Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nguyên tắc thu ngân sách nhà nước và Thực trạng thất thu ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.08 KB, 20 trang )

I. LÝ THUYẾT
1. Khái niệm:
Từ đòi hỏi của xã hội về việc đảm bảo ổn định xã hội và giả quyết
những mâu thuẫn, xung đột giai cấp, tầng lớp, Nhà nước đã hình
thành với vai trò là cơ quan quản lí xã hội. Để có được những
phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của
mình, Nhà nước đã đặt ra các hình thưc thu khác nhau trong đó chủ
yếu là thuế để bắt buộc dân cư phải đóng góp hình thành quỹ tiền tệ
của Nhà nước. Ban đầu, Nhà nước sử dụng quỹ tiền tệ này chủ yếu
đê đảm bảo sự tồn tại của bộ máy Nhà nước, sau đó phạm vi sử
dụng được mở rộng dần theo sự mở rộng và phát triển các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính vì vậy, thu Ngân sách nhà nước
ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn
của Ngân sách nhà nước.
Qua sự hình thành các khoản thu Ngân sách nhà nước, có thể hiểu
thu Ngân sách nhà nước là việc nhà nước sử dụng quyền lực của
mình để huy động, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia để
hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
Thu ngân sách là một trong hai mặt hoạt động cơ bản của Ngân
sách nhà nước. về mặt bản chất kinh tế, thu Ngân sách nhà nước là
hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị nảy sinh
trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập
trung một phần nguồn tài chính trong xã hội hình thành quỹ Ngân
sách nhà nước nhằm thoả mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
2. Đặcđiểm:
Nguồn tài chính được tập trung vào ngân sách Nhà nước là những
khoản thu nhập của Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà
nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
- Thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia


giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia đó
là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và
phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực
hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối tượng
phân chia là nguồn tài chính quốc gia, là kết quả do lao
động sản xuất trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình
thức tiền tệ.
- Thu ngân sách Nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối
dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước
dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc
gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
- Thu ngân sách Nhà nước gắn chặt với thực trạng kinh tế và
sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, thu
nhập, lãi suất,… trong đó, chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thức
trạng của nền kinh tế có ảnh hưởng đến quy mô và mức độ
động viên của thu ngân sách Nhà nước là tổng sản phẩm
quốc nội. Sự vận động của các phạm trù giá trị này vừa tác
động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng
cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu ngân sách Nhà
nước.
3. Phânloại:
1. Căn cứ theo nội dung kinh tế của các khoản thu
- Thu thuế
- Thu phí, lệ phí
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: thu từ lợi tức từ hoạt
động góp vốn liên doanh, cổ phần của Nhà nước, thu hồi tiền
cho vay (cả gốc và lãi) của Nhà nước, thu hồi vốn đầu tư của
Nhà nước tại các cơ sở kinh tế - bán hoặc đấu giá doanh
nghiệp nhà nước.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp: thu từ bán sản phẩm sản xuất

thử nghiệm của đơn vị, bán sách do trường in ấn,…
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại
- Thu khác: phạt, tịch thu, tịch biên tài sản,…
2. Căn cứ theo tính chất phát sinh của các khoản thu
- Thu thường xuyên
- Thu không thường xuyên
3. Căn cứ theo tính cân đối của ngân sách Nhà nước
- Thu trong cân đối
- Thu ngoài cân đối
4. Cácnhântốảnhhưởng:
Có 4 nguyên tắc cơ bản :
1. Nguyên tắc ổn định lâu dài.
2. Nguyên tắc đảm bảo công bằng.
3. Nguyên tắc rõ ràng , chắc chắn.
4. Nguyên tắc đơn giản.
II. THỰC TRẠNG THẤT THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.Thực trạng thu ngân sách nhà nước năm 2014
•Tổng quan:Kết quả thu NSNN vượt dự toán, đảm bảo số báo cáo
Quốc hội. Trong đó, cả 3 lĩnh vực thu nội địa, thu từ dầu thô và thu
từ hoạt động xuất nhập khẩu đều vượt so dự toán.
Hầu hết các địa phương đều đạt và vượt dự toán; đã dành được
nguồn quan trọng chuyển sang năm sau thực hiện chính sách tiền
lương, bổ sung nguồn đảm bảo an sinh xã hội, xử lý nợ hoàn thuế
giá trị gia tăng, tăng chi trả nợ và xử lý một số nhiệm vụ cấp bách
khác.
•Cụ thể:Trình bày báo cáo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tài chính
Trần Xuân Hà cho biết, thu NSNN tính đến ngày 22/12/2014 là
831,19 nghìn tỷ đồng, đạt 106,2% dự toán, bằng 98,2% số ước thu

