Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế Tác động của sự độc lập của ngân hàng trung ương lên diễn biến của chế độ lạm phát mục tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.29 KB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
BÀI TIỂU LUẬN
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐỘC LẬP
CỦA NHTW LÊN DIỄN BIẾN CỦA
CHẾ ĐỘ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
GVHD: Th.S Đinh Thị Thu Hồng
1. Nguyễn Minh Tuấn
2. Nguyễn Trần Chân Lý
3. Châu Ly Pôth
4. Nhan Anh Chi
5. Nguyễn Văn Nam
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
MỤC LỤC
Tóm tắt tr3
I. Giới thiệu tr3
II. Phương pháp nghiên cứu tr8
III. Nội dung và kết quả nghiên cứu tr8
1. Ảnh hưởng của IT và vai trò của CBI tr8
1.1 Dữ liệu tr9
1.2 Tóm tắt kết quả thống kê tr11
2. Kết quả tr16
2.1 Lạm phát ở các nền kinh tế mới nổi tr21
2.2 Các khảo sát tích cực tr22
3. Các kênh tác động tr23
3.1 Các kênh tiềm năng khác tr26
IV. Kết luận tr28
Tài liệu tham khảo tr29
Phụ lục tr33
Nhóm 12_BH01K35 Page 2


Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐỘC LẬP CỦA NHTW LÊN DIỄN BIẾN CỦA
CHẾ ĐỘ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
Tóm tắt
Trong các nghiên cứu trước đây, các nhà khoa học đã đưa ra kết luận,
chính sách lạm phát mục tiêu (IT) có ảnh hưởng không đáng kể ở các nền kinh
tế tiên tiến. Cũng tương tự như vậy IT chỉ đem lại những lợi ít nhỏ cho các nền
kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, nếu chúng ta phân chia các nhóm nước nghiên cứu
theo mức độ độc lập của NHTW (CBI) khác nhau, IT sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ
hơn rất nhiều ở nền kinh tế mới nổi có CBI thấp. Khác biệt về cách chọn mẫu
nghiên cứu mang lại những kết quả đáng ngạc nhiên. Đây là kết quả thứ nhất mà
bài nghiên cứu sẽ làm rõ.
Bên cạnh đó, các bài nghiên cứu về IT trước đây cho rằng CBI là một “
điều kiện tiên quyết” để thực thi chính sách lạm phát mục tiêu. Nhưng kết quả
thứ hai của bài nghiên cứu này còn cho thấy, CBI không những là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, mà nó còn có hiệu quả lớn tới
giảm lạm phát. Nên có thể nói, CBI có tác động cải thiện đối với IT.
Ngoài việc chứng minh cho hai kết luận trên, bài nghiên cứu còn chứng
minh rằng, kênh ngân sách là một trong những kênh chịu tác động mạnh mẽ nhất
của IT lên các nước có CBI thấp. Tác dụng làm giảm thâm hụt ngân sách là biểu
hiện đáng kể của kênh này.
I. Giới thiệu:
Ngày nay, ngày càng nhiều các quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu lạm
phát. Xu hướng này bắt đầu vào đầu những năm 1990, một số ít các nước tiên
tiến bắt đầu áp dụng IT. Đến giữa thập niên 1990, các quốc gia công nghiệp bắc
Nhóm 12_BH01K35 Page 3
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
chước làm theo. Vào cuối thập niên 1990 và thập niên đầu thế kỷ 21, các NHTW
của những nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu áp dụng “lạm phát mục tiêu” (IT).
Thống kê hiện tại có 8 nền kinh tế tiên tiến và 13 thị trường các quốc gia mới

nổi áp dụng chế độ này. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, số lượng các nước áp dụng
đã tăng lên đáng kể trên toàn thế giới. Có thể thấy được các nước đã thấy được
những lợi ích đáng kể từ việc áp dụng chế độ này. Kết quả đạt được bao gồm
lạm phát và biến động lạm phát thấp hơn, trong khi vẫn giữ tính linh hoạt đủ để
phản ứng với những cú sốc kinh tế vĩ mô và có khả năng ổn định được đầu ra.
Thị trường các quốc gia mới nổi nói riêng đã tìm được một cái “neo”danh nghĩa
thay thế cho chế độ tỷ giá hối đoái cố định, mà không có sự bất ổn như chế độ tỷ
giá hối đoái cố định.
Khi số lượng của các quốc gia áp dụng IT đã tăng lên, các nhà khoa học
ngày càng quan tâm đến ảnh hưởng của chế độ này. Các bài nghiên cứu cố gắng
xác định các tác động của IT tới : lạm phát trung bình, biến động lạm phát, tăng
trưởng trung bình, và biến động tăng trưởng. Tuy nhiên có sự khác nhau nhất
định trong cách chọn mẫu.
Nghiên cứu ban đầu tập trung vào các nước công nghiệp (cf Ball và
Sheridan, 2005), kết quả cho thấy IT có cải thiện hiệu suất kinh tế vĩ mô, nhưng
không đưa ra được các bằng chứng thuyết phục. Các công trình nghiên cứu gần
đây, cùng với việc mở rộng mẫu bao gồm cả các nền kinh tế mới nổi và có xu
hướng tìm thấy bằng chứng thuyết phục hơn (Batini và Laxton, 2007; Gonçalves
và Salles, 2008; Lin và Ye, 2009; Mishkin và Schmidt-Hebbel, 2007). Tuy
nhiên, nghiên cứu của Brito và Bystedt (2010) đã cho kết quả hơi khác. Nghiên
cứu này sử dụng hệ thống ước tính GMM trái ngược với các ước tính thường
được sử dụng trong Ball và Sheridan (2005). Họ chỉ ra tác dụng hỗ trợ yếu đi
của IT lên: lạm phát trung bình, biến động lạm phát, biến động tăng trưởng. Và
cung cấp bằng chứng cho thấy tốc độ tăng trưởng trung bình thấp dưới chế độ
Nhóm 12_BH01K35 Page 4
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
IT. Trải qua nhiều năm nghiên cứu, Ball (2010) tuyên bố chưa thể kết luận gì về
bằng chứng của các tác động có lợi của IT trong các nền kinh tế mới nổi. Mặc
dù tác động của nó là mạnh mẽ hơn các quốc gia tiên tiến.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả muốn chứng minh rằng, tất cả

các nền kinh tế mới nổi là không giống nhau và IT có thể cho tác dụng khác
nhau ở các nước khác nhau. Đặc biệt là với các nước có mức CBI riêng, thì có
thể tương tác với chế độ IT để tạo ra những kết quả kinh tế vĩ mô khác nhau. Vì
thế, trong quá trình chọn mẫu, nếu không phân biệt rõ ràng các nước tiên tiến
hay mới nổi, kết quả của những tác động của IT trong một tập hợp con của các
nước bị yếu đi, vì các quốc gia không áp dụng IT.
Trong một phương diện khác, CBI là một nhân tố làm cho IT có hiệu quả
nhiều hơn hoặc ít hơn. Nói cách khác, sự độc lập của NHTW có thể là một
“điều kiện tiên quyết cho thành công IT” (Mishkin, 2000; 2004; Eichengreen et
al, 1999; Friedman và Ötker-Robe, 2010). Ví dụ, IT có thể không có tác dụng
duy trì mức lạm phát thấp, nếu các NHTW bị áp lực chính trị phải giảm tỷ lệ
thất nghiệp hoặc phát hành tiền do thâm hụt tài chính lớn. Điều này xảy ra trong
quốc gia có mức CBI thấp. Tương tự như vậy, CBI thấp có thể hàm ý rằng các
điều kiện tiên quyết khác cũng bị triệt tiêu. Chúng bao gồm các ưu tiên của mục
tiêu lạm phát cũng như mục tiêu của chính sách tiền tệ: đó là sự không tồn tại
của sự thống trị tài chính, hạn chế nguy cơ đô la hóa, và thông tin NHTW minh
bạch, và trách nhiệm giải trình (Batini và Laxton, 2007; Friedman và Ötker-
Robe, 2010). Trong trường hợp này, IT ít năng động hơn trong môi trường CBI
thấp. Chúng tôi gọi điều này là " sự tác động của điều kiện tiên quyết."
Tuy nhiên, có sự không thống nhất về những điều kiện tiên quyết là các
yêu cầu trong thực tế ảnh hưởng lên sự thành công của IT. Thực tế các ý kiến
hầu như chắc chắn sẽ đồng ý rằng những điều kiện trên sẽ làm cho bất kỳ chế độ
tiền tệ nào cũng sẽ thành công hơn. Hơn nữa, có lập luận cho rằng IT có thể thúc
Nhóm 12_BH01K35 Page 5
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
đẩy sự phát triển của chúng ( Batini và Laxton, 2007; Friedman và Ötker-Robe,
2009; Mishkin, 1999). Rõ ràng ở đây có một sự tương tác ngược lại của các yếu
tố điều kiện tiên quyết. Tác động này được giải thích khi có sự hiện diện của
điều kiện tiên quyết. Vì vậy, IT có thể thành công hơn khi những nhân tố này
còn thiếu và cần cải thiện. Khi đó, IT sẽ có tác dụng cải thiện lớn nhất. Trong

