Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án môn Thanh toán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.96 KB, 29 trang )

1
Tổng hợp câu hỏi và đáp án môn Thanh toán quốc tế
Câu 1: Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân khiến các DN Việt Nam
chưa sử dụng nghiệp vụ hối đoái quyền chọn vì phí quyền chọn khi không thực
hiện hợp đồng không biết hạch toán vào đâu do chính sách tài chính quy định chưa
đầy đủ. Nhóm bạn có giải pháp j cho vấn đề này?
Trả lời: Xác định giá trị thực tế tài sản theo hợp đồng quyền chọn mua
Nếu doanh nghiệp mua tài sản theo hợp đồng quyền chọn, giá trị thực tế của tài sản
bao gồm:
+ Cộng các yếu tố:
- Phí quyền chọn.
- Giá thực hiện tại thời điểm đáo hạn hợp đồng.
- Các loại thuế không được hoàn lại (nếu có).
- Các chi phí đàm phán hợp đồng, vận chuyển, bốc dỡ,…
+ Loại trừ các yếu tố:
- Chiết khấu thương mại, giảm giá (nếu có).
Bên cạnh đó, tại thời điểm đáo hạn hợp đồng nếu giá thị trường lớn hơn giá thực
hiện thì phần chênh lệch (lãi) sẽ được ghi giảm giá vốn (đối với hàng tồn kho) hoặc
phản ánh vào thu nhập khác (đối với TSCĐ, bất động sản đầu tư) và ngược lại,
doanh nghiệp không nên thực hiện hợp đồng.
Câu 2: Tại sao lãi suất ảnh hưởng đến giá cả quyền chọn?
Trả lời:
Bởi vì yếu tố lãi suất có ảnh hưởng đến tỷ giá trong một thời hạn nhất định
và điều đó làm thay đổi tỷ giá thực hiện mà ngân hàng chào cho các công ty.
2
Như chúng ta đã biết một trong những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả quyền chọn
là tỷ giá thực hiện. Vậy lãi suất ảnh hưởng một cách gián tiếp đến giá cả quyền
chọn.
Câu 3: Làm sao để định giá chính xác được một hợp đồng quyền chọn trên thị
trường?
Trả lời:


Để định giá một hợp đồng quyền chọn ta dựa vào một số yếu tố như:
- Tỷ giá thực hiện (strike or exercise price):
Tỷ giá thực hiện là tỷ giá áp dụng để tính toán trong mua bán ngoại
tệ nếu như người mua thực hiện hợp đồng quyền chọn. Việc ra giá một
quyền chọn (premium) trước hết tùy thuộc vào tỷ giá thực hiện. Giá bán
hợp đồng quyền chọn mua tăng khi tỷ giá thực hiện giảm và giá bán
hợp đồng quyền chọn bán tăng khi tỷ giá thực hiện tăng. Cả hai trường
hợp, chọn mua và chọn bán, chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá
thực hiện quyết định giá bán tối thiểu của quyền chọn. Nếu giá bán tối
thiểu của quyền chọn thấp hơn mức chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và
tỷ giá thực hiện thì một cơ hội kinh doanh chênh lệch giá sẽ xuất hiện
(bỏ qua các yếu tố khác như hoa hồng, chênh lệch giữa giá bán và giá
mua). Chẳng hạn tỷ giá thực hiện của quyền chọn mua theo kiểu Mỹ là
0,85 USD cho 1CAD, nếu tỷ giá giao ngay là 0,86 USD/CAD thì giá bán
tối thiểu của quyền chọn mua phải là 0,01 USD/CAD. Nếu không, sẽ có
cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá bởi vì khi đó người mua hợp đồng
sẽ thực hiện hợp đồng để mua CAD ở giá 0,85 USD/CAD và bán lại trên
thị trường giao ngay ở mức giá cao hơn (0,86 USD/CAD).
- Chênh lệch lãi suất : Sự chênh lệch lãi suất cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc
quyết định giá cả quyền chọn. Chẳng hạn, quyền chọn mua CAD theo
kiểu châu Âu có giá cả cao hơn khi nào lãi suất đồng USD cao hơn lãi
suất CAD và ngược lại quyền chọn bán CAD theo kiểu châu Âu có giá
cả cao hơn khi nào lãi suất CAD cao hơn lãi suất USD và ngược lại.
3
- Thời hạn hợp đồng: Đây là một yếu tố nữa ảnh hưởng đến giá cả quyền
chọn bởi vì thời hạn hợp đồng càng dài, ảnh hưởng của yếu tố chênh
lệch lãi suất càng lớn. Mặt khác, mức độ ảnh hưởng chênh lệch lãi suất
càng ít khi quyền chọn sắp đến hạn và càng lớn khi quyền chọn còn thời
hạn khá dài.

Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của yếu tố thời hạn lên giá cả quyền chọn
không chỉ được giải thích bằng sự ảnh hưởng của
chênh lệch lãi suất mà còn được giải thích bởi xác xuất của sự biến động
tỷ giá. Rõ ràng thời hạn càng dài, khả năng thay đổi tỷ giá càng olớn.

- Thông số biến động tỷ giá kỳ vọng (expected volatility): Đây là yếu
tố khó lượng hóa nhất trong việc quyết định giá cả quyền chọn, nó tùy
thuộc chủ yếu vào khả năng phán đoán của nhà dự báo (forcasters) và
hầu như không có cách nào khác để đo lườngchính xác được
sự biến động của tỷ giá.Việc này đòi hỏi kinh nghiệm của những người
làm công tác nghiệp vụ quyền chọn.
Bằng những nghiệp vụ của mình thì ngân hàng sẽ đưa ra một mức giá quyền
chọn hợp lí để giúp cho doanh nghiệp có them những lựa chọn trong việc phòng
ngừa rủi ro tỷ giá cũng như đầu cơ kiếm lời.
Câu 4: tại sao NHNN chưa cho phép các NHTM thực hiện nghiệp vụ tiền đồng và
USD?
Trả lời: thực tế nghiệp vụ này đã bị chấm dứt theo nghị định số
1820/NHNN-QLNH kể từ ngày 23-3-2009.Trước đó nghiệp vụ này vẩn được thực
hiện ;nhưng với 1 thị trường tiềm ẩn rủi ro biến động giá như ở Việt Nam thì điều
này rất nguy hiểm.
Câu 5: ưu nhược điểm của hợp đồng quyền chọn là:
Trả lời:Ưu: giúp công ty vừa kiểm soát được rủi ro ngoại hối vừa giúp công
ty tận dụng được cơ hội đầu cơ nếu như tỷ giá biến động thuận lợi. Có thể nói hợp
đồng quyền chọn, với tính chất linh hoạt của nó, là hợp đồng cho phép công ty đạt
được cả hai mục tiêu là : phòng ngừa rủi ro và đầu cơ
nhược : Công ty phải bỏ chi phí ra mua quyền chọn, cho dù có thực
hiện hay không thực hiện quyền chọn
Câu 6: so sánh quyền chọn kiểu âu và kiểu mĩ
4
kiểu châu âu: là quyền chọn chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không