cả năm đã báo cáo Quốc hội. Trong đó: thu nội địa đạt 105% dự
toán, bằng 98,6% mức đánh giá cả năm đã báo cáo Quốc hội; thu
dầu thô đạt 118,4% dự toán, bằng 94,3% mức đánh giá cả năm đã
báo cáo Quốc hội; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt
104,5% dự toán, bằng 100,1% mức đánh giá cả năm đã báo cáo
Quốc hội. Ước tính cả năm thu NSNN đảm bảo mức đánh giá đã báo
cáo Quốc hội là 846,4 nghìn tỷ đồng. Hầu hết các địa phương đều
thu đạt và vượt dự toán được giao.
Tốc độ tăng GDP cả năm 2014 đã vượt kế hoạch đề ra và đạt tới
5,98, CPI bình quân năm dừng lại ở mức tăng 4,09% hàng loạt các
chỉ tiêu kinh tế-xã hội vĩ mô đã được cải thiện tốt tất cả đang làm
cho tình hình thu NSNN năm 2014 tiếp tục duy trì thành tích “đạt và
vượt dự toán”.
Lường trước những khó khăn kinh tế có thể tác động tới nguồn thu
NSNN, nên dự toán tổng thu NSNN năm 2014 đã thấp hơn 4,8% so
với con số thực hiện năm 2013, song thực tế số thu NSNN năm 2014
không những vượt 8,1% so với dự toán, mà còn cao hơn tới 24.400
tỷ đồng so với năm trước.Nguyên nhân là do tăng trưởng kinh tế
vượt mục tiêu đề ra trong khi các khoản thu lớn đều vượt so với dự
toán.
Mặc dù trong năm 2014 vẫn duy trì một số ưu đãi về thuế phí, nhằm
hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh
doanh, song một mặt nhờ số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
tăng 7,1% so với năm 2013, đạt con số 15.419 doanh nghiệp, cùng
với 74.842 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, và dù vẫn có tới
67.823 doanh nghiệp phải giải thể hoặc dừng hoạt động, kết cục
tổng số thu thuế và phí năm 2014 vẫn đạt tới trên 800 ngàn tỷ đồng,
hơn 8,1% so với dự toán và tăng 4,7% so với thực hiện năm 2013.
Theo đó, tỷ trọng thu thuế phí trong tổng thu NSNN năm 2014 tiếp
tục xu hướng tăng và đạt xấp xỉ 94,8% (cao hơn so với con số tương