phạm vi mà những nhân tố này đang thiếu ở nước có CBI thấp, hoàn toàn có thể
kỳ vọng ảnh hưởng lớn của IT lên nhân tố CBI thấp. Chúng tôi gọi đây là "tác
động cải thiện" của mức CBI thấp. Ngược lại, khi các yếu tố này đã được thực
hiện tốt (ở các nước phát triển), có ít điều kiện để IT cải thiện.
Một ví dụ khác của hiệu ứng này, CBI thấp có thể cho thấy sự tín nhiệm
đối với NHTW thấp, và các kỳ vọng lạm phát thả nổi là yếu, đây là yếu tố giúp
IT có thể có tác động lớn hơn (Bernanke et al, 1999; Mishkin, 1999; Svensson,
1997), trong khi đó nếu một ngân hàng trung ương có uy tín, nó không cần sự tin
cậy và kỳ vọng lạm phát cố định (ball, 2010; Gonçalves và Salles, 2008). Một
lần nữa, chúng tôi mong đợi để xem hiệu ứng mạnh mẽ của IT ở các nước không
có các ngân hàng trung ương độc lập.
Hiệu ứng tác động của CBI thấp tới hiệu quả của IT, phụ thuộc vào sức
mạnh tương đối của các điều kiện tiên quyết và các tác động cải thiện. Nghĩa là
sự chênh lệch về so sánh sức ảnh hưởng của điều kiện tiên quyết và tác động cải
thiện, quyết định đến mức độ ảnh hưởng của CBI lên IT. Bằng cách phân tích
thực nghiệm tác động của CBI đối với diễn biến của chế độ IT, chúng tôi hy
vọng làm sáng tỏ cuộc tranh luận này. Để kiểm tra kết quả, chúng tôi không tìm
thấy bằng chứng về tác dụng có lợi của IT ở các quốc gia tiên tiến hoặc các quốc
gia đang phát triển với mức độ cao của CBI (điều kiện tiên quyết > tác động cải
thiện). Tuy nhiên chúng tôi phát hiện các tác động đáng kể ở các quốc gia đang
phát triển với mức CBI thấp (tác động cải thiện > điều kiện tiên quyết). Những
kết quả trên cho ta nhận định mới về quan điểm cho rằng CBI là một điều kiện
Nhóm 12_BH01K35 Page 6
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
cần thiết cho hiệu quả IT. Hoàn toàn trái ngược, IT chỉ có hiệu quả khi các
NHTW không phải là độc lập, cho thấy tác dụng cải thiện là quan trọng hơn hiệu
ứng điều kiện tiên quyết. Ý nghĩa của nó là các nền kinh tế mới nổi nên áp dụng
IT như là một chiến lược chính sách tiền tệ trước khi CBI tăng cao.
Sau đó, chúng tôi tiến hành phân tích các kênh mà qua đó CBI thấp tại
các nền kinh tế mới nổi, làm tăng hiệu quả của IT (giảm lạm phát). Đặc biệt, sau

khi áp dụng IT, chúng tôi xem xét một vài khía cạnh khác nhau thể hiện nước có
CBI thấp có nhiều tiến bộ so với các nước CBI cao. Ví dụ, thông qua IT có thể
mang lại lợi ích lớn hơn trên thực tế hoặc tăng tính pháp lý trong CBI cho các
quốc gia CBI thấp để giảm lạm phát (Mishkin, 1999; Batini và Laxton, 2007).
Điểm quan trọng hơn là IT có thể mang về sự thống trị về tài chính lớn hơn và
giảm thâm hụt ngân sách ở các quốc gia CBI. Việc tiếp tục tài trợ cho thâm hụt
ngân sách thông qua việc tạo ra tiền sẽ gây nguy hiểm cho việc đạt được các
mục tiêu lạm phát (IMF, 2006). Nên trên thực tế, để giảm lạm phát, các NHTW
buộc phải giảm tối đa thâm hụt ngân sách. IT cũng có thể dẫn đến giảm trách
nhiệm đôla hóa, tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ và khả năng lạm phát
thấp hơn (Mishkin, 2003). IT cũng được kết hợp với những cải tiến nhanh chóng
trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua các NHTW (Batini và Laxton, 2007) và
tăng thông tin liên lạc, minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn (Mishkin và
Schmidt-Hebbel, năm 2001).
Mặc dù chúng tôi không thể xác định tất cả các kênh do hạn chế dữ liệu,
nhưng chúng tôi tìm thấy bằng chứng chỉ sự giảm thâm hụt ngân sách đó là một
kênh quan trọng. Đặc biệt, thâm hụt ngân sách ở các quốc gia CBI thấp giảm
đáng kể, sau khi áp dụng IT, nhiều hơn so với các quốc gia CBI cao. Khi chúng
tôi kiểm soát cho vai trò của thâm hụt ngân sách trong hồi quy điểm chuẩn,
chúng tôi không còn thấy rằng IT là hiệu quả ở các quôc gia CBI thấp. Ngược
lại, chúng tôi lại không tìm thấy bằng chứng cho rằng trách nhiệm pháp lý, đô la
Nhóm 12_BH01K35 Page 7
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
hóa và phát triển tài chính đóng vai trò như là một kênh quan trọng mà qua đó
NHTW có CBI thấp cải thiện hiệu suất lạm phát.
II. Phương Pháp nghiên cứu:
Đầu tiên dựa vào các kết quả trước đó đưa ra nhận định ban đầu. Nghiên
cứu chủ yếu dùng phương pháp phân tích định tính, tập hợp dữ liệu từ các bài
nghiên cứu trước đây. Mục đích chứng minh nhận định ban đầu. sau đó, sử dung
mô hình kinh tế cụ thể qua đó với việc chạy mô hình kiểm chứng các kết quả

