Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Nghiên cứu khoa học - Đề tài về Định hướng ngành học của học sinh lớp 12 tại các trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 116 trang )

MỤC LỤC
1.1. Cơ sở lý luận 10
1.2. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng ngành học: 18
1.2.1. Các nhân tố chủ quan: 18
1.2.2. Các nhân tố khách quan: 19
1.3. Phương pháp thống kê nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến
định hướng ngành học của học sinh lớp 12 22
1.3.1. Phương pháp bảng, đồ thị 22
1.3.2. Phân tổ thống kê 23
1.3.3. Kiểm định Chi- bình phương: 23
1.3.4. Phương pháp phân tích phương sai một yếu tố ( One-Way
ANOVA): 25
1.3.5. Phương pháp hệ số Cronbach Alpha và hệ số tươngquanvới biến
tổng: 26
Hệ số Cronbach Alpha được tính theo công thức: 26
Anpha = 26
Trong đó: N là số mẫu 26
p là hệ số tương quan trung bình giữa các câu hỏi 26
Hệ số Cronbach Alpha dùng để đánh giá mức độ khác nhau của các câu
hỏi trong một Factors (nhân tố). Nếu như hệ số Cronbach Alpha đạt từ
0.6 trở lên thì thang đo được chấp nhận 26
Hệ số tương quan với biến tổng là hệ số tương quan của một biến với
điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do đó hệ số
này càng cao thì sự tương quan của các biến với các biến khác trong
nhóm càng cao. Và hệ số tương quan với biến tổng phải lớn hơn 0.3.
Theo Nunally & Burnstein (1994) thì các biến có hệ số tương quan với
biến tổng nhỏ hơn 0.3 được xem là biến rác và đương nhiên là loại bỏ
khỏi thang đo 26
1.3.6. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA : 26
Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA là tên chung của một
nhóm các thủ tục được sử dụng chủ yếu để thu nhỏ và tóm tắt các dữ liệu.


Trong nghiên cứu, ta có thể thu thập được một số lượng biến khá lớn và
2
hầu hết các biến này có liên hệ với nhau và số lượng của chúng phải
được giảm bớt xuống đến một số lượng mà chúng ta có thể sử dụng được.
26
Mô hình nhân tố: Giả sử phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA
rút ra được i nhân tố. Ta có: 27
Fi = Wi1.X1 + Wi2.X2 + Wi3.X3 + … + Win.Xn 27
Trong đó: Fi là ước lượng trị số của nhân tố thứ i 27
Wik là quyền số hay trọng số nhân tố của biến số thứ k đến nhân tố thứ i
27
k = là số biến 27
Điều kiện để áp dụng phương pháp này là các biến phải có tương quan
với nhau 27
2.1. Thiết kế phương án điều tra thu thập thông tin 28
2.1.1. Mục đích cuộc điều tra 28
2.1.2. Đối tượng, đơn vị và phạm vi điều tra 28
2.1.3. Nội dung điều tra 29
2.2. Phương pháp nhập và xử lý số liệu 35
2.2.1. Đóng các câu hỏi mở và câu hỏi nửa đóng 35
2.2.2. Thang đo, thang điểm của các câu hỏi và mã hóa dữ liệu: 35
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HS Học sinh
THPT Trung học phổ thông
ĐH Đại học
CĐ Cao đẳng
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
TCN Trung cấp nghề
DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG
1.1. Cơ sở lý luận 10
1.2. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng ngành học: 18
1.2.1. Các nhân tố chủ quan: 18
1.2.2. Các nhân tố khách quan: 19
1.3. Phương pháp thống kê nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến
định hướng ngành học của học sinh lớp 12 22
1.3.1. Phương pháp bảng, đồ thị 22
1.3.2. Phân tổ thống kê 23
1.3.3. Kiểm định Chi- bình phương: 23
1.3.4. Phương pháp phân tích phương sai một yếu tố ( One-Way
ANOVA): 25
1.3.5. Phương pháp hệ số Cronbach Alpha và hệ số tươngquanvới biến
tổng: 26
Hệ số Cronbach Alpha được tính theo công thức: 26
Anpha = 26
Trong đó: N là số mẫu 26
p là hệ số tương quan trung bình giữa các câu hỏi 26
Hệ số Cronbach Alpha dùng để đánh giá mức độ khác nhau của các câu
hỏi trong một Factors (nhân tố). Nếu như hệ số Cronbach Alpha đạt từ
0.6 trở lên thì thang đo được chấp nhận 26
Hệ số tương quan với biến tổng là hệ số tương quan của một biến với
điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do đó hệ số
này càng cao thì sự tương quan của các biến với các biến khác trong
nhóm càng cao. Và hệ số tương quan với biến tổng phải lớn hơn 0.3.
Theo Nunally & Burnstein (1994) thì các biến có hệ số tương quan với
biến tổng nhỏ hơn 0.3 được xem là biến rác và đương nhiên là loại bỏ
khỏi thang đo 26
1.3.6. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA : 26
5

Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA là tên chung của một
nhóm các thủ tục được sử dụng chủ yếu để thu nhỏ và tóm tắt các dữ liệu.
Trong nghiên cứu, ta có thể thu thập được một số lượng biến khá lớn và
hầu hết các biến này có liên hệ với nhau và số lượng của chúng phải
được giảm bớt xuống đến một số lượng mà chúng ta có thể sử dụng được.
26
Mô hình nhân tố: Giả sử phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA
rút ra được i nhân tố. Ta có: 27
Fi = Wi1.X1 + Wi2.X2 + Wi3.X3 + … + Win.Xn 27
Trong đó: Fi là ước lượng trị số của nhân tố thứ i 27
Wik là quyền số hay trọng số nhân tố của biến số thứ k đến nhân tố thứ i
27
k = là số biến 27
Điều kiện để áp dụng phương pháp này là các biến phải có tương quan
với nhau 27
2.1. Thiết kế phương án điều tra thu thập thông tin 28
2.1. Thiết kế phương án điều tra thu thập thông tin 28
2.1.1. Mục đích cuộc điều tra 28
2.1.1. Mục đích cuộc điều tra 28
2.1.2. Đối tượng, đơn vị và phạm vi điều tra 28
2.1.2. Đối tượng, đơn vị và phạm vi điều tra 28
2.1.3. Nội dung điều tra 29
2.1.3. Nội dung điều tra 29
2.2. Phương pháp nhập và xử lý số liệu 35
2.2. Phương pháp nhập và xử lý số liệu 35
2.2.1. Đóng các câu hỏi mở và câu hỏi nửa đóng 35
2.2.1. Đóng các câu hỏi mở và câu hỏi nửa đóng 35
2.2.2. Thang đo, thang điểm của các câu hỏi và mã hóa dữ liệu: 35
2.2.2. Thang đo, thang điểm của các câu hỏi và mã hóa dữ liệu: 35
6

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có sự khởi sắc về
nhiều mặt, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân. Để hòa chung vào xu thế đó, chúng ta cần một lực lượng lao động có đủ
trình độ năng lực và làm chủ được công nghệ kỹ thuật của đất nước, đủ điều
kiện đảm bảo hoàn thành tốt công việc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nếu chúng ta không chiếm hữu được tri thức, không sáng tạo và sử dụng
được thông tin trong các ngành sản xuất thì không thể thành công trong sự
cạnh tranh quyết liệt của thị trường. Chính vì vậy việc nâng cao trình độ
học vấn, trình độ văn hóa cho nhân dân, đặc biệt là việc định hướng bậc
học và định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ hôm nay, chủ nhân tương lai
của đất nước, cần được quan tâm hơn bao giờ hết.
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong nhiều yếu tố quan trọng quyết
định đến tương lai mỗi con người. Vì thế lựa chọn cho mình một ngành nghề
phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm, đặc biệt là học sinh trung học
phổ thông (THPT), những người đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Việc
lựa chọn nghề của học sinh không chỉ xác định hướng đi cuộc đời của mỗi cá
nhân mà còn có tác dụng tới toàn xã hội bởi nó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
đóng góp của cá nhân đối với xã hội. Nhưng để lựa chọn được một nghề
nghiệp phù hợp với bản thân và gia đình, trước tiên, học sinh phải định hướng
được cho mình một ngành học thích hợp. Khi chọn được ngành học phù hợp
thì việc có được một công việc theo ý muốn, thích hợp với năng lực, nguyện
vọng sẽ tạo một động lực lớn thúc đẩy các cá nhân say sưa, miệt mài, tích cực
khám phá và sáng tạo để họat động tốt trong nghề, ngược lại nếu quyết định
của họ là chưa chính xác, là sai lầm thì việc tự tạo niềm vui trong nghề là rất
khó. Vào lứa tuổi này, học sinh THPT đã dần hình thành nên lối suy nghĩ chín
7
chắn hơn khi quyết định một kế hoạch trong tương lai. Tuy nhiên, trong thực
tế, việc chọn ngành học là một việc không hề dễ dàng bởi trong xã hội hiện
nay, số lượng ngành học rất phong phú, đa dạng và có những yêu cầu riêng

không dễ đáp ứng. Vì vậy, chọn ngành gì, nghề gì trong tương lai vẫn là
những câu hỏi khó đối với nhiều học sinh. Đại đa số học sinh phổ thông đều
hướng tới mục tiêu là phải vào được một trường Đại học, cao đẳng (kể cả đối
với những học sinh có lực học yếu), chứ không phải là một trường dạy nghề
bởi qua cánh cổng Đại học, lựa chọn ngành có phần phong phú và đa dạng
hơn. Điều này đã và đang hình thành lên trên thị trường lao động Việt Nam
một tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” khó kiểm soát được. Một số lượng học
sinh không nhỏ cho rằng các ngành thuộc khối kinh tế có thu nhập cao ổn mà
đặc thù công việc lại nhàn hạ, không vất vả. Bởi vậy, số lượng học sinh nộp
hồ sơ dự tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng có đào tạo chuyên ngành
kinh tế khá cao mà lại không nhận thấy tỷ lệ sinh viên ra trường với tấm bằng
“cử nhân kinh tế” mỗi năm quá lớn so với nhu cầu của xã hội. Khi chọn
ngành học, nhiều học sinh thường bị ảnh hưởng bởi giá trị ngành như chọn
ngành nào đang “hot”, ngành nào dễ kiếm tiền, nhàn nhã … thay vì chọn
ngành nghề nào mà xã hội đang cần. Một số khác lại chọn theo quyết định của
bố mẹ, hoặc theo xu hướng chung của bạn bè, theo cảm tính mà chưa có sự
tìm hiểu ,nắm bắt về các thông tin đối với ngành nghề đó. Điều này đã dẫn
đến tình trạng rất nhiều sinh viên chán nản trong việc học, bỏ học giữa chừng
do ngành nghề đó không phù hợp với mình, hay ra trường thất nghiệp, không
có việc làm hoặc làm trái ngành. Sự lựa chọn ngành không chỉ phụ thuộc vào
các đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh và những tác động sư phạm của giáo
dục, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố xã hội, vào giá trị kinh tế và tính
thiết thực của nghề. Nếu trước đây học sinh chỉ được phép chọn và thi một
trường với một ngành học nhất định, nhiều khi bị “ép” chọn ngành học, thì
8
hiện nay với các chính sách mới của Bộ giáo dục, họ được thi vào nhiều
trường đào tạo mà có đủ khả năng dự tuyển. Việc thi vào nhiều trường có
tác dụng góp phần mở rộng cánh cửa nghề cho học sinh, nhưng để họ có
hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực đó sau này hay không thì đó lại là một
vấn đề khó khăn, cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia, các nhà chuyên

