Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Giáo trình môn tiền tệ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.24 KB, 76 trang )

CHƯƠNG 1: TIỀN TỆ VÀ CUNG CẦU TIỀN TỆ.
1.1- VAI TRÒ, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA CỦA
TIỀN
1.1.1- Vai trò, định nghĩa và chức năng của tiền
1.1.1.1- Vai trò của tiền
Tiền như là máu trong cơ thể, nhưng nhận thức về vai trò của tiền lại rất khác nhau
trong mỗi thời kỳ khác nhau.
Giai đoạn đầu, vào khoảng thế kỷ 16, tiêu biểu là trường phái trọng thương, cho tiền là
đại diện cho sự giàu có của mỗi quốc gia, mỗi gia đình và cho mỗi người. Và để có tiền,
con đường khả dĩ có thể thực hiện được là buôn bán để kiếm được nhiều tiền.
Giai đoạn hai, người ta lại cho tiền như là một thứ hư tưởng, đại diện cho trường phái
này là Francois Quesney. Ông ta cho rằng, sự giàu có phải tìm ở nông nghiệp – một quan
điểm đại diện cho trường phái trọng nông thời đó.
Giai đoạn ba, từ đầu thế kỷ thứ 19 đến giờ, các nhà kinh tế bắt đầu xét lại quan điểm
của các nhà kinh tế trước đó (tức các tác giả cổ điển) và cho rằng, tiền đóng vai trò hết
sức quan trọng, bắt đầu từ S.M.Keynes, Samuelson và các nhà kinh tế khác. Với Keynes,
được phản ánh trong tác phẩm “Lý thuyết tổng quát về nhân dụng, tiền tệ và lãi suất-
1936” cho rằng tiền có hai vai trò:
- Tiền là công cụ để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, quản lý các hoạt động
đó theo một chính sách nhất định.
- Tiền có vai trò tổng hợp thông tin trên các thị trường.
Samuelson cho rằng, khác với nền kinh tế trao đổi, nền kinh tế tiền tệ, mà đặc trưng cơ
bản của nó là sử dụng tiền tệ như là một công cụ quan trọng, quy định và chi phối toàn bộ
hành vi kinh tế, điều khiển tất cả các hoạt động kinh tế, thực hiện các mối quan hệ kinh tế
trên các thị trường.
Còn Frederic S. Mishkin cho rằng: Tiền được gắn với những thay đổi trong các biến số
kinh tế. Những biến số này tác động đến tất cả chúng ta và chúng ta coi đó là quan trọng
đối với sức khỏe của nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, vai trò của tiền được thể hiện rõ nét với các nội dung:
*Tiền là phương tiện để mở rộng và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa.
Tiền là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Nhưng khi tiền xuất hiện, nó lại trở thành


công cụ thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển lên mức độ cao hơn, bởi vì:
Thứ nhất, tiền đã làm cho giá trị của các hàng hóa được biểu hiện một cách đơn giản.
Nghĩa là giá trị của các hàng hóa đều được biểu hiện bằng tiền, do đó chúng có thể so sánh
được với nhau một cách dễ dàng. Trên cơ sở này, những người sản xuất hàng hóa có thể so
sánh được với nhau về mức độ và trình độ lao động của mình đã bỏ ra cho xã hội trong
cùng một đơn vị thời gian.
1
Thứ hai, tiền đã làm cho giá trị của hàng hóa được thực hiện một cách thuận lợi. Người
sở hữu hàng hóa, chỉ cần chuyển đổi hàng hóa của mình thành tiền rồi từ đó họ có thể đạt
tới giá trị sử dụng mới mọt cách dễ dàng theo “sở thích”.
Thứ ba, tiền đã làm cho trao đổi hàng hóa không bị ràng buộc về không gian và thời gian.
Chính vì thế đã làm cho sự lựa chọn của những người tham gia vào quá trình trao đổi càng
nên thận trọng và chính xác hơn.