trước đây cũng như kết quả đạt được trên lý thuyết.
III. Nội dung và kết quả nghiên cứu:
1. Ảnh hưởng của IT và vai trò của CBI
Trong phần này, chúng tôi giới thiệu mô hình chuẩn của chúng tôi và các dữ liệu
được sử dụng để kiểm tra tác động của IT vào hoạt động kinh tế vĩ mô và vai trò
của CBI. Chúng tôi xem xét một hồi quy của một số chỉ số kết quả kinh tế vĩ
mô:
Yi,t = β1 . Yi,t – 1 + β2 . ITi,t + β3 . CBIi,t + β4 . ( ITi,t * CBIi,t )
+ β5 . HIGHINFLi,t + δt + αi + εi,t
Khi chỉ số i của quốc gia và chỉ số t cùng thời điểm. Các biến kiểm soát
bao gồm một biện pháp của ngân hàng trung ương độc lập, CBI, tương tác với
CBI, và một biến giả cho thấy lạm phát cao, HIGHINFL. Thuật ngữ tương tác IT
* CBI cho phép tác động của IT trên hiệu suất kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào CBI.
Như nêu ở trên, CBI được cho là có thể làm cho IT hiệu quả nhiều hơn hoặc ít
hơn tùy thuộc vào sức mạnh tương đối của các hiệu ứng điều kiện tiên quyết và
tác động cải thiện, do đó hệ số của các thuật ngữ tương tác là mơ hồ. Cuối cùng,
đề cập đến một hiệu ứng thời gian, và một quốc gia cụ thể là thành phần của sai
số.
Để tạo điều kiện thuận lợi so sánh với kết quả trước đó và độc lập bổ
Nhóm 12_BH01K35 Page 8
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
sung thông tin được cung cấp bởi các biện pháp của CBI, chúng tôi sử dụng
cùng một phương trình hồi quy (trừ CBI và thời hạn tương tác của nó) và dự
toán các bước giống như Brito và Bystedt (2010), do đó chúng tôi ước lượng mô
hình sử dụng ước tính hệ thống GMM phát triển trong Arellano và Bover (1995)
và Blundell và Bond (1998) .
I.1 Dữ liệu
Dữ liệu từ năm 1980 đến năm 2006. Sau Brito và Bystedt (2010), chúng
tôi mất khoảng ba năm thực hiện lấy dữ liệu, kết quả là một mẫu với 9 giai đoạn.
Điều này làm giảm hàm số, là bậc hai trong IT, và cũng tao ra điều kiện hợp lý

cho độ trễ của các biến số vĩ mô. Sự tách biệt của hiệu quả cải thiện từ ảnh
hưởng của các sự kiện khác nhau trong "mẫu bao gồm tất cả các nước đã áp
dụng IT” tại thời gian lấy mẫu, cũng như một nhóm nước không phải mục tiêu
nghiên cứu (non-target), và thời gian trước khi áp dụng cho các targeters phục
vụ để kiểm soát. Chúng tôi sử dụng cùng một tập hợp các nền kinh tế mới nổi,
cả hai targeters và non- targeters, Brito và Bystedt (2010), người đã kết hợp của
các mẫu trong Batini và Laxton (2007) và Goncalves và Salles (2008). Sự khác
biệt duy nhất là hai trong số các nước không có dữ liệu về CBI, và vì vậy chúng
tôi chỉ có 44 nền kinh tế mới nổi, không phải 46 nước như họ. Trong hồi quy
riêng, chúng tôi mở rộng mẫu và bao gồm các kinh tế tiên tiến. Nhóm 22 nền
kinh tế tiên tiến được lấy từ Ball (2010) . Tổng hợp lại sẽ cho ra mẫu bao gồm
66 quốc gia.
Cũng tương tự các nghiên cứu khác, chúng tôi xem xét các tác động của
IT trên bốn chỉ số về hiệu suất kinh tế vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng sản lượng,
độ lệch chuẩn của lạm phát, và độ lệch chuẩn của tăng trưởng sản lượng. Lạm
phát và biện pháp tăng trưởng sản lượng tăng trưởng liên tục phức tạp hơn ở chỉ
số giá tiêu dùng và GDP thực tế (nhân cho 100). Giá trị trung bình và độ lệch
chuẩn sau đó được tính cho từng thời kỳ ba năm.
Nhóm 12_BH01K35 Page 9
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
Việc sử dụng của lãi kép liên tục có thay đổi tỷ lệ một phần làm giảm ảnh
hưởng của giá trị ngoại lai.
Ngày áp dụng đối với các nền kinh tế tiên tiến được lấy từ Ball (2010),
các nền kinh tế mới nổi từ Brito và Bystedt (2010), là những người sử dụng kết
quả của Batini và Laxton (2007). Biến IT giả định một giá trị trong một khoảng
thời gian ba năm, nếu một chế độ IT diễn ra trong cả ba năm của thời kỳ này, nó
được thiết lập bằng 2/3 nếu IT diễn ra trong 2 năm, hoặc 1/3 nếu là 1 năm.
Chúng ta có thể giải thích hệ số của biến IT, β
2
, như sau: khi tất cả các yếu tố

khác cân bằng, một quốc gia IT có lạm phát ít hơn so với quốc gia không áp
dụng It là một khoảng β
2
. Nói cách khác, nếu một quốc gia áp dụng IT nó sẽ
giảm lạm phát trung bình β
2
%.
Đối với tác động của CBI, chúng ta xem xét các chỉ số CBI của
Cukierman và các đồng nghiệp (1992), mà là dựa trên khía cạnh độc lập về pháp
lý của NHTW (LEGAL) và chỉ số nhiệm kỳ 10 năm của các thống đốc NHTW
(biến TURNOVER). Các chỉ số nói chung là có sẵn cho đến năm 1989 cho cả
hai nền kinh tế tiên tiến và phát triển và giả định một giá trị mỗi thập kỷ. Các chỉ
số biến thiên từ 0 đến 1, hàm ý rằng giá trị LEGAL càng cao (điều kiện pháp lý
cao) và TURNOVER càng thấp ( nhiệm kỳ thống đốc càng ngắn) thì CBI càng
cao.
Chỉ số LEGAL được mở rộng ra năm 2002 cho 24 nước Mỹ Latinh và
Caribbean bởi Jácome và Vázquez (2005), người cũng đã thêm một vài quốc gia
mới vào mẫu, và thông qua năm 1999 đối với các nước tiên tiến Siklos (2008).
Chỉ số TUNOVER đã được bổ sung với các dữ liệu sau năm 1990 từ Crowe và
Meade (2007) và Dreher, và các đồng nghiệp (2008).
Có ba điểm về những chỉ số trên cần được lưu ý. Đầu tiên, không phải tất
cả các quốc gia áp dụng IT đều có một mức độ CBI cao, và nếu biến CBI thay
Nhóm 12_BH01K35 Page 10
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
đổi đáng kể thì hoàn toàn có thể được khai thác để xác định vai trò của CBI. Thứ
hai, phương pháp phân tích này cung cấp thêm thông tin về CBI, CBI bây giờ
không phải là công cụ độc lập. Theo Batini và Laxton (2007) các NHTW vẫn tồn
tại sự độc lập pháp lý tương đối tại thời điểm áp dụng IT. Tuy nhiên, nhiều
người vẫn còn các khía cạnh khác của CBI được phản ánh qua các biện pháp
pháp lý, bao gồm cả như quyền tự do mua trái phiếu chính phủ, tầm quan trọng