ứng 93,2% năm 2013). Bên cạnh đó, nỗ lực đốc thu và chống thất
thu cũng như chống nợ đọng thuế suốt năm 2014, cả ở cấp Trung
ương cũng như cấp địa phương, đã hỗ trợ tích cực, đảm bảo hoàn
thành xuất sắc nghĩa vụ thu nộp NSNN.
Với dự toán thu NSNN tăng khoảng 7,6% so với thực hiện năm 2014
trong bối cảnh giá dầu thô được dự báo có thể xuống tới 40
USD/thùng. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá dầu thô
sụt giảm có thể làm NSNN hụt thu từ 7.500 tỷ đồng đến 11.500 tỷ
đồng tuỳ theo kịch bản giá dầu thô bình quân tương ứng từ 60
USD/thùng hay 40 USD/thùng.Tuy vậy, triển vọng thu NSNN vẫn
được bảo đảm bởi các yếu tố tích cực không kém phần quan trọng,
như: khả năng tăng trưởng kinh tế cao hơn so với năm 2014 với
GDP tăng khoảng 6,2%, lạm phát được kiềm chế ở mức khoảng
5%.Hơn nữa, kinh tế phục hồi với sự hỗ trợ của giảm chi phí năng
lượng trong sản xuất và tiêu dùng là điều kiện tốt để tăng tổng cầu
đầu tư và tổng cầu tiêu dùng.
Một điểm cần lưu ý là theo báo cáo của Bộ Tài chính, tỷ lệ huy động
NSNN năm 2014 là 20,5% GDP với qui mô GDP trên 4,2 triệu tỷ
đồng, nhưng thực tế GDP chỉ xấp xỉ 4 triệu tỷ đồng, nên gánh nặng
huy động NSNN năm 2014 lên đến 21,5% GDP tuy đã thấp hơn con
số tương ứng 22,9% GDP thực hiện năm 2013 nhưng vẫn cần đảm
bảo trong thực tế không cao hơn so với mức dự toán thu 20,3% GDP
năm 2015.
Mặcdùvậy, tình trạng thậm hụt ngân sách vẫn là một vấn đề nan
giải.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng thu ngân sách Nhà nước
15 ngày đầu tháng 1/2015 ước tính đạt 35.300 tỷ đồng, bằng 3,9%
dự toán năm.
Tuy nhiên , tổng chi ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng
1/2015 ước tính đạt 42.200 tỷ đồng, bằng 3,7% dự toán năm. Như

vậy, trong nửa đầu tháng 1, ngân sách nhà nước đã thâm hụt 6.900
tỷ đồng.

Trong cơ cấu chi ngân sách 15 ngày đầu tháng thì chi đầu tư phát
triển trên 6.500 tỷ đồng, bằng 3,4% (gần như toàn bộ chi cho đầu tư
xây dựng cơ bản); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt
30.100 tỷ đồng, bằng 3,9%; chi trả nợ và viện trợ 5.500 tỷ đồng,
bằng 3,7%.
Nguồn:
/>15-ngay-dau-nam-26156.html
2. Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Có thể thấy, kết quả thu NSNN năm 2014 như trên là khá tích cực
bởi bên cạnh các yếu tố thuận lợi là kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát
được kiểm soát, lãi suất huy động và cho vay giảm, tỷ giá, thị
trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao, xuất khẩu duy trì
đà tăng trưởng vẫn còn có những yếu tố không thuận.
- Thứ nhất, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm hơn dự báo. Bên
cạnh đó, căng thẳng địa chính trị ở nhiều nơi cộng với việc giá
dầu giảm sâu và nhanh đã tác động đến nguồn thu ngân sách.
- Thứ hai, ở trong nước, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, tổng cầu tăng chậm, thị
trường bất động sản phục hồi chậm, sản xuất kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp (DN) còn khó khăn
- Thứ ba, việc Quốc hội, Chính phủ ban hành các chính sách
miễn, giảm, giãn thuế và các khoản thu NSNN cho các đối
tượng an sinh xã hội hay để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh cũng đã làm giảm thu NSNN.
Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng
khác nhau đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình

trạng thâm hụt ngân sách nhà nước gồm các nguyên nhân chính
sau:
2.1. Nhóm nguyên nhân khách quan
a, Tác động của chu kì kinh doanh
Ở giai đoạn khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại,
nhưng nhu cầu chi lại tăng lên để giải quyết những khó khăn mới về
kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên.
Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong
khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội
chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra
được gọi là bội chi chu kỳ.
b, Do hậu quả các tác nhân gây ra
Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro thiên tai, dịch bệnh và đôi
khi cả những rủi ro do chính con người gây ra như chiến tranh,
khủng bố tình trạng dân số gia tăng…mặc dù khi lập dự toán ngân
sách các quốc gia đã có những biên pháp dự phòng nhưng đôi khi
rủi ro vượt ra ngoài dự đoán để xử lý các tình trạng khản cấp nhằm
ổn định các hoạt động kinh tế xã hội, nhà nước phải tăng chi và
thâm hụt ngân sách sảy ra ngoài mong muốn của nhà nước.
2.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
a, Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi
Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu
dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách
giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ
giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây
ra được gọi là bội chi cơ cấu.
b, Do điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý
b.1. Thất thu thuế nhà nước
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước
bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà

nước, vay, nhận viện trợ…tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn
nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các
cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng
kể cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế
và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn
đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, việc miễn thuế,
giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân
sách khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
b.2. Đầu tư công kém hiệu quả
Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình
trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa
phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công
những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã
gây lãng phí nguồn ngân sách
nhà nước và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên
nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá
kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm
hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng.
b.3. Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái
phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước.
Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng,
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm hụt ngân sách
tăng rất cao khoảng 8-12%GDP
b.4. Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách
áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng
ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi

giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn
thu ứng với các
nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân
sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi
hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các
công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy
tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều
đó luôn tạo sự
căng thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để
duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai
trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
b.5. Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng
tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu
dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các
khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt
động lành mạnh của hệ thống tài chính. Đa số các nhà kinh tế
thường thống nhất rằng chi tiêu
của chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở
tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không
hiệu quả =>thâm hụt ngân sách nhà nước =>lạm phát.
b.6. Tình trạng tham nhũng
Do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt
chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây
thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến thất thu ngân sách mà vẫn chưa có giải pháp cụ
thể, triệt để nào ngăn chặn
Dưới đây là một ví dụ về vụ án gây thất thu ngân sách nhà nước:
Ngày 27-5, TAND tỉnh Thanh Hóa đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử

các bị cáo: Nguyễn Thị Luân (SN 1963, chuyên viên phòng Nông
nghiệp huyện Lang Chánh), Tạ Văn Đông (SN 1963, ngụ huyện Thọ
Xuân) về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng”, Phạm Nguyên (SN 1968, nguyên trưởng
phòng Nông nghiệp huyện Lang Chánh) và Lê Văn Cường (SN 1959,
nguyên phó chủ tịch UBND huyện Lang Chánh)
Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Thanh Hóa, vụ việc liên quan đến
việc thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh Thanh Hóa về việc ban
hành cơ chế chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi gia súc,
gia cầm giai đoạn từ năm 2006 - 2010.
Huyện Lang Chánh đã điều tra xác định từ năm 2010 - 2013 trên địa
bàn huyện đã lập và triển khai 14 dự án. Trong đó có 1 trang trại
quy mô lớn có trên 300 con trâu, bò, 2 trang trại quy mô vừa từ 100
- 300 con trâu, bò và 11 trang trại quy mô nhỏ từ 50 - 100 con trâu,
bò. Theo đó, trang trại quy mô lớn sẽ được hỗ trợ 820 triệu
đồng/trang trại, quy mô vừa sẽ được hỗ trợ 120 triệu đồng/trang
trại, trang trại quy mô nhỏ nhận hỗ trợ 60 triệu đồng/trang trại.
Trong quá trình triển khai dự án, bị cáo Luân đã lợi dụng sự thiếu
hiểu biết của người dân để trục lợi. Cụ thể, bà Luân chỉ yêu cầu các
chủ trang trại photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chứng
minh nhân dân còn Luân làm sẵn các thủ tục hồ sơ và yêu cầu các
chủ trang trại ký và xin xác nhận của chính quyền xã rồi nộp lại cho
Luân.
Trong 3 năm, Luân đã nhận 900 triệu đồng từ dự án và đưa cho 13
hộ dân với số tiền 255 triệu đồng còn lại Luân giữ 645 triệu đồng. Số
tiền đó được Luân ghi chi trong 3 năm dành cho tiếp khách, đi công
tác, chúc tết Trong đó, năm 2010 chi 76 khoản, năm 2011 chi 67
khoản, năm 2012 chi 56 khoản,
Bà Luân đã chi 97 triệu đồng cho ông Lê Văn Cường, Phó chủ tịch
UBND huyện, đi tiếp khách, công tác, giao dịch; chi cho ông Phạm