Thứ tư, tiền đã làm cho việc hạch toán hiệu quả sản xuất kinh doanh trở nên thuận tiện và
đầy đủ.
*Tiền biểu hiện quan hệ xã hội
Đằng sau quan hệ tiền – hàng, đó là quan hệ giữa người với người Những người sản xuất
hàng hóa, tiến hành sản xuất riêng lẻ, độc lập. Nhưng họ lại có quan hệ mật thiết với nhau
thông qua trao đổi. Trong quan hệ này tiền là “sợi dây” liên hệ ràng buộc giữa những người
sản xuất với nhau. Sự liên hệ và ràng buộc giữa những người sản xuất hàng hóa thẻ hiện
bằng quan hệ tiền – hàng chỉ là hình thức. Bên trong quan hệ này luôn luôn diễn ra sự phân
hóa chia rẽ giữa những người “bạn hàng”. Tiêu thụ hết hàng, là nguyện vọng của những
người sản xuất. Nhưng tùy theo điều kiện và trình độ của từng người, tùy theo thị trường
và thời điểm bán… có người bán hết hàng, nhưng có người lại không tiêu thụ được hàng.
Quá trình này đã phân hóa những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Do đó dẫn
đến địa vị của họ rong xã hội khác nhau. Chính vì vậy mà người ta coi việc chuyển hàng
thành tiền: nhanh, chậm, nhiều, ít; đắt, rẻ… gắn với “số phận” và sự “may rủi”của từng
người. Cái đó đã dẫn đến hiện tượng sùng bái tiền trong xã hội.
* Tiền là phương tiện phục vụ mục đích của người sử dụng chúng
Tùy thuộc vào tính chất của phương thức sản xuất xã hội , tùy thuộc vào địa vị của người

sở hữu tiền, mà tiền được sử dụng với những mục đích khác nhau.
Trong nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường, các cá nhân,
các doanh nghiệp, các tổ chức, kể cả Nhà nước muốn đạt được mục đích của mình đều phải
sử dụng tiền ở mức độ tích hợp.
Tiền là biểu hiện bên ngoài của tài chính và của nguồn lực. Ở đâu còn chính quyền và
luật pháp, thì ở đó vẫn còn thé lực của tiền và đằng sau chúng là những người sở hữu tiền.
Thế lực này chưa thể bi tước bỏ khi nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng. Vì vậy thé
lực của tiền không chỉ thể hiện trong phạm vi quốc gia, mà còn mang tinh chất quốc tế.
1.1.1.2. Định nghĩa tiền
Do từ tiền (money) được sử dụng một cách thường xuyên trong các cuộc nói chuyện
hàng ngày, nó có thể có nhiều nghĩa, nhưng đối với các nhà kinh tế, có có nghĩa riêng. Để
làm sáng tỏ, phải làm rõ việc dùng tiền của các nhà kinh tế và so với việc sử dụng theo
thông lệ
Giả sử một kẻ cướp lăm le một con dao đòi tiền, vậy chính xác là hắn ta muốn gì?-
Muốn tiền mặt.
Định nghĩa tiền (money) chỉ đơn thuần là đồng tiền (currency) thì quá hẹp đối với các
nhà kinh tế vì séc được chấp nhận như là tiền khi mua bán, do vậy các món tiền gửi ở tài
khoản séc cũng được coi như là tiền, nhưng như vậy cũng chưa đủ vì có các loại khác
như séc du lịch hay tiền gửi tiết kiệm đôi khi được dùng để thanh toán cho hàng hóa và
2
dịch vụ, và nó cũng giống như tiền, nếu nó có thể được chuyển hóa ra tiền mặt một cách
dễ dàng.
Gây rắc rối hơn còn ở những khía cạnh khác.
- Tiền thường được dùng một cách đồng nghĩa với của cải (weath). Khi ta nói người
nào đó có nhiều tiền, có thể là họ muốn nói không chỉ có tiền mặt mà còn là số dư có
trong tài khoản, cổ phiếu, rái phiếu, nhà cửa, xe cộ, đất đai,…
Và bao giờ các nhà kinh tế cũng phân biệt giữa tiền và của cải.