của lạm phát trong những mục tiêu khác, và mức độ ổn đinh cao của vị trí thống
đốc ngân hàng trung ương (Batini và Laxton, 2007). Thêm vào đó, biến
TURNOVER còn cho biết mức độ ổn định theo khía cạnh thực tế. Thứ ba, đối
với các biện pháp pháp lý, những gì được luật pháp ban hành có thể rất khác với
thực tế. Điều này đặc biệt đúng trong các nền kinh tế mới nổi. Tương tự như
vậy, vẫn tồn tại sự độc trên danh nghĩa. Trong thực tế, Cukierman, và các đồng
nghiệp(1992), lập luận rằng biến TUNOVER là thích hợp hơn cho nền kinh tế
mới nổi hơn so với các biến LEGAL, trong khi đối với các nước tiên tiến, các
biện pháp của biến LEGAL có tác dụng hơn. Những vấn đề này sẽ được thảo
luận thêm trong phần 3 và 4.
Cuối cùng, theo tài liệu chúng tôi cho thêm một biến giả là HIGHINFL
để kiểm soát các động lực kinh tế vĩ mô có thể khác nhau ở các nước đang lạm
phát cao (Brito và Bystedt, 2010; Batini và Laxton, 2007, IMF, 2006).
HIGHINFL là biến cho thấy lạm phát trung bình cao (> 40%) trong một khoảng
thời gian. Chúng tôi cũng thử nghiệm loại bỏ giai đoạn lạm phát cao từ mẫu tại
mục 3.1.
1.2 Tóm tắt kết quả thống kê
Kết quả thống kê các quan sát được trình bày trong Bảng 1. Thời gian
được khảo sát được chia thành từng giai đoạn kéo dài 3 năm. Mẫu bao gồm 66
nước, trong đó có 22 nước phát triển và 44 nước mới nổi. Các nước phát triển
đóng góp 27% tổng số quan sát. Các nước phát triển và mới nổi, gộp chung, áp
Nhóm 12_BH01K35 Page 11
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
dụng IT trong khoảng 13% thời gian được khảo sát. Các nước mới nổi có vòng
quay nhiệm kỳ thống đốc NHTW cao hơn, nhưng ngạc nhiên là họ lại có chỉ số
CBI về mặt pháp lý cao hơn một chút. Điều này nhấn mạnh rằng việc đo lường
tính pháp lý có vẻ không phản ánh chính xác tính độc lập của NHTW ở các nước
mới nổi, như Cukierman và các đồng nghiệp (1992) đã nói. Điều này giải thích
cho việc sự độc lập về NHTW trên danh nghĩa của các nước mới nổi. Các nước
mới nổi có tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng sản lượng cao hơn. Các nước

này cũng trải qua những thời kỳ siêu lạm phát, điển hình là chỉ số INFLATION
tới 317 ở một quốc gia mới nổi.
Bảng 2 trình bày tóm tắt các số liệu thống kê được chia theo các loại quốc
gia (tiên tiến hoặc mới nổi), chế độ tiền tệ (áp dụng IT hoặc không áp dụng IT,
theo quy định bởi biến IT), và xa hơn nữa bằng thời kỳ (trước-IT với sau-IT).
Đối với quốc gia phát triển (mới nổi) trước đây không áp dụng IT, bình quân
việc áp dụng IT vào năm 1995 (1999), được sử dụng để phân chia mẫu. Với các
nước phát triển, tác động của IT là cho: lạm phát thấp hơn, tốc độ tăng trưởng
cao hơn, và biến động lạm phát và sản lượng thấp hơn. Hiệu quả này cũng đạt
được ở các quốc gia không áp dụng IT nhưng không lớn.
Mô hình này tương tự cho các nền kinh tế mới nổi, mặc dù những cải thiện
qua thời gian ở các nước áp dụng IT thì đáng kể so với các quốc gia không áp
dụng IT. Ví dụ, các nước mới nổi áp dụng IT có sự giảm lạm phát trung bình là
10%, trong khi các quốc gia không áp dụng IT giảm 4%. Điều này gợi nhớ đến
các kết quả trước đó có được trong các tài liệu bằng cách sử dụng các cách ước
lượng difference-in-difference. Tuy nhiên, nhìn vào lạm phát trung bình trước và
sau khi việc áp dụng IT có thể gây hiểu nhầm và phóng đại các tác dụng có lợi
của IT. Theo Brito và Bystedt (2010), các nước áp dụng IT trải qua lạm phát
trung bình cao hơn những nước không áp dụng IT đến cuối những năm 1980.
Nhưng đến giữa những năm 1990, thời điểm trước khi áp dụng IT các nước áp
Nhóm 12_BH01K35 Page 12
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
dụng IT có lạm phát thấp hơn so với quốc gia không áp dụng IT. Xu hướng lạm
phát này có thể gây ra vấn đề đối với cách ước lượng difference-in-difference .
Kết luận: Bảng 2 cho thấy các nền kinh tế mới nổi, mà bắt đầu với lạm phát
trung bình và biến động lạm phát cao hơn nhiều, thì đạt được sự giảm lạm phát
nhanh hơn so với các nền kinh tế tiên tiến.
Trong bảng 3, chúng tôi tập trung chú ý đến những nền kinh tế mới nổi và
đưa ra các số liệu thống kê dựa trên chính sách tiền tệ, khoảng thời gian, mức độ
của CBI sử dụng TURNOVER đại diện. Cụ thể, chúng tôi trình bày bảng thống

kê tóm tắt về TURNOVER>0.26 và TURNOVER<0.26. Có thể giải thích
TURNOVER=0.26 là mức giới hạn phân chia mà ảnh hưởng của IT lên lạm phát
trung bình (có mức ý nghĩa 10%). Đây cũng là giá trị trung bình của
TURNOVER( trung vị là 0.2).
Những nước áp dụng IT với TURNOVER thấp (CBI cao), trung
bình( trung vị) của lạm phát giảm 11 % (mức 8.7) sau khi áp dụng IT, so với
những nước ko áp dụng IT thì giảm 8 % ( mức 4.85). Những nước áp dụng IT
với TURNOVER >= 0.26, trung bình( trung vị) của lạm phát giảm 55 % (mức
20), trong khi những nước ko áp dụng IT giảm 22 % (mức 5) .
Vì vậy, những nước TURNOVER cao(CBI thấp) lạm phát giảm nhiều hơn
không phụ thuộc vào chính sách tiền tệ, hơn là những nước CBI cao. Đây là
biểu hiệncủa thống trị tài chính. Thêm vào đó, với mức CBI không đổi, những
nước áp dụng IT có sự cải thiện lạm phát nhiều hơn những nước không áp dụng
IT. Cuối cùng, đối với những nhóm nước có CBI thấp, sự biến động về mức độ
giảm lạm phát qua thời gian giữa những nước áp dụng IT và những nước không
áp dụng IT là lớn hơn. Vì thế, kết luận sơ bộ cho thấy rằng, ở những nước CBI
thấp, IT làm giảm lạm phát nhiều hơn so với các chính sách tiền tệ khác.
Mối quan hệ giữa TURNOVER và thâm hụt ngân sách thì tương tự như
Nhóm 12_BH01K35 Page 13
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
trên. Cụ thể là, cả TURNOVER và thâm hụt ngân sách ở các nước CBI cao đều
không thay đổi nhiều hoặc chỉ tăng nhẹ, cho dù các nước này có thực hiện IT
hay không. Đối với các nước CBI thấp có hoặc không thực hiện IT, thâm hụt
ngân sách đều giảm; nhưng mức giảm trung bình của các nước có thực hiện IT
(từ thâm hụt 3.2% thành thặng dư 0.1%) nhiều hơn mức giảm trung bình của các
nước không thực hiện IT (từ thâm hụt 1.1% thành thặng dư 0.8%). Điều này
khớp với giả thuyết cho rằng việc áp dụng IT thúc đẩy chính phủ của các nước
có CBI thấp gia tăng kỷ luật tài khóa, giảm nhu cầu in tiền để tài trợ cho thâm
hụt ngân sách, theo đó làm giảm tỷ lệ lạm phát trung bình. .
Với những nước áp dụng IT có TURNOVER thấp (CBI cao), giá trị trung