thực hiện trước ngày đó.
kiểu mỹ : là loại quyền chọn có thể được thực hiền vào bất cứ thời điểm nào khi
đáo hạn
* giá của hợp đồng quyền chọn có tính được hay không? nếu được thì tính là
sao?
Trả lời: giá của hợp đồng quyền chọn có tính được.
Đối với quyền chọn theo kiểu mỹ: gọi giá trị của quyền chọn mua là C
a
, giá trị của
quyền chọn bán là P
a
, tỷ giá thực hiện là E và tỷ giá giao ngay là S. Ta có quyền
chọn kiểu Mỹ được xác định bởi công thức
C
a
(S,E) và P
a
(S, E)
đối với quyền chọn theo kiểu châu Âu: gọi giá trị của quyền chọn mua là C
e
giá trị
của quyền chọn bán là P
e
, tỷ giá thực hiện là E, tỷ giá giao ngay là S, lãi suất phi
rủi ro của đồng tiền A là a, lãi suất phi rủi ro của đồng tiền B là b, và thời hạn hợp
đồng là T. Ta có giá trị quyền chọn kiểu châu Âu được xác định theo công thức:
C
e
(S, T, E)
P

e
(S, T, E)
CÂU HỎI CỦA CÁC NHÓM DÀNH CHO NHÓM 1
*Các câu hỏi liên quan đến pháp luật được tập trung trả lời ở cuối bài vì có nhiều
ý trùng nhau.
 TỪ NHÓM 2:
Câu 1. Tại những thời điểm khủng hoảng, các mức suppport và resistance không còn giá
trị nữa, vậy trong phân tích kỹ thuật tại những thời điểm này sử dụng chỉ tiêu nào?
5
Khi thị trường lâm vào tình trạng khủng hoảng thì dường như phân tích kĩ thuật không
còn tác dụng nhiều nữa mà chủ yếu phụ thuộc tình hình biến động của nền kinh tế vì thế
phân tích cơ bản ở đây tỏ ra hiệu quả hơn.
Câu 2. Hãy giải thích ngắn gọn cách thức sử dụng công cụ cắt lỗ (Stop Loss) để ngăn
chặn khoản lỗ tại một mức đã xác định.
Ví dụ:
Hiện tại giá đang là 1.2 ta dự đoán trong tương lai giá sẽ giảm xuống dưới 1.2 vì thế ta
đặt lệnh Sell. Nhưng đó chỉ là dự đoán vì giá có thể tăng, do đó ta đặt 1 mức Stop Loss ở
mức giá 1.5. Nếu giá tăng lên 1.5 thì giao dịch này sẽ tự đóng. Tuy giao dịch này bị lỗ
nhưng với Stop Loss ta không bị lỗ nhiều.
 TỪ NHÓM 3
Câu 1: Giao dịch ngoại tệ qua mạng thì có góp phần vào điều tiết thị trường hay ko? Tiếp
cận được thị trường thế giới?
Giao dịch ngoại hối không góp phần vào điều tiết thị trường. Bạn hãy tưởng tượng rằng
việc mua 1 loại tiền tệ như bạn mua một phần trong một quốc gia cụ thể, cũng giống như
1.2
1.5
6
mua cổ phiếu của một công ty. Giá của tiền tệ là sự phản ánh trực tiếp về những gì thị
trường đánh giá về sức khỏe hiện tại và tương lai của nền kinh tế quốc gia đó.
Ví dụ như khi bạn mua đồng Yên, bạn cơ bản là mua một phần của nền kinh tế Nhật

Bản. Bạn đặt cược kinh tế Nhật sẽ trở nên tốt hơn trong thời gian tới. Một khi bạn bán trở
lại phần mua trước đó cho thị trường, bạn hi vọng sẽ có được lợi nhuận.
Câu 2: Giao dịch ngoại tệ qua mạng ở Việt Nam có chịu chi phối của Pháp luật?
 TỪ NHÓM 7
Câu 3: Các công ty đều được kinh doanh ngoại tệ qua mạng? Cần phải làm gì và có
những điều kiện gì để các công ty có thể kinh doanh ngoại tệ qua mạng?
Các công ty, cá nhân đều được kinh doanh ngoại tệ qua mạng. Điều kiện: có tiền, phần
mềm giao dịch và mạng internet. Bạn có thể giao dịch bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.
Câu 4: Các nhà đầu tư ở Việt Nam mở một tài khoản để tham gia giao dịch ngoại hối qua
mạng thong qua các văn phòng (công ty) là đại lý cho các công ty chuyên kinh doanh
ngoại tệ ở nước ngoài, nhưng không lâu sau thì trưởng đại diện của văn phòng ở Việt
Nam cao chạy xa bay với số tiền của các nhà đầu tư,vậy cơ quan nào ở Việt Nam sẽ giải
quyết cho các nhà đầu tư,có khi nào các nhà đầu tư mất trắng số tiền đó không?
 TỪ NHÓM 5
Câu 5. So sánh thị trường giao dịch ngoại tệ với thị trường chứng khoán.
Chứng khoáng Giao dịch ngoại tệ
Tỷ lệ ký quỹ -Không được vay (ví dụ: Sàn
Kim Long).
- Một số sàn chứng khoán cho
vay thì phí lớn (Ví dụ: CK
Trường Sơn tỷ lệ cho vay 1:1
với T + 2, mức phí là
- Có 1 đồng được phép giao dịch trên
100 đồng.
- Dự đoán đúng xu thế thì lợi nhuận
sẽ gấp 100 lần số tiền vốn có
- Sai thì chỉ mất một đồng của mình,
7
0.05%/ngày…).
- Nếu Ta không đảm bảo số tiền

ký quỹ thì công ty có quyền giải
chấp tài khoản của ta.
99 đồng là công ty mất.
- Không phải hoàn trả số tiền được
vay giao dịch.
Thị trường 2
chiều
Ta là người nắm giữ chứng
khoán thì Ta chỉ kỳ vọng thị
trường lên thì mới mong thu
được lợi nhuận.
- Khi Ta dự đoán thị trường sẽ lên, Ta
đặt lệnh mua Ta thu được lợi nhuận.
- Khi Ta dự đoán thị trường xuống,
Ta đặt lệnh bán Ta sẽ thu được lợi
nhuận.
Tính chủ động
của nhà đầu tư
- Ta có thể không mua, bán
được theo ý mình. Do lệnh bị
treo không khớp được.
- Nếu Ta không bán chứng
khoán thì lãi, lỗ phụ thuộc vào
sự biến động của thị trường. Và
phải theo dõi qua từng phiên
giao dịch.
- Ta có thể mua, bán và ra vào thị
trường bất cứ lúc nào Ta muốn.
- Tiền về tài khoản ngay lập tức, và
Ta có thể tiếp tục đầu tư -> đồng vốn