môn về nghề nghiệp.
Chọn ngành là bước đi đầu tiên, là nền tảng đầu tiên cho dự định
tương lai. Vì vậy, trước khi quyết định lựa chọn một ngành, một nghề nào đó
trong xã hội học sinh cần có những kiến thức cơ bản về ngành nghề đó rồi
mới có quyết định. Nếu học sinh nhận thức đầy đủ, đúng đắn về những yêu
cầu của ngành học, về những phẩm chất mà ngành đó yêu cầu thì họ sẽ có sự
lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với nguyện vọng của mình và xã hội, từ đó sẽ
tích cực hoạt động để vươn tới thành công.
Hàng năm ở nước ta có hàng vạn học sinh tốt nghiệpTHPT, những
học sinh này đều mong muốn tìm cho mình một nghề ổn định. Nhưng vấn đề
đặt ra là những bước đi đầu tiên đã chính xác, liệu họ đã có lựa chọn, định
hướng đúng đắn cho bản thân về một ngành hoạt động; có cơ sở để có một
nghề phù hợp với mình hay không? Những định hướng và lựa chọn ngành của
học sinh chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào và ảnh hưởng của các nhân tố
đó tới quyết định chọn ngành của họ ra sao? Trả lời được câu hỏi trên là có ý
nghĩa quan trọng, bước đầu cho phép rút ra kết luận về định hướng ngành
tương lai của học sinh THPT.
Nhận thức sâu sắc được vấn đề đó, chúng tôi, những sinh viên năm
thứ ba của trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã lựa chọn đề tài “Định hướng
ngành học của học sinh lớp 12 tại các trường THPT” nhằm đưa ra cái nhìn
toàn diện và thực chất về vấn đề nhu cầu việc làm và các nhân tố ảnh hưởng
9
tới nhu cầu việc làm của học sinh lớp 12 hiện nay, đồng thời nêu khuyến
nghị nhằm nâng cao công tác hướng nghiệp và nhận thức cho học sinh lớp
12 nói riêng và cho tất cả những ai chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa cuộc đời
nói chung.
Đề tài có kết cấu gồm các phần như sau:
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Cơ sở lý luận và một số phương pháp thống kê sử dụng
trong nghiên cứu.

Chương II: Phương pháp thu thập thông tin nghiên cứu định hướng
ngành học của học sinh lớp 12.
Chương III: Phân tích kết quả điều tra và đề xuất giải pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHỤ LỤC
10
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
THỐNG KÊ SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận.
Từ nhiều năm nay, vấn đề định hướng ngành học rất được chú ý và
hiện đang nổi cộm mà việc giải quyết chưa hiệu quả dẫn đến một số hậu quả
nặng nề: Tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” được đề cập đến ở khắp nơi; một bộ
phận khá lớn nhân lực được đào tạo ra không kiếm được việc làm trong khi
một số ngành nghề lại thiếu nhân lực; rất nhiều người không có niềm đam mê,
hứng thú với nghề nghiệp đã chọn và sẽ tìm cách để được đào tạo lại hoặc tự
đào tạo lại; những người buộc phải tiếp tục chuyên môn, ngành hay lĩnh vực
không phù hợp sở trường, không yêu thích tất nhiên không thể làm việc hiệu
quả Vấn đề nghiêm trọng không chỉ ở chỗ nền kinh tế quốc dân không có
đủ nhân lực có chất lượng, có đam mê với ngành nghề lựa chọn mà còn ở
nguồn lực to lớn về tiền bạc (của cả Nhà nước lẫn cá nhân), thời gian, sức lực
bị tiêu phí. Hơn thế nữa, sự không thành công của nhiều cá nhân trong công
việc và cuộc sống do định hướng ngành học ban đầu không đúng có thể dẫn
đến nhiều vấn đề xã hội. Công tác hướng nghiệp làm chưa tốt và việc rất đông
học sinh còn chưa nhận thức rõ các yếu tố như sở thích cá nhân, năng lực và
nhu cầu xã hội là nguyên nhân của tình trạng trên.
Mỗi ngành là một bộ phận hoạt động chuyên môn riêng trong toàn bộ
các hoạt động của xã hội. Mỗi ngành đều có nhiều yếu tố khác nhau. Bởi vậy,
một người có thể có nhiều cơ hội chọn nghề mà vẫn đúng ngành học yêu
thích. Nghề nghiệp là khái niệm chung dành để chỉ những công việc sẽ gắn

với bản thân của mỗi người trong hầu hết phần lớn khoảng thời gian quan
trọng của họ. Nghề cũng có thể được hiểu là một lĩnh vực hoạt động lao động
11
mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, kĩ năng để
làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề
nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu
vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công
nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành
cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần
cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ… Công nghệ các hợp chất cao phân tử
tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du
lịch tiếp nối ra đời… Quá trình chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đã gây ra những biến đổi sâu sắc
trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong
nền kinh tế tri thức, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ
hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi
mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do
“hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm
phân công lao động sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị
trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm
vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Nghề lại bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động
sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình
làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…)
hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là
những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Việc đi sai hướng trong ngành học sẽ mang đến nhiều bất lợi trong
cuộc sống của học sinh sau này, cũng không tạo được niềm yêu thích, sự
hứng thú trong quá trình làm việc. Do đó, việc định hướng ngay ngành học là