Nguyên, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện, 88 triệu đồng đi tiếp
khách, công tác.
Ngoài ra, Nguyễn Thị Luân còn câu kết với Tạ Văn Đông, là một
trong những trang trại được liệt kê là lớn nhất huyện và được
UBND huyện cho đầu tư dự án với số vốn trên 3,6 tỉ đồng. Tuy nhiên
dự án này đã làm sai thiết kế phê duyệt, số lượng trâu, bò chỉ có 118
con, không đáp ứng điều kiện, tiêu chí để được hỗ trợ nhưng Đông
vẫn được nhận 820 triệu đồng tiền khuyến khích phát triền do sự
giúp đỡ, câu kết của Luân.
Sai phạm trên là do ông Phạm Nguyên, Phó trưởng ban quản lý dự
án đã không làm hết trách nhiệm. Trong 14 dự án, Nguyên chỉ đi
kiểm tra 1 trang trại nhưng khi được Luân đề xuất, báo cáo, Nguyên
đã ký xác nhận để các trang trại đủ tiêu chí nhận tiền hỗ trợ. Còn
ông Lê Văn Cường, với cương vị là Phó Chủ tịch huyện, Trưởng ban
quản lý dự án đã buông lỏng quản lý, tin tưởng cấp dưới đã ký phê
duyệt, quyết toán hỗ trợ tiền cho trang trại. Trong quá trình điều
tra, các bị can Cường, Nguyên, Đông, Luân đã tự nộp lại toàn bộ số
tiền cho nhà nước để khắc phục hậu quả.
Nguồn: />khach (28/5/2014)
3. Cách giải quyết của nhà nước
a. Chính sách tiền tệ
*6 tháng đầu năm
Trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu,
nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày
15/1/2014, trong 6 tháng đầu năm 2014, các đơn vị tại trụ sở chính
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tham mưu và thực hiện
điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều
tiết các chỉ tiêu tiền tệ phù hợp với theo mục tiêu kiểm soát lạm
phát, giảm lãi suất, thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định tỷ giá,
thị trường ngoại hối và vàng, triển khai các giải pháp tín dụng linh

hoạt kết hợp với các chính sách tín dụng đối với một số ngành, lĩnh
vực; tăng cường công tác thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của
các tổ chức tín dụng (TCTD) Các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố,
các TCTD triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách về tiền tệ, tín
dụng và hoạt động ngân hàng do NHNN ban hành
* 6 tháng cuối năm
Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và các nhiệm vụ
trọng tâm tại Chỉ thị 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách
tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả và theo
dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô tiền tệ, trong 6 tháng cuối năm 2014,
NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối
hợp chặt chẽ với chính sách tài khoá nhằm kiểm soát lạm phát theo
mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở
mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các TCTD và nền kinh tế;
thực hiện các giải pháp góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát
triển sản xuất kinh doanh; tập trung triển khai có hiệu quả các
nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ,
thanh khoản của các TCTD để kịp thời tham mưu, chủ động đề xuất
các giải pháp nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và an toàn
thanh khoản của hệ thống các TCTD.
2. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, gắn
kết chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô
khác nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Điều hành lãi suất phù hợp
với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt là lạm phát, góp phần
ổn định thị trường tiền tệ.
3. Điều hành tỷ giá linh hoạt góp phần hỗ trợ xuất khẩu, qua đó hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế; phối hợp chặt chẽ điều hành tỷ giá với điều