- Tiền khác với thu nhập (income). Thu nhập là lượng tiền kiếm được trong một dơn
vị thời gian.
Tóm lại, tiền theo định nghĩa của chúng ta là, bất cứ cái gì được chấp nhận chung

trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ khác nhau hoặc để hoàn trả nợ.
1.1.1.3. Chức năng của tiền
Dù tiền như trước kia là vỏ sò, hoặc đó, hoặc vàng, hoặc giấy… trong nền kinh tế, các
nhà kinh tế cho tiền có 3 chức năng, đó là phương tiện trao đổi, đơn vị tính toán và tồn
trữ giá trị
(Trong một sách giáo khoa trước đây người ta cho rằng tiền có 5 chức năng: chức năng
thước đo giá trị, chức năng làm phương tiện lưu thông, chức năng làm phương tiện
thanh toán, chức năng cất trữ và chức năng làm tiền tệ thế giới)
*Phương tiện trao đổi (means of exchange)
Hầu hết các giao dịch thị trường trong nền kinh tế, dù là tiền mặt hay séc, đều là
phương tiện trao đổi, tức là nó dễ dàng đổi lấy hàng hóa hay dịch vụ. Nó khắc phục sự
bất tiện của sự đổi chác.
Ví dụ: Một giáo sư kinh tế nếu muốn ăn thì phải tìm đến một người làm ruộng với điều
kiện là người nông dân này không chỉ làm ra lúa gạo, thức ăn mà còn phai thích học kinh
tế. Đây rõ ràng là khó khăn, thậm chí vị giáo sư này phai bỏ giảng để làm ruộng để có ăn.
Chi phí thời gian để trao đổi hàng hóa và dịch vụ gọi là chi phí giao dịch. Trong một
nền kinh tế trao đổi, chi phí giao dịch là cao vì người ta phải thỏa mãn hi ý muốn trùng
khớp. Khắc phục điều này chỉ có tiền, nghĩa là vị giáo sư có thể dạy học và khi có tiền,
dùng tiền để mua đồ ăn và do đó, tiết kiệm được thời gian.
Tiền cũng thúc đẩy hiệu quả khi cho phép người ta chuyên làm một việc. Nó như là một
thức dầu mỡ bôi trơn cho guồng máy kinh tế, nó khuyến khích chuyên môn hóa và phân
công lao động.
Để một hàng hóa hoạt động như là tiền thì phải có một số tiêu chuẩn:
- Nó có thể tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng, làm dễ dàng cho việc xác định giá trị
của nó.
- Nó phải được chấp nhận một cách rộng rãi.
- Nó có thể chia nhỏ, qua đó dễ đổi chác.
- Nó phải dễ chuyên chở.
- Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng.
Trước đây người ta đã sáng tạo ra những công cụ từ thế giới hàng hóa để từ thế giới

này, tách ra một hàng hóa nào đó để làm tiền, như vỏ sò(người thổ dân Châu Mỹ), thuốc
là và rượu Wisky (do thực dân buổi đầu tìm ra chây Mỹ) và cuối cùng là vàng và bạc.
3
* Đơn vị đánh giá hay tiêu chuẩn giá trị( Standard of Value)
Chức năng thứ hai của tiền là đơn vị đánh giá nghĩa là nó được dùng để do giá trị của
nền kinh tế. Chúng ta đo giá trị hàng hóa bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng
bằng kg, độ dài bằng : Tiền cung cấp đơn vị chuẩn cho việc đo lường giá trị.
- Tồn trữ giá trị: tiền hôm nay có thể được sử dụng vào ngày mai cho nên tiền có chức
năng dự trữ giá trị.
1.1.2. Các hình thái của tiền
Tiền tệ xuất hiện và đã phát triển qua các hình thái chủ yếu: hóa tệ, tín tệ, bút tệ và tiền
điện tử.