12
một điều cần thiết đối với nhiều học sinh đang ngồi trên ghế giảng đường.
Nhưng không phải ai cũng có cái nhìn nghiêm túc về điều này. Bạn đang theo
đuổi ngành học vì ước mơ? Vì gia đình? Hay là do sự cỗ vũ , động viên của
bạn bè? Bạn thực sự đam mê, hay thực sự thấy mình có những phẩm chất phù
hợp với ngành? Bạn đang suy nghĩ đâu sẽ là con đường đi tốt nhất? Do đó,
việc xác định hướng ngành học của mình trong tương lai sẽ giúp học sinh
nhận thấy rõ hơn mục đích học tập cũng như đích đến lâu dài của mình là gì.
Có định hướng đồng nghĩa với việc có mục đích và có động cơ. Đi kèm theo
đó sẽ là sự nỗ lực, phấn đấu và sự cố gắng kiên cường để đạt được mục đích
mình đã chọn. Đó cũng là một trong những tiêu chí để mọi người nhìn vào đó
có thể đoán họ là ai trong tương lai! Việc định hướng tốt ngành sẽ giúp cho
học sinh đưa ra được những hoạt động cho bản thân nhằm trau dồi kiến thức
chuyên môn cũng như các kỹ năng bổ trợ để mang lại thành công trong công
việc mình lựa chọn sau này. Không chỉ vậy, điều đó còn có thể giúp họ tiết
kiệm hơn công sức, tiền bạc của gia đình, xã hội. Lượng vật chất mà họ bỏ ra
sẽ không là phí phạm và vô ích. Điều đặc biệt mà học sinh có được đó chính
là không bị lãng phí nhiều thời gian trong cuộc đời. Để tương lai, họ không
phải hối tiếc về quãng thời gian sinh viên tươi đẹp cũng như không phải hối
hận về việc chọn lựa con đường mình sẽ đi.
Có thể nói, trên thế giới, những tư tưởng về định hướng ngành nghề
cho thế hệ trẻ đã có từ thời cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu
hiện thông qua việc phân chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và
nguồn gốc xuất thân của mỗi người trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp
đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình đẳng trong phân công lao động xã
hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xã hội phát triển cùng với những tư
tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp thế giới thì khoa học hướng
nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập. Cuốn sách “Hướng dẫn
13
chọn nghề” xuất bản năm 1948 ở Pháp được xem là cuốn sách đầu tiên nói về

hướng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển đa dạng của
các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp từ đó đã rút ra
những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể
thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát
triển. Năm 1980, James McKeen Cattell - một trong những người tiên phong
của khoa học hướng nghiệp, giáo sư tâm lý học của Đại học Pensylvania (Mĩ)
đã mở màn bằng việc xây dựng các bài test đầu tiên để đo lường và đánh giá
các thành công học đường của sinh viên. Năm 1909, Frank Parsons, giáo sư
Đại học Pensylvania, đã xuất bản cuốn “Lựa chọn một nghề nghiệp”
(Choosing Vocation), về sau vào những năm 1930, thế giới phương Tây đã
tôn vinh cuốn sách này như là một công trình nền tảng của ngành tư vấn
hướng nghiệp. Cuốn sách đã trình bày cơ sở tâm lý học của hướng nghiệp và
chọn nghề, các tiêu chí về sự phù hợp nghề của mỗi cá nhân để từ đó có sự
lựa chọn phù hợp. Ở Liên Xô vào những năm 29, 30 của thế kỷ XX, vấn đề
hướng nghiệp cho học sinh cũng được các nhà khoa học và lãnh đạo chính
quyền Xô viết đặc biệt quan tâm. V.I Lênin đã có chỉ thị yêu cầu phải cho học
sinh làm quen với khoa học kỹ thuật, làm quen với cơ sở của nền sản xuất
hiện đại. Việc tôn trọng “Tự do chọn nghề” cho mỗi thanh, thiếu niên là việc
nên làm, sở thích của họ cần được đặt lên hàng đầu. Điều này giúp cho trẻ em
phát triển được hứng thú và năng lực nghề nghiệp, giáo dục cho học sinh thái
độ lao động đúng đắn, động cơ chọn ngành nghề trong sáng. Từ đó học sinh
có thái độ tự giác trong việc chọn nghề. Đồng thời, bản thân mỗi học sinh sẽ
nhận thức được sâu sắc hơn hướng phát triển kinh tế của đất nước, những nhu
cầu của nền sản xuất. Nếu sớm thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho thế hệ
trẻ thì sẽ có cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa năng lực, sở
thích cá nhân với nhu cầu xã hội là điều dễ dàng.
14
Trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới, nền sản xuất công nghiệp và
hậu công nghiệp đã phát triển cao, trong xã hội xuất hiện thêm nhiều ngành
nghề mới, sự phân hoá lao động đã khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới

đều phải quan tâm đến công tác hướng nghiệp. Vì vậy, hoạt động nghiên cứu
khoa học hướng nghiệp, mở các trung tâm tư vấn hướng nghiệp và đào tạo
giáo viên, chuyên gia tư vấn hướng nghiệp trong và ngoài trường là việc làm
cần thiết và cần được đẩy mạnh.
Ở Việt Nam, việc định hướng nghề nghiệp đã được đánh giá là rất
quan trọng trong lĩnh vực giáo dục; tuy vậy, việc thực hiện lại không mang lại
hiệu quả. Vấn đề hướng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm
khi nền kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các
ngành nghề và nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Nếu so với sự ra
đời của nền giáo dục XHCN sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thì những
tư tưởng về hướng nghiệp cho học sinh cũng xuất hiện khá sớm. Cho đến
trước những năm 1970 thì những tư tưởng này chủ yếu dừng lại ở các quan
điểm, chỉ thị, nghị quyết mang tính chỉ đạo lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và
Bác Hồ chứ chưa phải là luận điểm mang tính khoa học hay những nghiên
cứu khoa học thực sự. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên
quan tâm đến công tác hướng nghiệp cho học sinh. Điều này được thể hiện rất
rõ trong các bài viết của Người. Trong bài viết “Học sinh và lao động” (Bài
viết tay năm 1957 hiện lưu giữ ở Bảo tang Hồ Chí Minh), Bác viết “Thi đỗ
tiểu học rồi thì muốn lên trung học, đỗ trung học rồi thì muốn lên đại học.
Riêng về mỗi cá nhân của người học sinh thì ý muốn ấy không có gì lạ.
Nhưng chung đối với nhà nước thì ý muốn ấy thành vô lý. Vì ở bất kì nước
nào số trường trung học cũng ít hơn số trường tiểu học, trường đại học lại
càng ít hơn trường trung học. Thế thì những học trò tiểu học và trung học
không được chuyển cấp sẽ làm gì?”. Câu hỏi này của Người thật sự đã trở
15
thành một vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Người đã gạch chân câu trả lời
“họ sẽ lao động” để khẳng định một cách chắc chắn rằng con đường lao
động là con đường đúng đắn nhất để các em tiếp tục phấn đấu vươn lên chứ
không nhất thiết là phải vào trường Đại học.
Học tập và làm việc theo tấm gương Hồ chủ tịch, Đảng và Nhà nước

ta đã ra các Chỉ thị, Nghị quyết, văn kiện, các nguyên lý giáo dục của Đảng và
nhà nước. Có thể lấy ví dụ như Nghị định 126/CP ngày 19/03/1981 của chính
phủ về “công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp
lý học sinh các cấp THCS và THPT tốt nghiệp ra trường”. Trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ IX đã ghi rõ “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân
luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động
nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng
địa phương”. Luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục THPT nhằm
giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện
học vấn để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học nghề nhiệp, học nghề, và
đi vào cuộc sống lao động”. Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010
đã xác định rõ: “Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho
học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời
tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có
những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành
nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp”.
Về mặt nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các
chuyên gia thì ngành hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ vào những năm 1970, 1980. Những nhà khoa học tiên phong phải
kể đến GS. Phạm Tất Dong, GS. Phạm Huy Thụ, GS. Nguyễn Văn Hộ. Đây là
16
người có những đóng góp rất lớn cho giáo dục hướng nghiệp Việt Nam, họ đã
dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn cho giáo dục hướng
nghiệp như xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng nghiệp; hứng thú,
nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng
nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp
Nhiều báo cáo nghiên cứu, báo, sách, giáo trình về “hướng nghiệp cho thanh
niên” đã trở thành những tư liệu quan trọng không chỉ cho bản thân các em
HS mà còn là tư liệu tham khảo bổ ích cho những bậc phụ huynh, những

người làm cha, làm mẹ cũng rất bất an về việc hướng nghiệp của con em
mình. Các tác phẩm như: “Nghề nghiệp tương lai - giúp bạn chọn nghề” hay
cuốn “Tư vấn hướng nghiệp - sự lựa chọn cho tương lai” của GS. Phạm Tất
Dong là một trong những cuốn sách hữu ích nhất được nhiều độc giả quan
tâm. Theo tác giả, đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH -
HĐH, trong quá trình CNH - HĐH, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm
tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; bởi vậy, việc định
hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng chuyển cơ cấu kinh tế
là một yêu cầu của xã hội hiện nay. Không chỉ vậy, các công trình nghiên cứu
của các tác giả Đặng Danh Ánh, Nguyễn Thế Trường, Phạm Huy Thụ,
Nguyễn Minh An, Lê Đức Phúc đã làm rõ được các thực trạng, những số
liệu, những kinh nghiệm giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh
phổ thông. Đồng thời cũng đề cập và làm rõ được các vấn đề như tổ chức lao
động, tư vấn nghề, các phương thức giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng
nghiệp trong nhà trường phổ thông và trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng
nghiệp giành cho học sinh THPT.
Qua việc nghiên cứu, đánh giá của các chuyên gia, việc định hướng
ngành nghề được hiểu một cách kĩ càng và đúng đắn hơn. Nhưng để việc định
hướng ngành được chính xác, việc đầu tiên là học sinh phải biết được sở thích
17
nghề nghiệp của bản thân; từ đó, phải thu thập những thông tin về các ngành
nghề khác nhau trong xã hội cũng như các yêu cầu đặt ra cho ngành nghề đó
qua các diễn đàn, các trang web thuộc chuyên ngành; các trang web về tuyển
dụng như kiemviec.com, timviecnhanh.com, vietnamworks.com, … hay tham
gia các chương trình tư vấn định hướng nghề nghiệp, ngày hội việc làm do
các công ty tổ chức;… Đây chính là cơ hội để nhìn lại các điều kiện của bản
thân có tương thích với ngành đã lựa chọn hay không; cũng là cơ hội tốt để
thể hiện mình với các nhà tuyển dụng nhằm tạo cho các nhà tuyển dụng một
ấn tượng tốt để có thể có được công việc phù hợp ở tương lai. Ngoài ra, việc
tham khảo thêm ý kiến của thầy cô giáo, bạn bè hay gia đình cũng như các