luôn chuyển liên tục.
- Ta vào lệnh đầu tư trong khoảng 15
– 30 phút, rồi tất toán lệnh đó. Thì
tiền đã được khóa trong tài khoản của
Ta. Ta có thể yên tâm làm việc khác
mà không phải lúc nào cũng suy nghĩ
về
nó, sợ nó bị biến động.
Rủi ro - Mặc dù có biên độ giao động
nhưng nếu thị trường đi xuống
- Nhà đầu tư chủ động, chặn lỗ, chốt
lời. Tùy nhà đầu tư điều chỉnh. Có thể
8
thì biên độ này là khá lớn (7%
với sàn HNX, 5% sàn HOSE).
- Khi thị trường đi lên thì lợi
nhuận lại bị hạn chế do biên độ.
cắt lỗ thấp và chốt lời ở mức cao.
(Ngoài ra có đội ngũ tư vấn mọi lúc
cho Ta – đó là phần nhỏ, Ta vẫn là
người quyết định).
Phí - Phí tính 2 chiều (mua chứng
khoán mất phí, đến khi bán
cũng mất phí, mỗi cổ phiếu
hoàn thành giao dịch mất phí là
0.8%/tổng giá trị giao dịch).
- Tính phí một chiều. 100oz = 83
lượng, mất phí 10$. (xấp xỉ 0.008%/
giá trị giao dịch).
Thời gian giao

dịch
8h30-11h tất cả các ngày làm
việc trong tuần trừ các ngày
nghỉ theo qui định của Bộ luật
Lao động
- Giao dịch 24/24 (nghỉ thứ 7, chủ
nhật). Nếu công việc quá bận không
có thời gian trực sàn chứng khoán, Ta
có thể đầu tư vào buổi tối – thời gian
này phiên Mỹ giao dịch nên có nhiều
biến động, sóng lớn. Là cơ hội để Ta
thu lợi nhuận.
Tiêu cực - Làm giá
- Đẩy lệnh của khách hàng nhỏ.
-Tỷ giá
Phân tích kỹ
thuật
- Chỉ có thể xem qua những
biểu phân tích có sẵn do các
công ty chứng khoán đưa ra.
- Chủ động do hệ thống công cụ của
phần mềm hỗ trợ.
9
Rút nạp tiền
nhanh chóng
- Chẳng hạn Ta cần tiền gấp để
làm việc nào đó thì Ta phải bán
chứng khoán (chờ T+, khi giá
giảm sút cũng vẫn phải bán).
- Nếu Ta cần tiền hoặc là đóng tài

khoản thì chỉ trong vòng 10 phút là
Ta nhận được tiền. Công ty không giữ
lại bất cứ đồng nào.
Câu 6. Việc mua bán ngoại tệ tự do bị coi là vi phạm pháp luật. Vậy các cá nhân kinh
doanh ngoại tệ qua mạng có bị coi là phạm pháp hay không?
 TỪ NHÓM 6
Câu 7. Các cá nhân, doanh nghiệp nào được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối ở Việt
Nam. Điều kiện để được cấp phép kinh doanh là gì?
Câu 8. Giao dịch ngọai tệ qua mạng có nhiều sơ hở (lừa đảo, mạo danh,…) nên sẽ dễ bị
kẻ xấu lợi dụng, làm thế nào để hạn chế tác hại của những sơ hở đó?
 CÁC CÂU HỎI LIÊN QUAN ĐẾN LUẬT
-Giao dịch ngoại tệ qua mạng ở Việt Nam có chịu chi phối của Pháp luật?
-Việc mua bán ngoại tệ tự do bị coi là vi phạm pháp luật. Vậy các cá nhân kinh doanh
ngoại tệ qua mạng có bị coi là phạm pháp hay không?
Luật pháp Việt Nam hiện nay có quy định về hoạt động ngoại hối, nhưng chưa có quy
định riêng về giao dịch ngoại tệ qua mạng. Do đó, giao dịch ngoại tệ qua mạng nên được
hiểu là nằm trong phạm vi của hoạt động ngoại hối.
• Các tổ chức tín dụng (ngân hàng và phi ngân hàng) được cấp phép của NHNN
thì được tham gia thị trường tiền tệ ở nước ngoài (theo Điều 2c/Mục 1/Chương
I, và Điều 3.2b/Mục 2/Chương I/Thông tư số 03/2008/TT-NHNN).
• Các đối tượng không phải là tổ chức tín dụng được phép (tức là các cá nhân và
tổ chức khác) thì được: hoặc giao dịch mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín
dụng có phép này (phải xuất trình chứng từ) hoặc giao dịch trên tài khoản tại tổ
10
chức tín dụng được phép. (theo Chương II và Chương III/Nghị định
160/2006/NĐ-CP)
Kết luận: các đối tượng không phải tổ chức tín dụng được phép thì không được trực tiếp
tham gia thị trường tiền tệ nước ngoài, mà phải thông qua các tổ chức tín dụng này.
Nội dung câu hỏi “Việc mua bán ngoại tệ tự do bị coi là vi phạm pháp luật” là chưa hợp
lý, vì việc mua bán ngoại tệ phải thông qua tổ chức tín dụng được phép của NHNN, do

đó nó không tự do.
* Tham khảo:
Thông tư số 03/2008/TT-NHNN hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại
hối của tổ chức tín dụng,
Nghị định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối,
, hoặc Pháp lệnh Ngoại hối 2005, .
-Các công ty đều được kinh doanh ngoại tệ qua mạng? Cần phải làm gì và có những điều
kiện gì để các công ty có thể kinh doanh ngoại tệ qua mạng?
-Các cá nhân, doanh nghiệp nào được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối ở Việt Nam.
Điều kiện để được cấp phép kinh doanh là gì?
Chỉ có tổ chức tín dụng đủ điều kiện và được phép của NHNN mới được tham gia thị
trường ngoại tệ nước ngoài. Điều kiện, thủ tục xin phép cung ứng dịch vụ ngoại hối: tham
khảo Chương II, Chương III/Thông tư số 03/2008/TT-NHNN, />- Các nhà đầu tư ở Việt Nam mở một tài khoản để tham gia giao dịch ngoại hối qua mạng
thông qua các văn phòng (công ty) là đại lý cho các công ty chuyên kinh doanh ngoại tệ ở
nước ngoài, nhưng không lâu sau thì trưởng đại diện của văn phòng ở Việt Nam cao chạy
xa bay với số tiền của các nhà đầu tư, vậy cơ quan nào ở Việt Nam sẽ giải quyết cho các
nhà đầu tư,có khi nào các nhà đầu tư mất trắng số tiền đó không?
- Giao dịch ngọai tệ qua mạng có nhiều sơ hở (lừa đảo, mạo danh,…) nên sẽ dễ bị kẻ xấu
lợi dụng, làm thế nào để hạn chế tác hại của những sơ hở đó?
11
Vì nhà đầu tư không tuân thủ pháp luật, qua việc giao dịch ngoại tệ không qua tổ chức tín
dụng được phép, nên nếu có tổn thất thì sẽ không được pháp luật bảo vệ.
Trả lời câu hỏi Câu hỏi:
Nhóm I_ câu hỏi 2: vì sao ngân hàng không tính lãi đối với thẻ tín dụng?. Ngân hàng
được lợi gì khi cấp tín dụng cho chủ thẻ tín dụng?
Nhóm II_câu hỏi 2: Phân biệt thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ ?.Giải thích cách tính lãi của
ngân hàng trên từng loại thẻ, loại thẻ nào tốt cho ngân hàng, loại nào tốt cho khách
hàng?.tại sao?
Trả lời: Vì lí do tiện cho việc trả lời và cung cấp thông tin cho các bạn vì cả hai câu đều
có ý liên quan đến lãi suất NH áp dụng cho thẻ. Nhóm xin được gộp hai câu hỏi vào trình