hành các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết tiền tệ hợp lý, tránh
gây áp lực lên tỷ giá và lạm phát, đảm bảo thanh khoản và an toàn
hệ thống. Bên cạnh đó, NHNN và các bộ, ngành có liên quan phối
hợp tăng cường các biện pháp quản lý ngoại hối, theo dõi, phát hiện
và xử lý nghiêm các hành vi gây rối, đầu cơ trục lợi, bất chính.
4. Tập trung triển khai các giải pháp tín dụng để phấn đấu đạt được
mục tiêu tín dụng cả năm 2014 là 12-14%, tiếp tục tháo gỡ khó
khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, đáp ứng vốn cho nền
kinh tế.
5. Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ về quản lý thị trường vàng theo
quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP. Theo dõi chặt chẽ diễn biến
thị trường và kịp thời đề xuất các biện pháp can thiệp thị trường
khi cần thiết, đảm bảo mục tiêu điều hành chính sách và góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô.
6. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, theo dõi sát
diễn biến thị trường, vốn khả dụng của các TCTD, kế hoạch phát
hành, giải ngân trái phiếu Chính phủ để chủ động, kịp thời trong
điều hành chính sách tiền tệ.
7. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của
các TCTD; phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những sai phạm và
rủi ro gây mất ổn định để đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và
hệ thống các TCTD. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu
lại các TCTD theo đúng mục tiêu, lộ trình của Đề án cơ cấu lại hệ
thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012.
8. Ràsoáthoànthiệncácchínhsáchthuvàtăngthu NSNN ở
mộtsốsắcthuế, nội dung thunhằmbùđắpsựsụtgiảmthu NSNN.
Chính sách thu NSNN đã được rà soát và hoàn thiện theo hướng bảo
đảm phù hợp với lộ trình giảm thuế đã cam kết theo các hiệp định

tự do thương mại song phương và đa phương, tăng thuế suất đối
với một số mặt hàng không khuyến khích sử dụng như tăng thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia và thuốc lá theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 70/2014/QH13
ngày 26/11/2014; Điều chỉnh barem về thuế suất thuế nhập khẩu
ưu đãi các mặt hàng xăng, dầu thuộc nhóm 2710 tại Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi tương ứng với giá các mặt hàng dầu trên thị trường
thế giới, đồng thời điều chỉnh tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đối với một số mặt hàng xăng, dầu. Trước đó, Nghị quyết
57/2013/QH13 ngày 12/11/2013 cũng đã quy định thu vào NSNN
75% số tiền lãi dầu, khí nước chủ nhà được chia và tiền đọc tài liệu
phát sinh trong năm 2014; Thực hiện thu NSNN đối với cổ tức được
chia năm 2014 cho phần vốn Nhà nước của các công ty cổ phần có
vốn góp của Nhà nước do bộ, ngành, địa phương đại diện chủ sở
hữu và phần lợi nhuận còn lại sau khi trích nộp các quỹ theo quy
định của pháp luật của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ.
9. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan giảm số giờ
thu nộp ngân sách của người nộp thuế.
Việc tăng cường công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế,
đơn giản hóa quy trình, thủ tục, hồ sơ cũng như số lần khai nộp
thuế, hiện đại hóa công tác thu nộp ngân sách đã giúp giảm 290 giờ
nộp thuế của DN (từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/ năm, không
tính thời gian nộp bảo hiểm). Ngoài ra, từ năm 2015, khi thực hiện
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế số
71/2014/QH13 công tác này sẽ giảm thêm được 80 giờ (từ 247 giờ/
năm xuống còn 167 giờ/năm).
b. Chính sách tài khóa
Theo Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, Chính phủ yêu
cầu tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, triệt để tiết
kiệm.
1. Đồng bộ, hiệu quả các giải pháp về điều hành ngân sách nhà nước
Nghị quyết nêu rõ: Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2014 đã được Quốc hội thông qua là: "Tiếp tục ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng
cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở
đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Sử dụng hợp lý và có hiệu
quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; cải thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc
phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mở rộng và nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế".
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong các Nghị
quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự
toán ngân sách nhà nước năm 2014, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ
quan, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập
trung chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Để thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, Chính
phủ yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp về điều
hành ngân sách nhà nước, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ thu, chi
theo dự toán đã được Quốc hội quyết định. Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương tài chính. Không ban hành, điều chỉnh chính sách làm giảm
thu và tăng chi ngân sách nhà nước ảnh hưởng đến cân đối ngân
sách nhà nước và an ninh tài chính quốc gia. Điều hành bội chi ngân

