động mạch
Động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ bụng ngang mức L
1
, dưới động mạch
mạc treo tràng trên, nằm sau tĩnh mạch thận, động mạch thận phải dài hơn động
mạch trái. Tới gần rốn thận mỗi động mạch chia 2 ngành: ngành trước và ngành
sau, rồi chia thành 5 nhánh nhỏ vào xoang thận: 1 nhánh đi sau, 4 nhánh đi trước
bể thận. Một nhánh cung cấp máu cho một vùng thận gọi là phân thuỳ thận.
Thận được chia làm 5 phân thuỳ: phân thùy trên, phân thùy dưới, phân thùy trước
trên, phân thùy trước dưới và phân thùy sau.
Các nhánh trước cung cấp cho một khu rộng hơn nhánh sau. Ở giữa hai khu, có
một vùng vô mạch gọi là đường Hyrtl, đường này nằm ở mặt sau, song song và
cách bờ ngoài của thận 1 cm.





Hình 6. 5. Động mạch thận
1. Động mạch thận 2. Các động mạch phân thuỳ thận 3. Động mạch niệu quản
4. Động mạch gian thuỳ 5. Động mạch cung
Trong xoang thận, động mạch thận chia ra các động mạch gian thuỳ đi vào cột
thận, đến đáy tháp thận chia ra các động mạch cung nằm trên đáy tháp rồi lại chia

ra động mạch gian tiểu thùy chạy ra vùng vỏ và các tiểu động mạch thẳng chạy vào
vùng tủy.
Động mạch gian tiểu thùy đi về phía vỏ thận để cho ra các động mạch nhập đi vào
tiểu thể thận tạo nên một cuộn mao mạch nằm gọn trong bao của tiểu thể thận rồi
đi ra khỏi bao bởi nhánh động mạch xuất, sau đó lại chia thành một mạng lưới mao
mạch bao xung quanh hệ thống sinh niệu.
Ngành bên của động mạch thận gồm:
- Động mạch thượng thận dưới.
- Động mạch niệu quản.
Ngành nối: các động mạch thận không thông với nhau ở trong thận, nhưng ở ngoài
thận thì nối với các động mạch lân cận nằm trong lớp mỡ quanh thận như động
mạch hoành dưới, động mạch sinh dục và động mạch kết tràng.
6.2. Tĩnh mạch
Bắt nguồn từ mạch máu ở vỏ thận và tuỷ thận.
- Ở vỏ thận bắt nguồn từ các tiểu tĩnh mạch hình sao rồi đổ về tiểu tĩnh mạch gian
tiểu thuỳ.
- Ở tuỷ thận bắt nguồn từ các tiểu tĩnh mạch thẳng.
Cả 2 vùng đều đổ về các tĩnh mạch cung rồi về tĩnh mạch gian thuỳ, sau đó hợp lại
thành tĩnh mạch thận để đổ về tĩnh mạch chủ dưới.
6.3. Bạch mạch
Bạch huyết đổ về các hạch bạch huyết quanh cuống thận.
6.4. Thần kinh
- Thần kinh vận mạch: Từ đám rối thận thuộc hệ tự chủ đi theo động mạch thận.
- Thần kinh cảm giác đau chủ yếu ở bể thận đi vào tủy gai qua các dây thần kinh
tạng.
II. Tuyến thượng thận
Có 2 tuyến thượng thận phải và trái nằm ở cực trên và dọc phần trên bờ trong của 2
thận, ở trong một ngăn riêng của mạc thận. Có màu xám vàng, lúc trưởng thành
cân nặng khoảng 3-6g. Ngoài hai tuyến bình thường, đôi khi còn có tuyến thượng
thận phụ nằm ở trong bụng hay trong vùng chậu.

1. Hình thể ngoài và liên quan
1.1. Tuyến thượng thận phải
Tuyến thượng thận phải có hình tháp gồm 3 mặt
- Mặt trước: liên quan với tĩnh mạch chủ dưới và vùng trần của gan. Có rốn thượng
thận để tĩnh mạch thượng thận đi ra.
- Mặt sau: cong, lồi liên quan với cơ hoành.
- Mặt thận: liên quan với cực trên thận phải.
1.2. Tuyến thượng thận trái
Tuyến thượng thận trái có hình bán nguyệt gồm 3 mặt:
- Mặt trước: phần trên liên quan với dạ dày, phần dưới liên quan với tuỵ và lách. Ở
gần cực dưới có rốn thượng thận để tĩnh mạch thượng thận dưới đi qua.
- Mặt sau: liên quan với cơ hoành.
- Mặt thận: liên quan với cực trên thận trái.
2. Hình thể trong
Bổ dọc tuyến thượng thận ta thấy có ba vùng:
- Vùng vỏ ở bên ngoài, màu vàng, có cấu tạo tuyến được cấu tạo bởi 3 lớp: lớp cầu
tiết ra aldosterone, lớp bó tiết ra các steroit, lớp lưới trong cùng tiết ra androgen .
- Vùng tuỷ ở bên trong có màu nâu đỏ, mang bản chất thần kinh, được cấu tạo bởi
các tế bào xếp thành lưới, tiết ra épinéphrine và norépinéphrine, có tác dụng như
những chất hóa học tiết từ đầu tận cùng của các thần kinh giao cảm.
3. Mạch máu và thần kinh
Tuyến thượng thận được nuôi dưỡng bởi các động mạch:
- Động mạch thượng thận trên: phát xuất từ động mạch hoành dưới.
- Động mạch thượng thận giữa: phát xuất từ động mạch chủ.
- Động mạch thượng thận dưới: phát xuất từ động mạch thận
Máu tĩnh mạch tuyến thượng thận phần lớn đổ về tĩnh mạch trung tâm tuyến
thượng thận sau đó đổ về tĩnh mạch chủ dưới, ở bên trái đổ về tĩnh mạch thận trái
trước khi về tĩnh mạch chủ dưới.
Bạch mạch của tuyến thượng thận đổ về các bạch huyết lân cận.
Thần kinh của tuyến thượng thận đến từ đám rối tạng và đám rối thận.

- See more at: />than#sthash.qOp8GuS8.dpuf

×