bày cùng một lúc:
Phân biệt thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ.
Thẻ ghi nợ (Debit Card) Thẻ tín dụng (Credit Card)
• Không có hạn mức tín dụng, có
khoản ký quỹ bắt buộc.
• Khi sử dụng thẻ để mua hàng hoá
hay sử dụng dịch vụ, rút tiền mặt.
Số tiền giao dịch sẽ trừ vào tài
khoản của chủ thẻ
• Việc sử dụng thẻ tùy thuộc vào số
dư tài khoản tiền gửi.
• Giao dịch trả tiền ngay ( trừ vào tài
khoản tiền gửi)
• Dựa trên số tiên hiện có trong tài
khoản tiền gửi.
• Giao dịch trực tiếp
• Có hạn mức tín dụng.
• Tiền bị trừ trực tiếp vào hạn mức tín
dụng của chủ thẻ ngay sau mỗi lần
mua hàng, sử dụng dịch vụ hoặc rút
tiền mặt.
• Việc sử dụng thẻ để thanh toán tùy
vào hạn mức tín dụng của thẻ
• Giao dịch trước, ngân hàng thay KH
trả tiền và sẽ truy hồi số tiền vào
cuối kỳ.
• Dựa trên sự tín nhiệm của ngân hàng
với khả năng chi trả của khách hàng.
• Ngân hàng gửi bản sao kê hàng kỳ
và yêu cầu thanh toán

12
:
CREDIT CARD: ngân hàng cho vay không tính lãi.
Vì sao NH không thu lãi khi cho chúng ta vay?. Vì họ đã thu từ 3% đến 5% từ các đơn vị
chấp nhận thanh toán thẻ tind dụng của bạn. Việc dùng thẻ tín dụng thanh toán tiết kiệm
cho các cơ sở chấp nhận thẻ khoản chi phí cho việc kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển tiền,
… cùng với giảm nguy cơ tiền giả, và các tác dụng khác. Vì thế các cơ sở chấp nhận thẻ
đồng ý với yêu cầu của ngân hàng. Đây là một khoảng phí đáng kể, từ đó ngân hàng
không tín lãi của thẻ tín dụng để lôi kéo thêm nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ.
Trường hợp khác: khi khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt thì sẽ phải chịu một phần phí
giao dịch. Ngân hàng sẽ trực tiếp trừ phí trên số tiền rút ra với tỷ lệ từ 3% - 5% tuỳ theo
thẻ của ngân hàng nào, tổ chức thẻ quốc tế nào. Ngoài ra còn có thể có phí đổi tiền tệ.
Khách hàng cũng có thể rút tiền bằng ngoại tệ, ngân hàng cũng sẽ trừ trực tiếp phí lên số
ngoại tế rút, vì vậy nếu tính theo tỷ giá thì rút ở thẻ tín dụng sẽ có tỷ giá cao hơn bên
ngoài thị trường.
13
Bảng phí của một số ngân hàng.
14
Vào cuối kỳ, ngân hàng sẽ gửi cho khách hàng bảng kê các hàng hóa dịch vụ đã sử dụng
thẻ tín dụng để thanh toán. Nếu sau thời hạn nhất định(khoảng 45 ngày), sau thời hạn đó
ngân hàng sẽ tính lãi theo ấn định của NH, thường thì lãi suất rất cao, khoảng từ 18% -
24%/năm. Đây là một phần thu nhập không nhỏ nữa của ngân hàng.
Ngoài những khoảng trên thì phần phí sử dụng thẻ phải nộp hàng tháng cũng như phí mở
thẻ cũng là nguồn thu lớn từ chủ thẻ.
Tuy nói rằng ngân hàng không tín lãi nhưng những khoản phí mà chủ thẻ phải đóng cũng
bao hàm trong đó lợi ích của ngân hàng.
DEBIT CARD: ngân hàng trả lãi theo lãi tiền gửi không kỳ hạn.
Chúng ta đều biết cách tính lãi theo tiền gửi không kỳ hạn có thể nói là lãi suất cực kỳ
thấp. Đây cũng là lý do giải thích vì sao khi rút tiền mặt thì ngân hàng không tính phí đối
với thẻ ghi nợ ( Debit Card). Ngân hàng trong trường hợp này sẽ có quyền sử dụng lượng

lớn vốn trong tài khoản tiền gửi với lãi suất thấp, số vốn này chính mức ký quỹ bắt buộc
trong thẻ ghi nợ.
• Để trả lời câu hỏi cách tính lãi nào có lợi cho ngân hàng, cách tính nào có lợi cho
khách hàng. Chúng ta đều biết là khi sử dụng dịch vụ nào đó thì khách hàng luôn quan
tâm tới lợi ích mà dịch vụ đem lại. Ngân hàng quan tâm tới lợi ích khi cung cấp dịch vụ.
Hai cách tính lãi trên, theo phân tích thì ngân hàng đều có lợi khá lớn. Vậy đối với
khách hàng thì sao?. Chúng ta được cung cấp dịch vụ và sử dụng các tiện ích. Không
thể nói là cách tính lãi không có lợi cho mình nên yêu cầu ngân hàng nâng lãi tiền gửi,
hay bớt các khoản phí. Có thể nói trong hai cách tính lãi này thì cả hai bên đều có lợi,
tuy nhiên lợi ích của ngân hàng thường lớn hơn, vì yêu cầu của ngân hàng chính là
kiếm lời trên cung cấp dịch vụ. Ngân hàng chỉ cung cấp dịch vụ có lợi nhuận cao nhất
mà khách hàng có thể chấp nhận.
Nhóm 7:
Câu 1: Loại séc nào được chuyển nhượng, loại nào không được chuyển nhượng?
việc í hậu séc như thế nào?, có giống hối phiếu hay không?
15
Trả lời:
Dựa vào người thụ hưởng có thể chia séc thành 3 loại:
 Séc ký danh: Là loại séc ghi rõ tên người hưởng lợi, do không thể chuyển
nhương bằng thủ tục ký hậu bởi chỉ có người đứng tê trên tờ séc mới có
quyền hưởng thụ số tiền của tờ séc.
 Séc vô danh: Là loại séc không ghi tên người thụ hưởng mà chỉ ghi câu “
trả cho người cầm séc”, do vậy loại séc này có thể chuyển nhương thông
qua hình thức trao tay.
 Séc trả theo lệnh: Là loại séc không chỉ định rõ người thụ hưởng mà chỉ ghi
trả theo lệnh của người thụ hưởng, loại séc này có thể chuyển nhượng
thông qua thủ tục ký hậu.
Từ cách phân loại trên ta thấy được 2 loại Séc có thể chuyển nhượng là Séc vô
danh và Séc trả theo lệnh. Đối với séc trả theo lệnh thì việc ký hậu séc cũng
tương tự như hối phiếu.