sách nhà nước theo kế hoạch. Trường hợp tăng thu so với dự toán
được giao, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án sử dụng một
phần để giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Đồng thời rà soát, quản lý chặt chẽ các khoản chi ngân sách nhà
nước, bảo đảm đúng dự toán được duyệt. Triệt để tiết kiệm chi cho
bộ máy quản lý nhà nước, sự nghiệp công, cắt giảm tối đa kinh phí
tổ chức hội nghị, hội thảo, chi công tác nước ngoài, chi cho lễ hội, lễ
kỷ niệm, khởi công, khánh thành, tổng kết và các khoản chi chưa cần
thiết khác. Không mua xe công (trừ xe chuyên dùng theo quy định
của pháp luật); hạn chế tối đa chi chuyển nguồn. Từng bước xử lý
dứt điểm các khoản mà ngân sách còn nợ. Nghiên cứu, có giải pháp
khắc phục tình trạng chồng chéo, lãng phí, kém hiệu quả trong việc
bố trí kinh phí và triển khai thực hiện các chương trình, dự án,
nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước từ Trung ương đến địa
phương.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công, nhất là quản lý sử
dụng có hiệu quả vốn vay, quản lý tốt nợ trung hạn và quỹ tích lũy
trả nợ, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro; kiểm soát chặt chẽ việc cấp
bảo lãnh Chính phủ, tăng cường cơ chế chia sẻ rủi ro đối với các
khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại bảo đảm kiểm
soát mức dư nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia
trong giới hạn an toàn.
Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện
đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường vốn, thị trường chứng
khoán. Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện môi trường pháp lý
nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tài chính lành mạnh, an toàn.
Triển khai đồng bộ các giải pháp theo Đề án tái cấu trúc thị trường
chứng khoán, Đề án phát triển thị trường chứng khoán đến năm
2020, Đề án hình thành và phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện;

2.Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty, các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ban
Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp và các Bộ, cơ quan, địa
phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao tiếp tục tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước theo đề án được duyệt. Tập trung thực hiện
các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, nâng cao hiệu quả
hoạt động, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tổ chức
lại một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phù hợp với thực
trạng và yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước theo ngành, lĩnh vực kinh doanh, không phân biệt
cấp, cơ quan quản lý.
Bên cạnh đó, Chính phủ yêu cầu đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn
đầu tư ngoài ngành, giảm và bán toàn bộ vốn nhà nước ở các doanh
nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối theo
nguyên tắc thị trường và lộ trình đã được phê duyệt.
Đồng thời, tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động, tình
hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, bảo đảm hoạt
động đúng mục tiêu, nhiệm vụ được giao, hiệu quả và tuân thủ quy
định của pháp luật. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật và
không nghiêm túc thực hiện Đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt.
Để tạo thuận lợi trong tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, Chính phủ đề
nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan, địa phương đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu theo Đề án đã
được phê duyệt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản
xuất tiếp cận vốn tín dụng, điều hành lãi suất cho vay phù hợp, bảo
đảm hài hòa lợi ích giữa tổ chức tín dụng, người gửi tiền và khách
hàng vay. Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng rà soát, phân loại
nợ, đối tượng vay; thực hiện cơ cấu lại nợ, kể cả việc xem xét khoanh