chuyên gia tư vấn hoặc sử dụng những bài test IQ và EQ để xác định được ưu
và nhược của bản thân để biết được với đặc điểm tâm lý của bản thân thì việc
lựa chọn nghành nghề gì sau này là đơn giản và dễ dàng hơn. Sau khi có được
những thông tin cần thiết, việc trau dồi kiến thức chuyên môn cũng như bổ
sung các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy sáng tạo,… sẽ
giúp các bạn năng động hơn, nhạy bén hơn để khi ra trường hòa mình tốt vào
công việc.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giai đoạn lựa chọn ngành
được coi là một bộ phận, một mắt xích trong cấu trúc đời sống của con
người. Khi xác định cho mình một hướng đi, một vị trí hoạt động trong đời
sống xã hội chính là lúc con người ta lựa chọn nghề. Quá trình lựa chọn
ngành không phải là chốc lát, không phải diễn ra chỉ một lần mà nó nảy sinh
trong các mối quan hệ phức tạp và những điều kiện khách quan có mối
quan hệ trực tiếp. Việc lựa chọn ngành học tiến tới quyết định lựa chọn nghề
nghiệp sau này của học sinh là một quá trình lâu dài và phức tạp, nó được
biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những lớp đầu của trường
THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau, nhất là ở
18
cuối cấp THPT. Quá trình lựa chọn của học sinh diễn ra với sự chi phối
của những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa học sinh với gia đình; học
sinh với tập thể lớp, trường, Đoàn Đội; học sinh với cộng đồng ). Những
mối quan hệ này tác động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở
thích nghề nghiệp của học sinh. Mặc dù quyết định cuối cùng là ở bản thân
của nhiều HS nhưng những yếu tố trên cũng ảnh hưởng ít nhiều tới lựa
chọn của họ.
1.2. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng ngành học:
1.2.1. Các nhân tố chủ quan:
a. Sở thích của bản thân:
Học sinh THPT là những học sinh đang học trong trường THPT có độ
tuổi từ 15 đến 18 tuổi. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong các

thời kỳ phát triển của thanh thiếu niên. Đây là giai đoạn phát triển và dần
hoàn thiện các cấu trúc tâm lý, các phẩm chất nhân cách và thể chất, chuẩn bị
cho họ bước vào cuộc sống XH với tư cách như một con người trưởng thành.
Bởi vậy, việc định hướng ngành học của học sinh lớp 12 (HS) cũng chịu ảnh
hưởng nhiều bởi yếu tố sở thích, tâm lý cá nhân của họ. Ngành là cơ sở để lựa
chọn nghề nghiệp. Nghề lại là hoạt động gắn bó lâu dài đối với mỗi cá nhân
sau này, bởi vậy yếu tố sở thích là rất quan trọng ảnh hưởng tới quyết định lựa
chọn ngành nghề của mỗi người. Chọn ngành học phù hợp với sở thích sẽ tạo
một động lực lớn thúc đẩy các cá nhân say sưa, miệt mài, tích cực khám phá
và sáng tạo để họat động tốt trong nghề; ngược lại nếu quyết định của họ là
chưa chính xác, là sai lầm thì việc tự tạo niềm vui trong công việc là rất khó
và như vậy, hiệu quả làm việc cũng không cao.
19
b. Đặc điểm học tập:
HS lớp đã ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc
đời, do vậy, thái độ có ý thức đối với học tập ngày càng phát triển và trở nên
có lựa chọn hơn đối với mỗi môn học. Nhiều HS đã hình thành những hứng
thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp, đã tạo cho mình hứng
thú với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng
thú này cũng ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn một nghề nhất định của họ.
Thái độ học tập của thanh niên HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập
có cấu trúc khác với lứa tuổi trước. Lúc này, họ tự có ý thức học tập hơn,
chăm chỉ và cố gắng hơn để đạt được kết quả học tập tốt, đây cũng là lúc có
động lực nhất vì đây là thời gian quyết định đến tương lai sau này của bản
thân. Nhiều HS lớp 12 với sự nỗ lực trong thời gian ngắn này đã cải thiện
đáng kể kết quả học tập và đạt được nhiều thành công.
c. Khả năng, năng lực:
Trong xã hội hiện nay, việc lựa chọn ngành học phù hợp với khả năng
của bản thân là rất khó. Một người được coi là phù hợp với một nghề nào đó
khi ở họ có được những phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá, năng lực chung

và năng lực riêng, tri thức, kĩ năng và tình trạng sức khoẻ đáp ứng được đòi
hỏi do nghề nghiệp đặt ra. Để làm được điều đó, mỗi cá nhân phải xác định
được khả năng của mình tới đâu, có thể làm tốt được những công việc ở mức
độ nào. Không chỉ nâng cao kiến thức, mỗi người cũng cần tự rèn luyện các kĩ
năng mềm để hoàn thiện bản thân. Một người nếu chỉ có thế có được một
công việc tốt khi họ có học thức cũng như họ biết cách vận dụng, kết hợp giữa
lý thuyết vào thực tiễn.
1.2.2. Các nhân tố khách quan:
d. Bố mẹ, người thân hoặc thầy cô khuyên bảo hoặc do các trung
tâm tư vấn việc làm giới thiệu:
Gia đình là yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển về mọi mặt
của học sinh trong đó có cả vấn đề định hướng, lựa chọn ngành của con em.
Trong gia đình, cha mẹ là người luôn luôn gần gũi, hiểu rõ con cái mình
20
nhất nên cha mẹ có thể biết được hứng thú, năng lực, sở thích của chúng ra
sao. Cha mẹ là những người đi truớc có nhiều kinh nghiệm thực tế, có sự
hiểu biết về thế giới, nghề nghiệp trong xã hội hơn. Vì vậy, nhiều HS có sự
ảnh hưởng và tin tuởng rất lớn từ cha mẹ trong việc lựa chọn nghề nghiệp
cho bản thân. Hơn nữa trong điều kiện xã hội hiện nay, vấn đề việc làm sau
khi ra trường còn phụ thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ và khả năng tài
chính của gia đình. Điều đó càng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình
đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của HS. Tuy nhiên, sự can thiệp, ảnh
hưởng quá lớn từ cha mẹ đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sẽ
có tác động hai mặt: Mặt tích cực, đối với những trường hợp cha mẹ hiểu rõ
năng lực, hứng thú của con, hiểu biết rõ về các ngành nghề trong xã hội
nên hướng cho con mình lựa chọn những ngành phù hợp. Mặt tiêu cực là có
một bộ phận không nhỏ các bậc phu huynh lại áp đặt con cái lựa chọn
ngành, nghề theo ý mình. Với suy nghĩ là cha mẹ phải có trách nhiệm với
con cái từ việc chọn nghề đến lúc tìm việc làm mà hầu như không tính đến
hứng thú, năng lực sở trường của chúng. Điều này đã dẫn đến việc lựa chọn