bình và trung vị của biến động lạm phát, giảm tương ứng 3% và 1% sau khi áp
dụng IT, trong khi ở các nước không áp dụng IT thì mức giảm tương ứng là 4%
và 2%. Ở các nước áp dụng IT với TURNOVER >0.26, các giá trị này giảm
tương ứng 19% và 3%; ở các nước không áp dụng IT, mức giảm tương ứng là
7% và 2%. Cho nên có thể kết luận: thứ nhất, với những nước có TURNOVER
cao (CBI thấp), biến động lạm phát giảm nhiều hơn các nước CBI cao, không
phụ thuộc vào chính sách tiền tệ. Thứ hai, trong số các nước TURNOVER thấp,
những nước không áp dụng IT có tiến bộ nhiều hơn những nước áp dụng; còn
trong số các nước TURNOVER cao thì ngược lại. Như vậy có nghĩa là IT có
hiệu quả hơn những chính sách tiền tệ khác, ở những nước CBI thấp.
Với các nước áp dụng IT có TURNOVER thấp (CBI cao), giá trị trung bình
và trung vị của tăng trưởng tăng tương ứng 1% và 1.2% sau khi áp dụng IT;
trong khi ở các nước không áp dụng IT thì mức tăng tương ứng là 1.2% và 1%.
Ở các nước áp dụng IT với TURNOVER >= 0.26, các giá trị này tăng tương
ứng 0.6% và 1.4%; ở các nước không áp dụng IT với TURNOVER >= 0.26,
mức tăng tương ứng là 0.4% và 1.4%. Như vậy, những kết quả ban đầu cho thấy
các nước có và không áp dụng IT đều có tăng trưởng tăng giống nhau, và xu
Nhóm 12_BH01K35 Page 14
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
hướng tăng này không đáng kể so khi CBI tăng dần.
Cuối cùng, đối với các nước có áp dụng IT có TURNOVER thấp (CBI
cao), biến động của tăng trưởng trung bình (trung vị) giảm 1,3% (0,8)%, trong
khi các nước không áp dụng IT giảm 1,8% (1,1%). Còn các nước áp dụng IT có
TURNOVER cao, biến động của tăng trưởng trung bình giảm 1,2% (1,6%),
trong khi các nước không áp dụng IT giảm 0,5% (0,65%). Theo thời gian, với
các nước có TURNOVER thấp, nước không áp dụng IT được cải thiện hơn
những nước áp dụng IT, điều ngược lại đúng đối với các nước có TURNOVER
cao. Các kết luận sơ bộ đồng ý là IT thực hiện tốt hơn so với các chế độ khác ở
quốc gia CBI thấp.
Bảng 4 trình bày các mối tương quan của mẫu nhỏ với mẫu lớn, ở các

nước tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi. IT có liên quan với lạm phát trung
bình thấp, biến động lạm phát, và sự biến động tăng trưởng đối với các nền kinh
tế tiên tiến và mới nổi. IT tương quan với tốc độ tăng trưởng trung bình thấp
trong các mẫu đầy đủ đối với các nền kinh tế mới nổi, nhưng tương quan với tốc
độ tăng trưởng cao đối với các nền kinh tế tiên tiến. Theo dự kiến, LEGAL và
TURNOVER là tương quan âm. Hơn nữa, lạm phát và biến động lạm phát có
mối tương quan âm với LEGAL, trong khi chúng đang có mối tương quan
dương với TURNOVER trong các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, đối với các
nước tiên tiến, dấu hiệu của sự tương quan giữa cả lạm phát, biến động lạm phát
và TURNOVER lại âm. Như đã đề cập trong Cukierman, và các đồng nghiệp
(1992), TURNOVER không phải là một giải pháp tốt của CBI cho các quốc gia
tiên tiến, trong khi LEGAL không là biểu hiệu của CBI trong các nền kinh tế
mới nổi. Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề này trong phần kết quả nghiên cứu tiếp
theo.
2. Kết quả:
Nhóm 12_BH01K35 Page 15
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
Bảng 5 trình bày kết quả từ phương trình (1) mà không có chỉ số CBI, để
so sánh với những kết quả trước đây. Tuy nhiên, chúng tôi hạn chế lấy mẫu từ
các quốc gia có dữ liệu trên CBI. Trong dự báo tiêu chuẩn GMM , chúng tôi
xem xét sự tương tác của hai biến IT và CBI để tìm ra ảnh hưởng của CBI lên
lạm phát. Các biến khác được cho trước.
Vì chúng tôi cho rằng lạm phát hiện nay không ảnh hưởng đến việc áp dụng
IT mặc dù trong quá khứ nó có thể ảnh hưởng. Nên trong phần 3.2, chúng tôi thử
nghiệm với việc xử lý các biến IT và CBI là “biến nội sinh”. Giả thiết HIGHINF
được xử lý như là một biến nội sinh trong tất cả các hồi quy.
Kết quả cho thấy rằng, IT so với các chính sách tiền tệ khác, làm giảm lạm
phát trung bình 1,7 điểm phần trăm, ở các nước tiên tiến 0,34 điểm phần trăm
(không đáng kể), và trong các nền kinh tế mới nổi 2,0 điểm phần trăm. Kết quả
cho cả các nước tiên tiến cũng như các nền kinh tế mới nổi phù hợp với phần lớn

các nghiên cứu trước đây. Trong khi IT được dự kiến sẽ giảm biến động lạm
phát (Cecchetti và Ehrmann, 2002), thì những dữ liệu lại cho thấy rằng IT không
có ảnh hưởng đáng kể trong việc giảm biến động lạm phát. Trong thực tế, kết
quả này phù hợp với Brito và Bystedt (2010), nhưng không phù hợp với Lin và
Ye (2009) và Batini và Laxton (2007), những người cho rằng IT làm giảm biến
động lạm phát. Ảnh hưởng không đáng kể đối với các nền kinh tế tiên tiến phù
hợp với kết luận của Ball (2010).
Phần còn lại bảng 5 nghiên cứu về biến tăng trưởng kinh tế GROWTH. Ta
thấy IT làm giảm tốc độ tăng trưởng trung bình tổng thể (-0.75) và các nền kinh
tế mới nổi (-1.26), nhưng lại là tăng tốc độ tăng trưởng đối với các nền kinh tế
tiên tiến (0.63). Kết quả thực tế cho nền kinh tế mới nổi phù hợp với Brito và
Bystedt (2010), nhưng kết quả đối với các nền kinh tế tiên tiến tương phản với
Ball (2010), cho rằng IT không ảnh hưởng lên nền kinh tế tiên tiến. Cột 4-6
trong bảng cuối cùng chỉ ra rằng IT có tác động tiêu cực nhưng không đáng kể
Nhóm 12_BH01K35 Page 16
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
vào biến động tăng trưởng trong tổng thể (p-value = 0,14) và đối với các nền
kinh tế mới nổi (p-value = 0,24) nhưng hiệu quả tích cực và không đáng kể đối
với các nền kinh tế tiên tiến. Kết quả cho nền kinh tế mới nổi là tương tự như
Brito và Bystedt (2010), Batini và Laxton (2007), và Gonçalves và Salles (2008),
người đã tìm thấy một tác động tiêu cực và ảnh hưởng đáng kể. Kết quả phù hợp
với các nền kinh tế tiên tiến Ball (2010). Cuối cùng, HIGHINFL có mối liên hệ
mật thiết với mức lạm phát trung bình cao hơn, biến động lạm phát, và sự gia
tăng các biến động, nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình lại thấp hơn. Đối với
các nền kinh tế tiên tiến, biến trên được bỏ qua do đa cộng tuyến ở một số nước
đã trải qua lạm phát cao trong một thời gian dài.
Bảng 6 trình bày kết quả từ dự báo của phương trình (1) với mức lạm phát
trung bình là biến phụ thuộc, lúc này bao gồm CBI và tương tác của nó tới IT.
Chúng tôi đưa ra kết quả cho tổng thể, các nước tiên tiến, và các nền kinh tế mới
nổi bằng cách sử dụng hoặc LEGAL hoặc TURNOVER là đại diện cho ảnh