nợ trên cơ sở khả năng tài chính của tổ chức tín dụng. Đề cao trách
nhiệm của các tổ chức tín dụng và đẩy mạnh hoạt động của Công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong xử lý nợ
xấu.
Đồng thời phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan sửa
đổi, bổ sung quy định về giao dịch bảo đảm và các quy định liên
quan về bán đấu giá tài sản, tài sản bảo đảm và phát triển thị
trường mua bán nợ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay, thu hồi nợ; Tiếp tục tập trung ưu tiên vốn tín
dụng cho nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ cao. Chỉ
đạo các tổ chức tín dụng cân đối nguồn vốn phục vụ kịp thời cho Đề
án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu NSNN; chú trọng
công tác quản lý nợ thuế.
Nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường quản lý thu NSNN, công tác
thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra
về công tác hoàn thuế GTGT và chống chuyển giá. Năm 2014, ngành
Tài chính đã thanh tra, kiểm tra hơn 67.000 DN; kiểm tra trên 3.000
hồ sơ sau hoàn thuế; thanh tra kiểm tra gần 3.000 DN lỗ, DN có dấu
hiệu chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết.
Công tác quản lý nợ thuế cũng được chú trọng thông qua việc tăng
cường áp dụng các biện pháp đôn đốc thu nợ, cưỡng chế nợ thuế
bằng nhiều hình thức phù hợp. Kết quả là năm 2014 đã thu 50% số
nợ thuế tại thời điểm cuối năm 2013.
Các biện pháp nêu trên đã mang lại kết quả thu NSNN tích cực, đồng
thời tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN phát
triển trong bối cảnh tình hình kinh tế trong và ngoài nước còn gặp
nhiều khó khăn.

4. Kếtquả :
Năm 2014, triển khai thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước
trong bối cảnh tình hình thế giới còn khó khăn, phức tạp. Trong
nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi như kinh tế tiếp tục chuyển
biến tích cực, đúng hướng; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn
nhưng sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn suy yếu, tình hình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
thiên tai dịch bệnh khó lường Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt
của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Bộ Tài chính, kết quả thu ngân
sách năm 2014 ước đạt 930.100 tỷ đồng, đạt 109,6% dự toán pháp
lệnh, bằng 100,4% so với thực hiện năm 2013. Cùng với việc điều
hành đồng bộ chính sách tài khoá, tiền tệ , công tác quản lý , điều
hành giá năm 2014 đã góp phần thắng lợi mục tiêu tiếp tục ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát đề ra tại Nghị quyết 01/NQ -CP
của Chính phủ. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng tăng
thấp, chỉ số CPI tháng 11/2014 chỉ tăng 2,08% so với tháng
12/2013 - mức tăng thấp nhất so với mức tăng cùng kỳ hơn 10 năm
gần đây. Với sự nỗ lực của Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan,
đưa số doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử trên toàn quốc
từ 65% lên 95%, thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm 290
giờ
Tại hội nghị, đại diện Bộ tài chính cũng báo cáo về công tác chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; tình hình thực hiện công
tác tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cấu trúc thị trường chứng
khoán, bảo hiểm; công tác quản lý nợ công, định hướng giải pháp
đảm bảo an toàn nợ công; tình hình thị trường tài chính năm 2014,
định hướng năm 2015; đánh giá công tác hội nhập tài chính quốc
tế.

Năm 2015, kinh tế thế giới dự báo phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều

rủi ro, giá dầu thô đang giảm nhanh và mạnh. Kinh tế nước ta đang
phục hồi, dự báo chưa thể tăng trưởng nhanh. Bên cạnh đó, nhà
nước đang đẩy nhanh lộ trình thực hiện cải cách thuế, giảm mức
điều tiết thu đối với một số sắc thuế lớn để tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp, thu hút đầu tư, từng bước khôi phục đà tăng trưởng
của nền kinh tế, phấn đấu đạt mức thu nội địa không kể dầu thô
vượt tối thiểu 8-10% dự toán pháp lệnh đã được Quốc hội, Chính
phủ giao.

×