Câu 2: Trong các phương tiện thanh toán loại nào ưu việt nhất?
Trả lời:
Theo nhóm mình thì mỗi loại phương tiện thanh toán quốc tế đều có những
mặt lợi và hạn chế nhất định. Tùy thuộc vào đặc điểm của hợp đồng ngoại
thương cũng như người sử dụng mà nhà nhập khẩu cũng như nhà xuất khẩu lựa
chọn hình thức thanh toán nào cho thuận tiện và đạt lợi ích cao nhất.
Nhóm 3:
Câu 1: Vì sao hối phiếu lại có thể phát hành nhiều hơn 1 bản gốc, còn séc thì chỉ
phát hành 1 bản?
Trả lời:
Đối với việc phát hành hối phiếu thì người phát hành có thể phát hành thành
nhiều bản nhưng không phân biệt bản nào là chính và bản nào là phụ. Khi mang hối
phiếu đi thanh toán thì tờ hối phiếu nào đến trước thì được thanh toán và các tờ hối phiếu
còn lại sẽ không còn giá trị nữa. Còn với Séc, là một văn bản giấy được ngân hàng in sẵn
theo mẫu và được chia thành hai phần có đường răng ở giữa để tách rời, gồm: phần cuống
séc để người phát hành lưu và phần tách rời để trao cho người thụ hưởng. Vì vậy, Séc chỉ
lập một bản duy nhất.
16
Câu 2: Vì sao séc lại thường trong các giao dịch nhỏ lẻ? có rủi ro gì trong thanh toán
bằng séc hay không? nếu có nêu cách khắc phục?
Trả lời:
 Thực tế cho thấy, nhiều khách hàng có lo ngại là tài khoản của người phát hành
không đủ để trả số tiền trên tờ séc, hay séc giả… điều này dẫn đến việc từ chối
việc thanh toán bằng séc.Từ đó, ta dể dàng thấy rằng đối với các giao dịch nhỏ lẻ
thì khác hàng yên tâm hơn về khả năng chi trả của tờ Séc.
 rủi ro về thanh khoản.
 Hiện nay khách hàng mua và bán hàng có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì việc
thanh toán bằng séc được thực hiện dể dàng. Nhưng nếu người mua và người bán
không có tài khoản ở một ngân hàng thì buộc các ngân hàng thương mại phải
thông qua hệ thống bù trừ của ngân hàng nhà nước. Nhưng hệ thống này chỉ có 2

phiên thanh toán bù trừ lúc 10h sáng và 15h chiều hằng ngày và việc kiểm tra séc
vẫn thực hiện thủ công. Điều này gây rắc rối cho nhưng người giao dịch séc.
 thời gian nhận tiền không kịp có thể gây phiền phức cho người thụ hưởng.
Cách khắc phục:
 Thứ nhất, nhà xuất khẩu nên tìm hiểu về đối tác của mình về năng lực tài chính.
Nếu có nghi ngờ về năng lực tài chính của đối tác hãy yêu cầu chi trả bằng séc xác
nhận. ( bảo chi) của một ngân hàng nào đó
 Thứ hai, do Séc chưa phổ biến ở Việt Nam nên hộ thống bù trừ của ngân hàng nhà
nước có một số hạn chế nhất định cho người sử dụng. Nhưng trong tương lại
không xa, ngân hàng nhà nước sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
kinh tế.
Câu hỏi của thầy: Trong trường hợp tài khoản của phát hành không đủ tiền chi trả séc
thì tờ séc đó còn hiệu lực hay không? giải quyết như thế nào?
Trả lời: Theo khoản 5, 6, 7, 8 điều 71 luật công cụ chuyển nhượng:
Trường hợp khoản tiền mà người ký phát được sử dụng để ký phát séc không đủ để thanh
toán toàn bộ số tiền ghi trên séc theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 71, nếu người
thụ hưởng yêu cầu được thanh toán một phần số tiền ghi trên séc thì người bị ký phát có
nghĩa vụ thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng trong phạm vi khoản tiền mà
người ký phát hiện có và được sử dụng để thanh toán séc.Khi thanh toán một phần số tiền
17
ghi trên séc, người bị ký phát phải ghi rõ số tiền đã được thanh toán trên séc và trả lại séc
cho người thụ hưởng hoặc người được người thụ hưởng ủy quyền. Người thụ hưởng hoặc
người được người thụ hưởng ủy quyền phải lập văn bản biên nhận về việc thanh toán đó
và giao cho người bị ký phát.Văn bản biên nhận trong trường hợp này được coi là văn
bản chứng minh việc người bị ký phát đã thanh toán một phần số tiền ghi trên séc.Trường
hợp séc được xuất trình để thanh toán sau khi người ký phát bị tuyên bố phá sản, giải thể,
chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì séc vẫn có hiệu lực thanh toán theo
quy định tại Điều 71.
“ trích điều 71 luật các công cụ chuyển nhượng 2005”.
TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Tại sao Bảo hiểm đơn lại có giá trị hơn Giấy chứng nhận Bảo hiểm khi ra
trước tòa án.
Ở VN nói chung các nhà bảo hiểm không có phân biệt rạch ròi giữa thuật ngữ “Đơn bảo
hiểm” và “Giấy chứng nhận bảo hiểm”, thậm chí nhiều chỗ dùng lẫn lộn với cách hiểu 2
thuật ngữ này là tương đương. Khi xem lại thuật ngữ gốc tiếng Anh thì thấy 2 khái niệm
"Insurance policy" và "Insurance Certificate" là không giống nhau.
+ Insurance policy (IP): thực chất nó là một dạng contract (hợp đồng, thoả thuận) giữa
nhà bảo hiểm với người được bảo hiểm trên đó thể hiện các nguyên tắc, điều kiện bảo
hiểm, thời hiệu, mức phí, khấu trừ, v.v đã được thoả thuận giữa 2 bên. IP có chức năng
negotiable -chuyển nhượng được, và hầu như mọi thoả thuận bảo hiểm đều thể hiện ở
dưới dạng IP.
Chức năng negotiable được thực hiện như sau: Khi seller/exporter là người mua bảo hiểm
thực hiện việc ký hậu trên IP, gửi cho buyer thì buyer sẽ trở thành insured (người được
BH)
+ Insurance Certificate (IC) là dạng thể hiện của Insurance policy, hay nói cách khác, nó
là bằng chứng thể hiện sự tồn tại của thoả thuận bảo hiểm theo điều kiện nào đó. Trên
một IC thường chỉ thể hiện một số nội dung cốt lõi của thoả thuận bảo hiểm, thí dụ: thời
18
hiệu, hình thức, giá trị BH …mà không bao gồm các chi tiết thoả thuận cụ thể. IC cơ bản
không có giá trị chuyển nhượng và theo một số tài liệu thì một IC đơn thuần ( tức là
không tích hợp chức năng của IP) thì không có giá trị trong việc xử lý tranh chấp, khiếu
nại pháp lý.
IC về bản chất tương đương với IP nhưng xét về mặt pháp lý thấp hơn IP. IC là các bản
ký khống tham chiếu theo số hợp đồng bảo hiểm mở của insurer (người bảo hiểm) dành
cho insured (người được BH) trong trường hợp insured nắm giữ một hợp đồng bảo hiểm
mở duy nhất mà lại phải gửi cho nhiều người nhận khác và cho nhiều chuyến hàng trong
một khoảng thời gian, để tiết kiệm thời gian, chi phí, thủ tục, insured tự phát hành IC theo
form mà insurer phát hành bản ký khống cho từng chuyến hàng của mình khi insured và
insurer ở quá xa nhau về mặt địa lý.
Cả IP và IC đều có giá trị trong việc đòi bồi thường và xử lý tranh chấp tại cấp tòa án.