1.1.2.1. Hóa tệ
Một hàng hóa nào đó giữ vai trò của vật trung gian trong trao đổi được gọi là hóa tệ.
Có thể chia hóa tệ thành hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại quý (kim tệ).
* Hóa tệ không kim loại:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn ngẫu nhiên,
không còn trên cơ sở của sự định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp
một vài hàng hóa, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng nhiều hơn đó
giữa các hàng hóa đòi hỏi phải có một hàng hóa có tính chất đồng nhất, tiện dụng trong
vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận tiện cho trao đổi và bảo tồn giá trị.
Hình thái đầu tiên của tiền tệ có vẻ lạ lung, nhưng nói chung là những vật trang sức hay
những thứ để ăn.Thổ dân ở các bờ biển châu Á, châu phi trước đây đã dung vỏ sò, vỏ ốc
làm tiền. Người dân quần đảo Polyneise thì dùng long chim. Gạo thì được dùng ở quần
đảo Philippines. Ở Trung Quốc thì dùng lưỡi câu, dao và từ thế kỷ III trước công
nguyên, cả vải lụa. Gia súc cũng là một trong những loại “tiền” như cừu, dê, bò,…
Tiền tệ bằng hàng hóa có những bất tiện nhất định của nó trong quá trình phục vụ trao
đổi như không được mọi người, mọi nơi chấp nhận, dễ hư hỏng, không đồng nhất nên
khó phân chia thanh những đơn vị nhỏ để phục vụ trao đổi… những khó khăn đó đưa đến
việc sử dụng hóa tệ bằng kim loại quí.

* Hóa tệ bằng kim loại quí
Khi sản xuất trao đổi hàng hóa phát triển kèm theo sự mở rộng phân công lao động xã
hội đồng thời với sự xuất hiện các giao dịch quốc tế thường xuyên và sự ra đời Nhà nước
thì người giao. Kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bật trong vai trò của vật ngang
giá bởi những thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến… và từ đó, những đồng tiền bằng
kim loại đồng, chì, kẽm, thiếc, bạc, vàng xuất hiện thay thế cho hóa tệ không kim loại.
Tiền bằng chì xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới dạng một thỏi dài có lỗ ở một đầu để
có thể xâu thanh chuỗi. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những
năm 685-652 trước công nguyên ở vùng Lidia (Tiểu Á) có đóng dấu in hình nổi để đảm
bảo giá trị. Các đồng tiền bằng kim loại đã sớm xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải, song
cũng sớm bị mất giá vì thường bị cắt xẻo xung quanh, sau nhờ kỹ thuật đúc tiền có khuôn
khổ nhất định có khía ở mép ngoài nên tránh được việc cắt xẻo. Tiền kim loại đầu tiên ở
Anh làm bằng thiếc, ở Thụy Sĩ và Nga làm bằng đồng, khi bạch kim mới được phát hiện.
Trong thời kỳ 1828-1844, người Nga cho đó là kim loại không sử dụng được nên đem
đúc tiền. Nếu so với các loại tiền tệ trước đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ưu điểm
nhất định cũng đưa đến những bất tiện trong quá trình phát triển trao đổi cồng kềnh, khó
4
cất giữ, khó chuyên chở… Cuối cùng các kim loại quý như vàng bạc, một loại tiền tệ
thực tự chúng có giá trị nội tại trở nên thong dụng trong một thời gian khá lâu cho đến
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Khoảng thế kỷ thứ 16 ở châu Âu nhiều nước sử dụng vàng làm tiền, có nước vừa sử
dụng vàng vừa sử dụng bạc. Các nước châu Á sử dụng bạc là phổ biến. Việc đúc quý kim
thành tiền ngay từ đầu coi là vương quyền, đánh dấu kỷ nguyên ngự trị của lãnh chúa,
vua chúa phong kiến.
Lịch sử phát triển của tiền kim loại quí đã trải qua 3 biến cố chủ yếu, quyết định đến
việc sử dụng phổ biến tiền làm bằng kim loại quý.