sai ngành ban đầu và kết quả là nghề nghiệp không phù hợp với HS, hình
thành ở họ tính thụ động, ỷ lại vào cha mẹ. Và đây cũng là một trong số
các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tượng không thành đạt trong nghề,
chán nghề, bỏ nghề của nhiều HS sau này.
Quá trình lựa chọn ngành học của HS diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp: giữa HS với gia đình; HS với tập thể lớp,
trường, đoàn đội; HS với cộng đồng xã hội Những mối quan hệ này tác
động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp của HS.
Mặc dù để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết là do chính chủ thể
đưa ra và khẳng định nhưng ý kiến khách quan của các cá nhân trên cũng ít
nhiều ảnh hưởng sự lựa chọn, quyết định cuối cùng của HS.
e. Xu hướng chung của bạn bè và xã hội:
21
Đời sống tình cảm của lứa tuổi học sinh rất phong phú. Đặc điểm đó
được thể hiện rõ nhất trong tình bạn, vì đây là lứa tuổi mà những hình thức
đối xử có lựa chọn đối với mọi người trở nên sâu sắc. Ở lứa tuổi này, nhu cầu
về tình bạn tăng lên rõ rệt và sâu sắc hơn rất nhiều so với tuổi thiếu niên. HS
có yêu cầu cao hơn đối với tình bạn (sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, hiểu
biết và lẫn nhau ). Quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan
hệ với người lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn. Tình bạn học trò rất bền vững, nó
có thể vượt qua mọi thử thách và có thể kéo dài suốt cuộc đời. Bởi vậy, bạn
bè có thể là nhân tố ảnh hưởng lớn đến lựa chọn ngành của nhiều HS. Trên cơ
sở thực tế, nhiều HS chọn nghề do lời khuyên của bạn bè, thấy các bạn chọn
thì mình cũng chọn theo hoặc họ chơi thân với nhau rồi rủ nhau chọn cùng
một ngành, thi chung một trường Hầu hết tất cả các cách lựa chọn do ảnh
hưởng từ bạn bè đều không mang lại hiệu quả, bởi vì đó chỉ là sự lựa chọn bị
chi phối bởi cảm tính và không có sự đối chiếu so sánh giữa sở thích, điều
kiện và năng lực của bản thân với các yêu cầu của ngành, hoặc do sự hào
nhoáng bề ngoài của ngành, do “bệnh” thần tượng, chạy theo số đông. Do
vậy, lựa chọn ngành theo xu hướng chung của xã hội cũng khá phổ biến ở các

trường THPT
f. Cơ hội tìm việc làm của ngành học:
Trong thời đại bùng nổ của thông tin và các phương tiện thông tin đại
chúng như hiện nay đã tác động không nhỏ tới việc lựa chọn ngành học của
HS. Với sự hỗ trợ của sách, báo, phim ảnh, truyền hình đặc biệt là kho thông
tin khổng lồ - mạng Internet, HS hiện nay dễ dàng nắm bắt, tiếp thu các
thông tin đa dạng về mọi mặt của các lĩnh vực đời sống xã hội, biết được
những ngành nghề nào đang được nhiều người quan tâm, biết được xã hội
đang thiếu nhân lực trong những ngành nào cũng như “xu hướng ngành nghề”
của toàn xã hội. Khi nói đến quá trình lựa chọn nghề là nói tới sự kết hợp giữa
nhu cầu, nguyện vọng cá nhân với yêu cầu do nghề nghiệp và xã hội đòi hỏi.
22
Không phải bất cứ nguyện vọng ngành nào nhiều học sinh lựa chọn cũng
được xã hội chấp nhận. Trong xã hội, mỗi cá nhân có một vị trí xác định, với
vị trí đó, cá nhân vừa được hưởng những quyền lợi đồng thời cũng cần có
trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách
nhiệm trong lựa chọn được biểu hiện trong qua mối quan hệ giữa nguyện
vọng cá nhân (tôi muốn) với đòi hỏi về số lượng và chất lượng mà nhu cầu
nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực đòi hỏi (tôi cần phải). Bởi vậy
trong nhiều trường hợp, nhiều HS phải từ bỏ sở thích cá nhân mà lựa chọn
ngành nghề sau này có nhiều cơ hội tìm việc trong tương lai.\.
1.3. Phương pháp thống kê nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến
định hướng ngành học của học sinh lớp 12.
1.3.1. Phương pháp bảng, đồ thị
a. Khái niệm, tác dụng của bảng thống kê:
Sau khi tổng hợp các tài liệu điều tra thống kê, muốn phát huy tác
dụng của nó với giai đoạn phân tích thống kê, cần phải trình bày kết quả tổng
hợp theo 1 hình thức thống nhất và thuận lợi, đó chính là bảng thống kê.
Có các loại bảng thống kê là bảng giản đơn, bảng phân tổ và bảng kết hợp.
Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một