Tuy nhiên, trong trường hợp L/C yêu cầu IP, thì IC không có giá trị; mặt khác nếu LC chỉ
yêu đệ trình IC, thì IP có thể thay thế IC trong bộ chứng từ
2. Đối với các DNBH, việc triển khai thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ gặp
những khó khăn và thuận lợi gì?
Do đây là sản phẩm bảo hiểm tự nguyện nên không thể bắt buộc các thương nhân
xuất khẩu tham gia BHTDXK, đồng thời cũng không thể bắt buộc các DNBH phải
phải bán BHTDXK. Ngoài ra, qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá khả
năng triển khai Đề án BHTDXK, chúng tôi nhận thấy còn có một số khó khăn có
thể gặp phải.
Cụ thể, bên mua bảo hiểm khó chấp nhận ngay sản phẩm này, bởi vì từ trước đến
nay chưa có thói quen mua BHTDXK (vẫn thường sử dụng các hình thức phòng
ngừa rủi ro khác trong thanh toán quốc tế như thư tín dụng, ứng trước tiền ). Mặt
khác, do chưa nhận thức được lợi ích của việc tham gia BHTDXK hoặc chủ quan
đánh giá độ tin cậy của “bạn hàng” nên thương nhân xuất khẩu có tâm lý không
muốn tham gia BHTDXK.
Về phía DNBH thì các doanh nghiệp có thể muốn hoặc không muốn tham gia Đề
án mặc dù đủ điều kiện. Nguyên nhân do còn phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh
cũng như tính toán hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc triển khai BHTDXK sẽ vẫn được “hậu thuẫn” bởi rất nhiều thuận
lợi. Chẳng hạn, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đối với cả bên mua bảo hiểm và
19
bên bán bảo hiểm (theo các cam kết WTO, Việt Nam không được hỗ trợ về phí
bảo hiểm đối với các thương nhân xuất khẩu).
Cụ thể, đối với bên mua bảo hiểm có thể có các chính sách: Nhà nước chỉ đạo các
ngân hàng thương mại đơn giản hóa các thủ tục cho vay để xuất khẩu, chấp nhận
hợp đồng BHTDXK như khoản đảm bảo tiền vay, cấp tín dụng tương đương với
giá trị được bảo hiểm theo hợp đồng này; Định hướng các ngân hàng thương mại
hợp tác với các DNBH trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện cho các thương nhân
vay vốn xuất khẩu mua BHTDX, đồng thời, khi xảy ra tổn thất, trong phạm vi số
tiền bảo hiểm, DNBH sẽ chuyển trực tiếp khoản chi bồi thường cho ngân hàng,

giúp ngân hàng nhanh chóng thu hồi khoản vay; Nhà nước định hướng để các
thương nhân xuất khẩu tích cực tham gia BHTDXK.
Đối với bên bán bảo hiểm, để hỗ trợ các DNBH tham gia triển khai thí điểm
BHTDXK, Nhà nước có chính sách hỗ trợ chi phí cho giai đoạn đầu và hỗ trợ cho
DNBH trong quá trình triển khai BHTDXK. Nguồn chi lấy từ Ngân sách nhà nước
(NSNN) hàng năm cho chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch quốc
gia, dự kiến như sau: Hỗ trợ chi phí cho giai đoạn đầu khi DNBH thuê tổ chức tư
vấn nước ngoài đánh giá khả năng triển khai tại doanh nghiệp, hỗ trợ doanh
nghiệp thiết kế và phát triển sản phẩm bảo hiểm, chuyển giao công nghệ và cơ sở
dữ liệu, đào tạo cán bộ (tham khảo số liệu của tổ chức tái BHTDXK AtradiusRe
đối với riêng Bảo Việt, nếu dành hỗ trợ cho một số DNBH được lựa chọn thì tổng
kinh phí này có thể lên tới 9 tỷ đồng); Hỗ trợ cho công tác nghiên cứu, khảo sát
xây dựng Đề án, thông tin, tuyên truyền, chỉ đạo triển khai và tổng kết đánh giá Đề
án (tối đa 5 tỷ đồng trong 3 năm, trong đó, năm 2010 là 2 tỷ đồng; năm 2011 - 1,5
tỷ đồng; năm 2012 - 1,5 tỷ đồng); Hỗ trợ cho DNBH trong quá trình triển khai thí
điểm (tối đa 15 tỷ vào năm 2012; tổng số tiền hỗ trợ tối đa trong 3 năm thí điểm
BHTDXK là 28 tỷ đồng) để hỗ trợ cho DNBH có mức bồi thường thuộc trách
nhiệm giữ lại trên doanh thu phí bảo hiểm giữ lại vượt quá 80% đến 150%.
Một yếu tố thuận lợi khác nữa đối với việc triển khai BHTDXK là các Bộ, ngành
có liên quan đều tích cực tham gia chỉ đạo, khuyến khích các đối tượng có liên
quan tham gia đẩy mạnh BHTDXK. Ví dụ, Bộ Tài chính chủ trì triển khai Đề án
thí điểm BHTDXK giai đoạn 2011 - 2013, ban hành Thông tư hướng dẫn triển
khai Đề án (về phạm vi, đối tượng bảo hiểm, hình thức bảo hiểm, trách nhiệm của
DNBH triển khai BHTDXK, hỗ trợ của Nhà nước khi triển khai Đề án), lựa chọn
tổ chức tư vấn và DNBH đủ điều kiện triển khai BHTDXK, phối hợp với các Bộ
ngành tuyên truyền đẩy mạnh nhận thức về BHTDXK, phân bổ ngân sách hỗ trợ
cho Đề án; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính bố trí ngân
sách hỗ trợ cho Đề án trong chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch
quốc gia; Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính triển khai Đề án, chỉ đạo các
thương nhân xuất khẩu tích cực tham gia BHTDXK; Ngân hàng Nhà nước ban