- Sự gia tăng dân số
1.1.2.2. Tín tệ hay tiền danh nghĩa ( Fiat Currency or Token Currency)
Giá trị của tiền cao hơn nhiều so với giá trị vật làm tiền bao gồm tiền giấy và tiền kim
loại.

- Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc hình thái hóa
tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không phù hợp với giá trị danh
nghĩa, tiền bằng kim loại hiện nay phần lớn được đúc để sử dụng làm tiền lẻ.
- Tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
+ Tiền giấy khả hoán là thứ tiền được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền bạc ký
thác ở ngân hàng. Bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi
lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị ghi trên tiền giấy khả hoán đó.
Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các
thương gia hình thành những thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn, thị tứ
lớn. Các thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận lấy giấy
chứng nhận gọi là phi tiền, với phi tiền các thương gia có thể mua hàng ở các thị trấn
khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài phi tiền triều đình nhà Tống còn phát
hành tiền giấy gọi là giao sao (giao tử) được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời trần, Hồ Quí Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy.
Nhân dân ai cũng phải nộp tiền vào cho Nhà nước, cứ một quan tiền tiền đồng đổi được
hai quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quí Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật
đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và cộng thêm sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền
đồng và tiền giấy (cho tiền giấy có giá trị thấp hơn)
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước
Châu Âu. Từ đầu thế kỷ 17, ở Hà Lan, ngân hàng Ansterdam đã cấp cho những than chủ
gửi vàng bạc vào ngân hàng những chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể
đem những tờ giấy nhỏ đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người
khác, các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một chủ ngân hàng người Thụy
Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân
hàngPalmstruch đã có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy
được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loạn và nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây
nhiều thiết hại cho dân chúng, trong trường hợp này vua chúa các nước phải can thiệp
và cho rằng, việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là
một nguồn lợi lớn. Vương quyền các nước Châu Âu chỉ thừa nhận một ngân hàng tư có
quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:

5
- Điều kiện khả hoán: tức có thể đổi lấy bất kỳ lúc nào tại ngân hàng phát hành.
- Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo, điều kiện này ban dầu quy định là 100% sau
còn khoản 40%.
- Điều kiện phải nộp thuế
1.1.2.3. Bút tệ
Tiền do hoạt động ngân hàng tạo ra. Bút tệ lưu động là séc (cheque) nó là một hình
thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách của ngân hàng.
1.1.2.4.Tiền điện tử hay tiền nhựa
Hiện nay nhờ công nghệ thông tin phát triển và dịch vụ ngân hàng ngày càng hiện đại
do đó xuất hiện các loại thẻ Credit Card, Master Card được sử dụng như tiền.
1.1.3. Chế độ tiền
Là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước được xác định bằng luật pháp,
dựa trên một cơ sở nhất định gọi là bản vị tiền tệ.
1.1.3.1. Chế độ bản vị bạc và chế độ bản vị vàng
- Bản vị bạc là dùng bạc để định nghĩa cho đơn vị tiền
- Bản vị vàng là dùng vàng để định nghĩa cho đơn vị tiền
Đặc điểm chung:
- Đơn vị tiền được định nghĩa theo vàng hay bạc
- Cho phép đổi tiền lấy vàng hay bạc và ngược lại
- Cho phép lưu thông tiền và vàng bạc ra nước ngoài
Ví dụ: Năm 1775 1USD =25,92 gram bạc ròng
1.1.3.2. Chế độ song bản vị (Bimetalic standard): Dùng cả vàng và bạc làm bản vị cho
tiền và lưu hành song song với nhau.