hưởng của CBI. Để kiểm tra hiệu quả của IT, chúng tôi sử dụng các hệ số của IT
và IT * CBI. Đối với tổng thể trong (1), kết quả hàm ý rằng nó không có hiệu
lực đối với lạm phát, ngay cả khi độc lập. Đối với tổng thể trong (2), tuy nhiên,
hệ số của IT * TURNOVER là tiêu cực và có ý nghĩa, ngụ ý rằng IT có hiệu quả
hơn trong việc giảm lạm phát trong nước mà có nhiệm kỳ thống đốc NHTW lâu
hơn. Đặc biệt, tác động của IT đối với lạm phát là 36,3 điểm phần trăm ở các
quốc gia có TURNOVER cao nhất, so sánh với những nước thấp nhất, “nếu các
điều kiện khác không đổi”
10
. Hơn nữa tính toán khác cho thấy tác dụng của nó là
tiêu cực nhưng chỉ đối với các nước TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0,26, lớn
hơn một chút so với mức trung bình của tổng thể. Kích thước của các tác động
dự đoán về lạm phát trung bình khi TURNOVER bằng 0,26 là khoảng -3,0 điểm
phần trăm. Hiệu ứng này làm tăng tăng TURNOVER tối đa -29,9% cho một
quốc gia với TURNOVER bằng một. Vì vậy, tác dụng của nó đối với lạm phát
trung bình trong các mẫu đầy đủ phụ thuộc vào mức độ của CBI. Hiệu ứng này
Nhóm 12_BH01K35 Page 17
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
là hiển nhiên, tuy nhiên, chỉ khi chúng ta sử dụng TURNOVER như là thước đo
CBI. Chúng tôi sẽ giải thích một cách ngắn gọn trong trường hợp này.
Đối với các nước tiên tiến, IT không có ảnh hưởng đáng kể tới tất cả các
giá trị LEGAL trong cột (3) và TURNOVER trong cột (4). Đối với các nền kinh
tế mới nổi trong bảng chi tiết (5), IT ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát đối
với bất kỳ giá trị của LEGAL. Ngoài ra, hệ số IT * LEGAL là không đáng kể,
ngụ ý các yếu tố khác cân bằng, sự độc lập hợp lý không làm thay đổi tác động
của IT đối với lạm phát.Tuy nhiên, các kết quả trong bảng (6) hàm ý rằng tác
động của IT khác 57 điểm phần trăm ở các nước có TURNOVER cao nhất so
với những nước có TURNOVER thấp nhất, khi tất cả các yếu tố khác cân bằng
(chúng tôi đề cập tới các hệ số lớn và bất thường này tại Mục 3.1). Cụ thể, tác
động của nó là tích cực đáng kể ở mức ý nghĩa 10% trong khoảng TUNOVER

lớn hơn hoặc bằng 0,06 (bốn quốc gia và 11 quan sát). Ngược lại, hiệu quả là
đáng kể tiêu cực ở mức 10% khi doanh thu là lớn hơn hoặc bằng 0,26 (25 quốc
gia và 114 quan sát), là mức trung bình của các nền kinh tế mới nổi. Đối với các
quan sát với doanh thu từ 0,06 và 0,26 (34 quốc gia, 175 quan sát), IT không có
tác dụng đáng kể. Điều này được mô tả trong Bảng số liệu 1, trong đó trình bày
tác động biên của IT đối với lạm phát tại các nền kinh tế mới nổi cho các giá trị
khác nhau của doanh thu và độ tin cậy khoảng 90%.
Tóm lại, các kết quả trong bảng (6) có nghĩa là, hầu như không có ảnh
hưởng đáng kể khi TURNOVER ít hơn 0,26, nhưng đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm lạm phát đối với các chế độ tiền tệ khác, cho nhiều nền kinh tế
mới nổi với kim ngạch trên 0,26. Khoảng tác động dự đoán về lạm phát khi
TUNOVER bằng 0,26 -4,6 điểm phần trăm. Hiệu ứng này làm tăng
TURNOVER tối đa 46,6 điểm phần trăm khi TUNOVER bằng một.
Cuối cùng, hệ số LEGAL không đáng kể trong cả ba mẫu. Các hệ số
TUNOVER có dấu hiệu dự đoán tích cực và có ý nghĩa quan trọng trong các
Nhóm 12_BH01K35 Page 18
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
mẫu đầy đủ và đối với các nền kinh tế đang nổi lên, ngụ ý rằng CBI thấp có liên
quan với lạm phát cao hơn. Tuy nhiên, trong các mẫu đầy đủ và các nền kinh tế
mới nổi, các hệ số của doanh thu và IT *TUNOVER tương đương về độ lớn
nhưng ngược nhau. Điều này cho thấy rằng IT có thể để trung hòa ảnh hưởng
của CBI thấp về lạm phát.
Như đã đề cập ở trên, chúng tôi tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng IT làm
giảm lạm phát tương đối so với các chế độ khác trong các mẫu đầy đủ, khi
chúng ta sử dụng TURNOVER như là ảnh hưởng của CBI. Biến LEGAL không
có hiệu lực đối với các nước tiên tiến, dường như không ảnh hưởng từ IT. Nó
cũng không có ảnh hưởng tới các nền kinh tế mới nổi, mặc dù nhiều nền kinh tế
nhận được tác động có ích từ IT, có lẽ là bởi vì các biện pháp pháp lý độc lập ít
chính xác hơn ở các nước đang phát triển (Cukierman,và các đồng nghiệp,
1992). Trong khi đó, TUNOVER có ảnh hưởng mạnh mẽ tại các nền kinh tế mới

nổi nhưng hiệu quả nhỏ hơn và thống kê yếu hơn (mặc dù vẫn còn đáng kể)
trong các mẫu đầy đủ. Sự suy giảm tầm quan trọng và ý nghĩa với các mẫu đầy
đủ có thể được giải thích bởi thực tế rằng một số nước tiên tiến có tỷ lệ
TURNOVER cao hơn so với các nước đang phát triển, nhưng vẫn không chịu
những tác động có lợi của IT. Cukierman, và các đồng nghiệp, (1992) lập luận
rằng biện pháp này là ít dấu hiệu của CBI cho các quốc gia tiên tiến hơn so với
các biện pháp pháp lý. Trong các mẫu đầy đủ, hiệu quả của TURNOVER, cho
dù có yếu, vẫn còn đáng kể. Lý do là các nước tiên tiến có tỷ lệ TURNOVER
thấp hơn trung bình và ảnh hưởng thấp hơn so với các nền kinh tế mới nổi, trong
khi các nền kinh tế mới nổi với tỷ lệ TURNOVER cao làm giảm lạm phát mạnh
hơn, so với những nước có tỷ lệ TURNOVER thấp.
Bảng 7 trình bày các kết quả từ phương trình (1) với biến động lạm phát là
biến phụ thuộc. Bất kể giá trị của TUNOVER hay LEGAL, tác dụng của nó là
không đáng kể trong các mẫu đầy đủ và đối với các nền kinh tế mới nổi. Tuy
Nhóm 12_BH01K35 Page 19
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
nhiên đối với các nền kinh tế tiên tiến IT làm tăng đáng kể biến động lạm phát,
khi LEGAL có giá trị lớn hơn hoặc bằng 0,51 (cao hơn một chút so với trung
bình của 0,42) . Kích thước của tác động dự kiến trên phạm vi biến động lạm
phát từ 0,9 điểm phần trăm (LEGAL bằng 0,51) đến 3.7 (LEGAL bằng 1,0). Vì
vậy IT trong các nền kinh tế có CBI cao dẫn đến một sự gia tăng tương đối biến
động lạm phát so với nước CBI thấp. Điều này không đúng với trường hợp
TURNOVER trong các nền kinh tế tiên tiến.
Bảng 8 trình bày các kết quả của phương trình (1) với tốc độ tăng trưởng
trung bình là nghiên cứu. Trong các mẫu đầy đủ, IT được kết hợp với tốc độ
tăng trưởng thấp ở các nước có CBI thấp khi chúng ta sử dụng TURNOVER là
tác động củaCBI. Cụ thể, IT không ảnh hưởng đến tất cả các giá trị của LEGAL,
nhưng lại có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể khi TUNOVER lớn hơn 0,21. Trong
các nền kinh tế tiên tiến, tác dụng của nó là tích cực và đáng kể cho LEGAL
giữa 0,22 và 0,46, với sự gia tăng tăng trưởng từ 1,5 đến 1,0 điểm phần trăm.