20
hành chính sách tạo điều kiện vay vốn cho các thương nhân đã tham gia
BHTDXK, chỉ đạo các ngân hàng thương mại hợp tác với các DNBH trong việc
triển khai BHTDXK.
3. "Về phí bảo hiểm trong bảo hiểm tín dụng xuất khẩu(BHTDXK):khi các
thương nhân mua BHTDXK sẽ làm tăng thêm chi phí hàng hoá xuất khẩu.Có
một số ý kiến đề nghị hỗ trợ phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm vì họ đã quen
dùng hình thức thanh toán thư tín dụng.” Nhóm có ý kiến gì về vấn đề này ?
Về nguyên tắc, phí bảo hiểm tương xứng với rủi ro; đủ bù đắp tổn thất dự kiến
và chi quản lý. Có một số ý kiến đề nghị hỗ trợ phí bảo hiểm cho bên mua bảo
hiểm vì họ đã quen dùng hình thức thanh toán thư tín dụng và họ cho rằng
việc mua bảo hiểm sẽ làm tăng thêm chi phí hàng hoá xuất khẩu.
Tuy nhiên, thông lệ quốc tế đã bỏ ưu đãi về phí bảo hiểm, ngoài ra cam kết
WTO của Việt Nam cũng không cho phép hỗ trợ đối với các thương nhân xuất
khẩu. Đề án này không xem xét hỗ trợ về phí bảo hiểm, mà khoản phí sẽ được
tính toán theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế thì mới
được các tổ chức nhận tái bảo hiểm nước ngoài chấp nhận.
- Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại đơn giản hóa các thủ tục cho
vay để xuất khẩu, chấp nhận hợp đồng BHTDXK như khoản đảm bảo tiền
vay, cấp tín dụng tương đương với giá trị được bảo hiểm theo hợp đồng này;
- Định hướng các ngân hàng thương mại hợp tác với các DNBH trong việc
hướng dẫn, tạo điều kiện cho các thương nhân vay vốn xuất khẩu mua
BHTDXK. Đồng thời, khi xảy ra tổn thất, trong phạm vi số tiền bảo hiểm,
DNBH sẽ chuyển trực tiếp khoản chi bồi thường cho ngân hàng, giúp ngân
hàng nhanh chóng thu hồi khoản vay.
- Nhà nước định hướng để các thương nhân xuất khẩu tích cực tham gia
BHTDXK;
4. Thị trường bảo hiểm trong thanh toán quốc tế ở việt nam có phát triển hay
không?
21

5. "Bạn hãy nêu thực trạng tình hình bão hiểm vận chuyện hàng hóa ở nước ta”
Trả lời cho câu hỏi 4 và 5:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước năm 2010 đạt 71,6 tỷ USD, kim ngạch
nhập khẩu hàng hóa đạt 84 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất nhập
khẩu có mức tăng trưởng cao (tương ứng là 25,5% và 20,1% so với năm 2009)
nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được khoảng
5% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu và 33% kim ngạch hàng nhập khẩu.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, tính đến cuối năm
2010, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm hàng hóa Việt Nam đạt 1.243 tỷ
đồng, tăng trên 27,38% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp khoảng trên 7%
trong tổng phí bảo hiểm gốc toàn thị trường, tỷ lệ bồi thường tương đối thấp là
28,13%.
Về cục diện thị trường, nhóm có thị phần dẫn đầu gồm Bảo Việt, Bảo Minh,
PVI, PJICO đang chiếm khoảng 61%, nhóm tiếp theo gồm BIC, MIC, ABIC,
Bảo Long, SamsungVina, VIA, UIC, SVIC chiếm khoảng 25,8%, các doanh
nghiệp còn lại chiếm 13,2%. Mặc dù được cho là nghiệp vụ mang lại lợi lớn
cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng những năm gần đây, thị trường chứng kiến
sự trỗi dậy mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Lý do là một số
công ty bảo hiểm nước ngoài là đối tác bảo hiểm của các tập đoàn, doanh
nghiệp nước ngoài với lượng hàng hóa xuất nhập khẩu có giá trị lớn, phát sinh
thường xuyên. Một lý do khác, mang tính cố hữu của thị trường dẫn tới các
nhà bảo hiểm Việt Nam chưa chiếm lĩnh được thị trường là do các thói quen
mua CIF bán FOB (mua tại cảng đến và bán tại cảng đi) trong hoạt động ngoại
thương của các doanh nghiệp nội địa.
Để thay đổi cục diện cạnh tranh và tạo điều kiện cho các nhà bảo hiểm nội địa,
các doanh nghiệp trong nước nên thay đổi thói quen, ưu tiên tiếp cận và trước
mắt là nhận tư vấn cho chính các doanh nghiệp về nhiều loại hình bảo hiểm để
dần khắc phục thực trạng quyền thu xếp bảo hiểm thuộc về đối tác ở nước
ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nhanh chóng thay đổi tập quán
thương mại cũ, chuyển dần từ phương thức nhập CIF xuất FOB sang nhập

FOB xuất CIF. Điều này xét về toàn cục sẽ có lợi cho nền kinh tế quốc dân do
cũng góp phần tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm hàng hải và ngành vận tải biển
phát triển.
6. Sự khác biệt giữa các phương thức giao hàng có anh hưởng như thế nào đến
bảo hiểm vận chuyển hàng hóa
22
 Điều kiện giao hàng FOB (free on board): Người nhập khẩu có trách nhiệm
mua bảo hiểm cho lô hàng và thanh toán tiền bảo hiểm.
 Điều kiện giao hàng CIF (Cost, Insurance and freight): Người Xuất khẩu có
trách nhiệm mua bảo hiểm, kí hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển quyền lợi bảo
hiểm cho người nhập khẩu.
7. Hợp đồng bảo hiểm không định giá là gì?
Hợp đồng bảo hiểm không định giá (Unvalued Policy): là loại hợp đồng khi ký kết người
ta không ghi rõ số tiền bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm mà chỉ nêu ra nguyên tắc để tính số
tiền hay giá trị bảo hiểm: căn cứ vào giá trị hàng hoá ở bến đến vào ngày tàu đến hoặc
ngày tàu đăng ký phải đến hoặc trị giá hàng hoá lúc xảy ra tổn thất, lúc bồi thường hoặc
lúc chấp nhận bồi thường
1) Mối quan hệ giữa thời gian hiệu lực của L/C và thời hạn xuất trình chứng từ ra
sao?
Trả lời:
Đầu tiên chúng ta cần hiểu rõ hơn về “thời hạn hiệu lực của L/C” và “Thời hạn
xuất trình chứng từ”.
- Thời hạn hiệu lực của L/C: Là khoảng thời gian khi LC đc phát hành bởi NHPH
cho tới ngày muộn nhất mà người hưởng được phép xuất trình chứng từ để thanh
toán/ chấp nhận thanh toán tại nơi quy định trong LC. Bất kì LC nào cũng phải
quy định ngày hết hạn hiệu lực trong LC. Nếu không quy định ngày này LC là vô
hiệu
- Thời hạn xuất trình chứng từ: thông thường, mỗi LC đều quy định ngày hết hạn
xuất trình tính từ ngày giao hàng. Nếu không quy định, thì theo điều 14c UCP 600:
NH sẽ từ chối chứng từ xuất trình sau 21 ngày kể từ ngày giao hàng. Trong mọi