Ví dụ: * Vào năm 1914, Pháp định nghĩa đồng franc vừa theo vàng vừa theo bạc như sau:
1 franc vàng = 322,5mg vàng chuẩn độ 0,900
1 franc bạc = 5g bạc chuẩn độ 0,900
*Tương tự vào năm 1792 ở Mỹ đồng dollar cũng được định nghĩa vừa theo vàng
vừa theo bạc như sau:
1USD vàng = 1603,8mg vàng ròng

1USD bạc = 24,06g bạc ròng
=> Ta thấy rằng 1 franc bạc nặng gấp 15,5 lần franc vào ở Pháp và 1dollar bạc nặng gấp
15 lần dollar vàng ở Mỹ.
Chế độ song bản vị có những đặc điểm chính như sau:
- Dân chúng được mang vàng và bạc đến sở để đúc ra tiền.
- Có mối quan hệ pháp định giữa vàng và bạc
- Vàng và bạc là tiền pháp định
1.1.3.3. Chế độ bản vị ngoại tệ
6
Là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một quốc gia nào đó được định nghĩa theo
một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh. Ngoại tệ mạnh được dung làm bản vị có
thể không được chuyển đổi ra vàng. Nhưng các nước theo chế độ bản vị ngoại tệ thường
tích lũy ngoại tệ được chọn làm bản vị và ký gửi ở ngân hang Trung ương quốc gia có
ngoại tệ được làm bản vị nhằm đảm bảo giá trị cho đồng tiền của mình. Lịch sử tiền tệ
cho thấy những ngoại tệ mạnh như bảng Anh(GBP), dollar Mỹ(USD), franc Pháp(FrF)
đã từng được chọn làm bản vị cho nhiều đồng tiền của nhiều nước trên thế giới.
1.1.4. Chế độ lưu thông tiền giấy
1.1.4.1. Giá trị của tiền giấy và quy luật lưu thông tiền giấy ( được đổi ra vàng)
- Giá danh nghĩa là mệnh giá ghi trên tờ giấy.
- Giá trị thực – biểu hiện mối tương quan giữa giá trị danh nghĩa của tổng số tiền giấy
và giá trị của số lượng tiền vàng cần thiết cho lưu thông mà nó đại diện – tức là sức mua
của tiền giấy.
Ví dụ: Giả sử ta có: + số lượng tiền cần thiết cho lưu thông là 11.000 tỷ.
+ Số lương tiền phát hành là 11.000 triệu tờ
Thì giá trị của một tờ tiền giấy là 11.000 tỷ/11.000 triệu = 1.000đồng.
Giá trị thực của một tờ tiền giấy là 1.000đ (phù hợp với giá trị dang nghĩa)
1.1.4.2.Chế độ lưu thông tiền giấy khả hoán (đổi được ra vàng) (Convertible Paper
Money)
a. Chế độ bản vị bảng Anh
Chiến tranh Thế giới Thứ Hai ( 1914-1918) làm cho các nước tư bản suy yếu tuy

nhiên sau một thời gian ngắn các nền kinh tế này đã phục hồi. Trước tình hình đó một số
nước lớn đã cố gắng phục hồi chế độ bản vị vàng.
- Các nước có dự trữ vàng lớn lấy vàng làm bản vị
- Các nước không có lượng vàng dự trữ lớn lấy Bảng Anh làm bản vị. Việc này đã làm
cho nước Anh có một vị trí rất quan trọng trên thế giới.
b. Chế độ bản vị USD hay gọi là hệ thống tiền tệ Bretton Woods
• Trước khi chế độ này thành lập, trên thế giới chia thành ba khu vực bản vị USD,
FrF,GBP. Cuộc Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ Hai kết thúc, kinh tế Mỹ phát triển và
nền kinh tế Anh suy thoái do đó đã ra đời Hiệp ước Bretton Woods. Theo hiệp ước
này USD sẽ lấy vàng làm bản vị, các nước khác lấy USD làm bản vị. Sau đó Mỹ sa
lầy ở Việt Nam nên phá giá đồng tiền của mình liên tục và đến ngày 12/02/1973 chế
độ bản vị USD chính thức khai tử.