cách có hệ thống, hợp lý và rõ ràng, nhằm nêu lên các đặc trưng về mặt lượng
của hiện tượng nghiên cứu. Các tài liệu trong bảng thống kê được sắp xếp
theo 1 cách khoa học, nên có thể giúp ta tiến hành mọi việc so sánh, đối chiếu,
phân tích theo các phương pháp khác nhau, nhằm nêu lên sâu sắc bản chất của
hiện tượng.
b. Đặc điểm vận dụng phương pháp bảng thống kê trong đề tài:
23
Trong đề tài này,chúng tôi chủ yếu sử dụng loại bảng thống kê dưới
dạng kết hợp. Cụ thể là:các thông tin thu thập được từ cuộc điều tra đều được
phân tích dưới dạng kết hợp và phân chia theo giới tính, theo khối thi, theo
ngành lựa chọn thi tuyển… Bằng cách phân chia một cách tỉ mỉ và chi tiết
như vậy nhờ phần mềm SPSS, chúng tôi dễ dàng phân tích được các vấn đề
có liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng ngành học của học
sinh 12 trong đề tài.
1.3.2. Phân tổ thống kê
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay nhiều tiêu thức nào đó để tiến
hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ có tính chất
khác nhau.
Đây là một trong các phương pháp quan trọng của phân tích thống kê,
đồng thời là cơ sở để vận dụng các phương pháp phân tích thống kê khác.
Phân tổ nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau: phân chia các loại hình
kinh tế- xã hội của hiện tượng nghiên cứu; biểu hiện kết cấu của hiện tượng
nghiên cứu; biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức.
1.3.3. Kiểm định Chi- bình phương:
a. Đặt giả thuyết thống kê:
Giả thuyết H
0
: hai biến độc lập với nhau
Giả thuyết H
1

: hai biến phụ thuộc với nhau
b. Tính toán đại lượng χ
2
:
Công thức tính χ
2
:
2
1
( )
c
ij ij
j
ij
O E
E
=


Trong đó:
24
χ
2
: đại lượng Chi- bình phương dùng để kiểm định
O
ij
: đại diện cho số trường hợp được quan sát trong một ô cụ thể của
bảng chéo ( tần số quan sát)
E
ij

: đại diện cho số trường hợp mà bạn mong đợi gặp trong những ô
của bảng chéo đó nếu không có mối liên hệ giữa 2 biến trong bảng (tần số
mong đợi).
c : số cột của bảng ; r : số hàng của bảng
E
ij
được tính theo công thức :
i j
ij
R C
E
n
×
=
Trong đó: R
i
là tổng số quan sát của hàng thứ i ; C
j
là tổng số quan sát
của cột thứ j.
Từ công thức tính χ
2
có thể thấy ngay χ
2
=0 khi tất cả các tần số quan
sát bằng các tần số mong đợi, nghĩa là lúc này không có mối liên hệ nào giữa
các biến. Mặc dù Chi-bình phương có thể bằng 0, nó không bao giờ nhận giá
trị âm. O khác E càng nhiều thì giá trị χ
2
tính được càng lớn, nghĩa là lúc này

có khả năng có mối liên hệ giữa 2 biến.
c. Tìm giá trị giới hạn χ
2
(r-1)(c-1),α
:
Đại lượng kiểm định này có phân phối Chi- bình phương nên tra bảng
phân phối χ
2
sẽ tìm được giá trị giới hạn với mức ý nghĩa α hay số bậc tự do
df=(r-1).(c-1). Mức ý nghĩa α là khả năng tối đa cho phép phạm phải sai lầm
loại I trong kiểm định, tức khả năng bác bỏ H
0
mặc dù thực tế H
0
đúng.
25
d. Tiêu chuẩn quyết định là so sánh giá trị giới hạn và đại lượng
χ
2
:
Bác bỏ giả thuyết H
0
nếu: χ
2
> χ
2
(r-1)(c-1),α
Chấp nhận giả thuyết H
0
nếu: χ

2
≤ χ
2
(r-1)(c-1),α
1.3.4. Phương pháp phân tích phương sai một yếu tố ( One-Way ANOVA):
Có một số giả định sau đối với phân tích phương sai một yếu tố:
• Các nhóm so sánh phải độc lập và được chọn một cách ngẫu nhiên
• Các nhóm so sánh phải có phân phối chuẩn hoặc cỡ mẫu phải đủ lớn
để được xem như tiệm cận phân phối chuẩn
• Phương sai của các nhóm so sánh phải đồng nhất
Một cách tổng quát, giả sử từ một biến phân loại, ta chia tổng thể mẫu
thành k nhóm độc lập gồm n
1
, n
2
, , n
k
quan sát tương ứng trong từng nhóm, n
là số quan sát của tổng thể mẫu. Ta ký hiệu:
• x
ij
: giá trị của biến định lượng đang nghiên cứu tại quan sát thứ j
thuộc nhóm i

1 2
, , ,
k
x x x
là các trung bình nhóm và
1 2

, , ,
k
µ µ µ
là các trung bình thực của các tổng
thể nhóm mà từ đó ta rút ra được các mẫu tương ứng
• là trung bình chung của tất cả các nhóm theo biến định lượng đang
nghiên cứu tức trung bình tính chung cho mẫu không phân tách thành nhóm
Tiến hành kiểm định giả thuyết:
H
0
: μ
1
= μ
2
= = μ
k
(nghĩa là không có sự khác biệt giữa các
trung bình của các nhóm được phân loại theo biến định tính)
H
1
: Tồn tại ít nhất 1 cặp μ
i
≠ μ
j
với i ≠ j

×