trường hợp, chứng từ phải được xuất trình trong thời hạn hiệu lực của LC
23
Mối quan hệ:
Trường hợp 1: L/C chỉ quy định ngày hết hạn hiệu lực của LC mà không quy
định thời hạn xuất trình chứng từ, thì việc xuất trình chứng từ phải thỏa mãn đồng
thời:
- Trong thời hạn hiệu lực của LC
- Không muộn hơn 21 ngày sau ngày giao hàng
- Chứng từ phải được xuất trình trước khi LC hết hạn.
- chứng từ phải xuất trình trong thời hạn sớm hơn 21 ngày sau ngày giao hàng
Trường hợp 2: LC quy định ngày hết hạn hiệu lực của LC và đồng thời quy định
chứng từ xuất trình trong vòng X ngày sau ngày giao hàng, việc xuất trình chứng
từ phải thỏa mãn đồng thời
- Trong thời hạn của LC
- Không muộn hơn X ngày kể từ ngày giao hàng
• Chứng từ phải xuất trình trc khi LC hết hạn.
• Chứng từ phải xuất trình trong thời hạn sớm hơn X ngày sau ngày giao hàng
Thời hạn của bộ chứng từ là thời hạn tối đa từ ngày hối phiếu được kí phát tới khi
hết hiệu lực của L/C.
2) Trong phương thức CAD, nhà NK làm sao liên lạc với ngân hàng của nhà XK?
Trả lời
Như chúng ta đã biết, công việc đầu tiên trong quy trình thanh toán của CAD là
Nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng mở cho mình một tài khoản tín thác, số dư tài
khoản bằng 100% trị giá hợp đồng và nó được dùng để thanh toán cho nhà xuất
khẩu, theo đúng bản ghi nhớ (Memorandum) thỏa thuận giữa nhà nhập khẩu và
ngân hàng.
Nhà nhập khẩu có thể chọn phương thức liên lạc như: email, fax, điện thoại, thư
3) Chuyển tiền trước và chuyển tiền sau có lợi cho ai và rủi ro cho ai? Phương thức
nào thông dụng hơn phương thức nào và tại sao?
- Chuyển tiền trước có lợi cho bên bán, bởi họ có thể kiểm soát được tiền trước khi

giao hàng tránh rủi ro thnah toán chậm, thanh toán thiếu hay ko thanh toán. Còn
rủi ro lại thuộc về bên mua vì có thể gặp rủi ro giao hàng chậm, giao hàng ko đúng
và đủ như thỏa thuận hay là ko giao hàng
24
- Chuyển tiền sau là có lợi cho bên nhập khẩu vì có thể check hàng trước khi thanh
toán. Rủi ro thuộc về bên bán: rủi ro bên mua thanh toán chậm, thanh toán ko đủ,
ko thanh toán.
4) Hiện tại còn tồn tại phương thức thanh toán trực tiếp (trao đổi hàng hóa dịch vụ và
tiền trực tiếp) giữa các bên hay không? Nếu còn tại sao nó lại không phổ biến?
Tính không minh bạch tài chính có phải hạn chế của phương thức này?
Trả lời
Theo chúng tôi thì phương pháp thanh toán trực tiếp trong thanh toán quốc tế
không còn tồn tịa bởi trong Thông tư về ngoại hối, “Điều 7. Thanh toán và chuyển
tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
3. Mọi giao dịch thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện thông qua tổ chức tín dụng được phép.”
Như vậy mọi giao dịch thanh toán trong xuất nhập khẩu phải thông qua 1 tổ chức
tín dụng hay ngân hàng chứ không thể trao hàng và tiền trực tiếp.
5) Theo bạn hiện nay ngân hàng thường áp dụng phương thức thanh toán nào? Tại
sao?
Trả lời
Xin lỗi, Ngân hàng không có thầm quyền quyết định phương thức thanh toán, mà
do 2 bên XK và NK quyết định.
6) Trong phương thức thanh toán L/C, ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu và ngân
hàng phục vụ nhà nhập khẩu có thể cùng một ngân hàng được không?
Trả lời
Được. Nhưng thường thì các doanh nghiệp ít sử dụng cách này bởi sẽ rất bất tiện
cho việc liên lạc với ngân hàng và ngôn ngữ.
TRẢ LỜI CÂU HỎI NHÓM 2
Từ nhóm 1

1. Lạm phát ảnh hưởng đến phương pháp dự báo tỷ giá như thế nào?
25
2 .khi nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ thì có ảnh hưởng gì đến các phương
pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá?
Trả lời.
Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động của mình
tác động đến KL tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của
đất nước trong một thời kì nhất định.
Mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và kiểm soát lạm phát.
 CSTT mở rộng => lãi suất thực đồng nội tệ ↓ => tỷ giá hối đoái ↑ do đồng nội tệ giảm
giá so với ngoại tệ.
 CSTT thắt chặt => lãi suất thực đồng nội tệ ↑ => tỷ giá hối đoái ↓ do đồng nội tệ tăng
giá so với ngoại tệ.
Như vậy có thể nói chính sách tiền tệ tác động trực tiếp tới tỷ giá hối đoái nên trong thời kì
chính sách tiền tệ của nhà nước có nhiều biến động thì các biện pháp phòng chống rủi ro tỷ giá càng cần
được vận dụng một cách hợp lý.
Nhưng thực tế ở Việt Nam, nhà nước kiểm soát khá chặt chẽ chính sách tiền tệ dẫn tới tỷ giá hối
đoái ít biến động, tình hình chỉ thay đổi sau khi VN gia nhập WTO, tỷ giá hối đoái trong vài năm gần đây
có nhìu biến động vì vậy các doanh nghiệp trong nước nên tìm hiểu và vận dụng các phương pháp
phòng chống rủi ro tỷ giá.
Từ nhóm 3.
Câu 1:
 Trong 4 loại hợp đồng thì hợp đồng nào có tính đảm bảo chắc chắn
trong việc hạn chế tủi ro tỷ giá?
 Hợp đồng nào ưa chuộng sử dụng nhiều ở Việt Nam?

×