Hiệu quả là không đáng kể cho tất cả các giá trị TURNOVER. Đối với các nền
kinh tế mới nổi, tác động của IT là không đáng kể cho tất cả các giá trị của
LEGAL. Tuy nhiên, hiệu quả là tiêu cực đáng kể cho TURNOVER lớn hơn hoặc
bằng 0,13. Hiệu ứng này dao động từ -0,9 điểm phần trăm khi TUNOVER bằng
0,13 - 4,3 điểm phần trăm khi TURNOVER bằng một. Vì vậy, một số lượng lớn
của các nền kinh tế tiên tiến với mức CBI thấp được hưởng mức tăng trưởng cao
hơn so với các chế độ khác là một kết quả của IT, trong khi một số lượng lớn
của các nền kinh tế mới nổi có CBI thấp, tăng trưởng thấp hơn. Lưu ý rằng các
giả định lạm phát cao vẫn còn bao gồm trong dự toán để dễ dàng so sánh với các
tài liệu trước đây đã bao gồm biến này và bởi vì lạm phát cao có thể tăng tác
động thực tế.
Bảng 9 trình bày các kết quả từ phương trình (1) với biến động tăng trưởng
là biến phụ thuộc. Đối với mẫu đầy đủ, IT có một hiệu ứng nhỏ nhưng đáng kể
Nhóm 12_BH01K35 Page 20
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
tiêu cực cho các giá trị TURNOVER rất thấp. Đối với các nền kinh tế phát triển,
IT có một hiệu ứng nhỏ nhưng có ý nghĩa tích cực cho các giá trị trung bình của
LEGAL. Đối với các nền kinh tế mới nổi, không có hiệu lực bất kể LEGAL hay
TURNOVER.
2.1 Lạm phát ở các nền kinh tế mới nổi:
Các hệ số IT lớn như TURNOVER, và IT *TUNOVER trong cột (6) của
Bảng 6 cho thấy rằng các quan sát có lạm phát cao có thể có ảnh hưởng lớn đến
kết quả, mặc dù bao gồm các biến giả lạm phát cao. Sau đây, chúng tôi không
tập trung đến biến TURNOVER như một tác động của CBI. Như đã đề cập trước
đây, chúng tôi không tìm thấy bằng chứng cho thấy nó có tác động tới lạm phát
bằng cách sử dụng LEGAL, nó không phản ánh chính xác CBI đối với các nền
kinh tế mới nổi. Trong Bảng 10, chúng tôi trình bày kết quả bỏ qua các quan sát
lạm phát lớn hơn 100% hoặc 40%. Nếu bỏ qua lạm phát lớn hơn 100% (40%)
kết quả sẽ mất đi 23 (56) quan sát. Kết quả nhìn chung là tương tự nhưng ít
chính xác hơn so với những báo cáo trong bảng 5 và 6. Đặc biệt, trong cột (1),

nơi chúng tôi hạn chế lạm phát ít hơn 100%, hệ số IT*TUNOVER là không
đáng kể, mặc dù chúng tôi vẫn thấy rằng ảnh hưởng chung của IT là tiêu cực và
đáng kể khi TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0,25. Kích thước của các tác động
dự đoán về lạm phát khi TUNOVER bằng 0,25 (1,4 điểm phần trăm). Ảnh
hưởng của tăng trưởng là TURNOVER tăng lên tối đa là -8,6 điểm phần trăm
khi TUNOVER bằng một.
Khi chúng tôi giới hạn lạm phát dưới 40% trong cột (2), hệ số của
IT*TUNOVER lại tiêu cực nhưng không đáng kể. Hơn nữa, tác động của IT là
nhỏ và không đáng kể cho tất cả các giá trị TURNOVER. Điều này cho thấy
rằng quan sát có lạm phát cao đã ảnh hưởng lớn đến kết quả. Điều này không có
gì đáng ngạc nhiên khi trong hồi quy chuẩn của chúng tôi cho thấy ảnh hưởng
mạnh của IT tới các nước có CBI thấp các nước mà có tỷ lệ lạm phát cao hơn
Nhóm 12_BH01K35 Page 21
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
nhiều trước khi sử dụng IT. Theo như thảo luận sau này, tỷ lệ lạm phát cao có
nhiều khả năng là do phát hành tiền để giảm thâm hụt trong môi trường CBI
thấp. Loại bỏ các yếu tố đó trong mẫu quan sát, khi đó IT là hiệu quả nhất.
2.2 Các khảo sát tích cực.
Chúng tôi tiến hành một số khảo sát để kiểm tra tính chính xác của các kết
quả của chúng tôi. Trong Bảng 6-10, chúng tôi coi IT được xác định trước. Tuy
nhiên, nó là có thể xảy ra mối quan hệ nhân quả ngược lại do yếu kém từ hiệu
suất kinh tế vĩ mô như lạm phát cao thông qua IT. Ngoài ra, một biến bỏ qua có
thể ảnh hưởng đến cả hiệu suất kinh tế vĩ mô và IT. Tương tự như vậy, kinh tế vĩ
mô hiệu suất có thể thay đổi CBI, hoặc thứ ba, bỏ qua biến có thể dẫn dắt cả CBI
và hiệu suất kinh tế vĩ mô. Là một bài khảo sát mạnh mẽ đầu tiên, chúng tôi lại
ước lượng mô hình và xử lý cả IT và CBI như biến nội sinh. Các bảng theo yêu
cầu. Đối với lạm phát trung bình, kết quả là gần giống với Bảng 6. Để lạm phát
ổn định, sự khác biệt duy nhất là đối với các nền kinh tế tiên tiến, IT không có
hiệu lực bất kể giá trị của LEGAL. Đối với tăng trưởng trung bình, kết quả khác
nhau là IT có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể cho các giá trị LEGAL thấp. Đối với

tăng trưởng ổn định, kết quả là hầu như giống hệt nhau. Vì vậy, đối với hầu hết
các phần, kết quả là rất tương tự khi cho vào biến nội sinh có thể của IT hay cả
IT và CBI.
Thứ hai, độ trễ lạm phát và TURNOVER là tương quan tích cực. Mặc dù
chúng tôi đã dùng lạm phát có độ trễ như là một biến độc lập, chúng tôi bỏ qua
thời kỳ tương tác IT * INFLt-1 trong hồi quy chuẩn. Điều này có thể gây ra sự
chênh lệch giảm ước tính hệ số IT*TUNOVER, kể từ khi áp dụng IT có thể có
hiệu quả hơn trong việc giảm lạm phát khi tỷ lệ lạm phát có độ trễ cao (tức là hệ
số của IT * INFLt-1 là âm). Do đó, chúng tôi thêm biến IT * INFLt-1 như là một
biến độc lập bổ sung. Các kết quả trong hồi quy lạm phát không thay đổi.
Nhóm 12_BH01K35 Page 22
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
Thứ ba, chúng ta sử dụng ngày bắt đầu thay thế cho việc áp dụng IT từ
Gonçalves và Salles (2008), một chút khác nhau từ Batini và Laxton (2007),
những người chỉ phân loại một quốc gia đã thông qua IT sau khi sử dụng đầy đủ
các mục tiêu khác với mục tiêu lạm phát (Mishkin, 2000).
Kết quả là hầu như giống hệt nhau.Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy kết quả
tương tự như khi chúng ta loại trừ biến giả cho lạm phát tăng cao.
3. Các kênh
Trong phần này, chúng tôi nghiên cứu các kênh mà qua đó mức độ CBI
thấp tại các nền kinh tế mới nổi làm tăng tương đối hiệu quả so với các chế độ
tiền tệ khác. Chúng tôi quan tâm đến lạm phát trung bình trong phần này. Chúng
tôi cho rằng CBI thấp có thể tác động làm cho một số yếu tố góp phần trong sự
thành công của chính sách tiền tệ bị mất đi. Bởi vì việc áp dụng IT có thể thúc
đẩy sự phát triển của một số yếu tố này (Batini và Laxton, 2007; Friedman và
Ötker-Robe, 2009; Mishkin, 1999), có nhiều nơi để cải thiện môi trường CBI
thấp. Vì vậy, IT có thể có tác động mạnh mẽ hơn khi CBI thấp là một kết quả
của hiệu ứng cải thiện.
Đầu tiên, IT có thể thúc đẩy sự nới lỏng của CBI. Đặc biệt, bằng cách nhấn
mạnh khả năng của các NHTW để kiểm soát lạm phát trong thời gian dài và

không có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài, IT có thể giảm áp lực
chính trị đối với các NHTW theo đuổi chính sách mở rộng sự độc lập (Mishkin,
1999). Như vậy, IT có thể làm giảm nhiệm kỳ thống đốc ngân hàng trung ương
(TUNOVER). Tương tự như vậy, quyền tự chủ trong một số trường hợp đã được
cấp đồng thời với việc áp dụng IT (Batini và Laxton, 2007). Ví dụ, nhiều nước
đã thông qua luật cho các NHTW thẩm quyền để thiết lập lãi suất (Freedman, và
Ötker-Robe, 2010). Phạm vi cải thiện CBI là lớn hơn khi CBI ban đầu thấp, CBI
thấp có thể cho phép IT có tác động lớn hơn về thực hiện chính sách tiền tệ.
Nhóm 12_BH01K35 Page 23
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
Trong thực tế, theo báo cáo trong các số liệu thống kê tóm tắt trong Bảng 3,
TUNOVER trung bình giảm từ 0,47 đến 0,39 trong nước CBI thấp sau việc
thông qua IT, trong khi đó phần lớn là không thay đổi cho các nước khác. Hồi
quy của chúng tôi đã làm rõ kênh này, kể từ khi chúng tôi thêm vào các thuật
ngữ tương tác IT * CBI. Tuy nhiên, chúng ta không có thể cô lập các hiệu ứng
của kênh này để xác định độ lớn của nó.
Thứ hai, và liên quan đến CBI, là tầm quan trọng của kỷ luật tài chính, góp
phần vào độ tin cậy của bất kỳ khuôn khổ chính sách tiền tệ bằng cách giảm sự
cần thiết để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thông qua việc tạo ra tiền. Một lần
nữa, IT có thể có lợi ích trong lĩnh vực này là tốt, thêm hỗ trợ cho sự bền vững
về tài chính bằng cách làm nổi bật sự không thống nhất của một mục tiêu lạm
phát thấp và thiếu kỷ luật tài chính (IMF, 2006). Tương tự như vậy, liên quan
đến các chính phủ trong việc thiết lập các tỷ lệ lạm phát có thể giúp hạn chế
chính sách tài chính (Mishkin, 2000). CBI thấp là khả năng cung cấp một môi
trường, mà tài chính công có thể mất kiểm soát vì nó là dễ dàng hơn cho lưu
hành tiền tệ. Một lần nữa, nó tạo ra nhiều thuận lợi là nhiều khả năng là đáng kể
khi CBI thấp. Các số liệu thống kê tóm tắt từ Bảng 3 hỗ trợ cho tuyên bố này,
nước có CBI thấp, giảm thâm hụt ngân sách của họ sau khi áp dụng IT. Khi
chúng tôi thêm vào thâm hụt ngân sách hồi quy (% của GDP) của chính nó và
tương tác với IT, hệ số IT* TUNOVER trở nên nhỏ hơn và không đáng kể (p-

value = 0,34). Điều này cho thấy thâm hụt ngân sách thấp hơn là một kênh thông
qua đó IT giúp giảm lạm phát trong nước có CBI thấp.
Thứ ba, đô la hóa trách nhiệm mở rộng làm thay đổi việc truyền tải chính
sách tiền tệ và tạo ra khó khăn trong việc thực hiện IT (Mishkin, 2003). Đặc biệt,
việc giảm lãi suất có nghĩa là để kích thích tổng cầu có thể có tác dụng ngược lại
nếu nó giảm giá tỷ giá hối đoái. Cả hai IT và CBI có thể ảnh hưởng đến mức độ
đô la hóa như chính sách tiền tệ đáng tin cậy có thể làm giảm nhu cầu các khoản
Nhóm 12_BH01K35 Page 24
Tiểu Luận tài Chính Quốc tế. GVHD: ThS. Đinh Thị Thu Hồng
vay bằng đô la (IMF, 2006). Vì vậy, để mức độ CBI thấp làm tăng đô la hóa
trách nhiệm, có thể có nhiều nơi cho đô la giảm sau khi áp dụng IT. Để làm rõ
được đô la hóa trách nhiệm, chúng tôi thêm vào tiền gửi ngoại tệ như là một
phần của tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong nước. Hệ số tương quan
giữa các biến này và doanh thu là 0,14, cho thấy mối liên hệ giữa hai biến. Sự
bao gồm của biến này và tương tác của nó với IT, tuy nhiên kết quả không thay
đổi, cho thấy rằng đây không phải là một kênh thông qua đó CBI ảnh hưởng đến
hiệu suất IT.
Thứ tư, thị trường tài chính không hoàn hảo ảnh hưởng đến sự thành công
của IT vì hạn chế khả năng của các NHTW để ảnh hưởng đến lãi suất đối với
các hộ gia đình và các công ty (IMF, 2006). Vì lý do này, việc thực thi IT trong
một số trường hợp được đi kèm với bảo đảm an toàn quy định và giám sát để
tăng cường hệ thống tài chính. Trong phạm vi cải cách tài chính xảy ra nhiều
hơn trong quốc gia áp dụng IT, IT có thể có thành công hơn so với các chính
sách khác, đặc biệt là khi hệ thống tài chính ban đầu là kém phát triển. Hơn nữa,
CBI cao có thể thúc đẩy phát triển hệ thống tài chính bằng cách cung cấp lạm
phát thấp và ổn định. Chúng tôi sử dụng các cổ phiếu giao dịch tỷ lệ doanh thu
(tương quan với TUNOVER = -0,13) và vốn hóa thị trường chứng khoán như là
một phần của GDP (tương quan với TUNOVER= -0,17) để kiểm tra sự phát
triển hệ thống tài chính. Một lần nữa, kết quả là không thay đổi, cho rằng điều
này không phải là một kênh thông qua đó CBI ảnh hưởng đến hiệu suất IT.

Thứ năm, CBI thấp có thể hàm ý sự tín nhiệm ngân hàng trung ương và các
kỳ vọng lạm phát thả nổi yếu, cho thấy rằng IT có thể có tác động lớn (Bernanke
et al, 1999; Mishkin, 1999; Svensson, 1997), trong khi đó nếu một ngân hàng
trung ương đã có đủ sự tin cậy, nó có thể không yêu cầu độ tin cậy bổ sung và
kỳ vọng lạm phát cố định mà đi kèm với IT (ball, 2010; Gonçalves và Salles,
2008). Một lần nữa, chúng tôi mong đợi để xem hiệu ứng mạnh mẽ IT ở các
Nhóm 12_BH01K35 Page 25

×