Hình 1: Bản vị USD
7
USD Vàng
FrF
GBP
Tiền khác
• Quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right)(SDR). Đây là đơn vị tiền ghi sổ do
IMF phát hành cho các nước hội viên gồm hỗn hợp các loại tiền USD, DEM, GBP,
FRF, JPY) và tài sản dự trữ quốc tế (ngoại trừ vàng) được ghi tên trong các thành viên
tùy theo ngạch được cấp. Theo hiệp ước Bretton Woods các nước đóng một lượng
tiền vào quỹ của IMF:
- 75% bằng tiền của nước mình
- 25% bằng tiền mạnh
Khi các nước này gặp khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế, có thể rút 125% số tiền
của mình đóng góp.
c. Đồng tiền chung Châu Âu.
Thực tế đây là chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong đó các thành viên sử dụng một loại
tiền đó là đồng Euro. (Liên minh châu Âu với 15 nước thành viên: Anh, Ailen, Áo, Bỉ,

Bồ Đào Nha, Đan mạch, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Italia, Lucxambua, Pháp, Phần Lan, Tây
Ban Nha, và Thụy Điển).
1.1.4.3. Chế độ tiền giấy không đổi ra vàng
Sự sụp đổ của hiệp ước Bretton Woods đã làm cho chế độ bản vị vàng cáo chung và
xuất hiện chế độ lưu thông tiền giấy không đổi ra vàng
- Tiền giấy phải là tiền pháp định.
- Tuy vàng không được thừa nhận là tiền song nó được sử dụng mặc định là một loại
tiền.
- Các nước vẫn coi trọng việc giữ vàng và ngoại tệ.
- Cần có một chính sách tiền tệ tốt để không xảy ra lạm phát quá cao.
1.1.5. Đo lượng tiền
Xuất hiện 4 phương pháp: lí thuyết, kinh nghiệm, xác định tổng lượng tiền và phương
pháp đo lượng tiền như một tổng số theo tỷ trọng.
1.1.5.1. Phương pháp lí thuyết
Phương pháp lí thuyết định nghĩa tiên bằng cách dùng lí thuyết kinh tế để xem những
gì trong số các tì sản phải được đưa vào phạm vi đo lượng tiền.
Như chúng ta đã biết, đặc điểm cơ bản của tiền là nó được dùng làm phương tiện trao
đổi. Theo quan điểm này chỉ có tiền mặt, tiền gửi tài khoản séc và séc du lịch.
Thực tế có tài khoản séc không hoàn toàn có khả năng thanh khoản như tiền mặt và các
tài khoản séc khác. Ví dụ, khách hàng của một hãng môi giới có thể viết séc ứng với số
chứng khoán mà công ty chứng khoán mua cho họ, có phải là phương tiện trao đổi hay
không, trong khi đó, tài khoản tiết kiệm gửi ở ngân hàng có thể chuyển nhanh chóng
thành tiền mặt. Từ thực tế đó, xuất hiện việc đo lượng tiền theo phương pháp khác.
1.1.5.2. Phương pháp kinh nghiệm
Cái gì được coi là tiền phải được dựa trên cơ sở phép đo lượng tiền, nó tác động tốt
nhất trong việc dự báo các diễn biến của những biến số mà tiền có tác dụng đo lường, ví
dụ tiền nào giúp dự báo tỷ lệ lạm phát hoặc chu kỳ sản xuất. Rất tiếc điều này cũng
không rõ ràng: Một phép đo giúp dự báo tốt trong tời kỳ này co thể là không thích hợp
cho thời kỳ khác, hoặc phép đo tốt về dự báo lạm phát lại không tốt đối với chu kỳ sản
xuất.

1.1.5.2. Phương pháp xác định tổng lượng tiền
8
Quỹ dự trữ liên bang Mỹ (Federal reserves fund) từ năm 1980 đã nhiều lần thay đổi
khái niệm về tiền liên quan đến việc xem xét các thành phần của lượng tiền cung ứng, để
từ đó hướng dẫn chính sách tiền tệ bằng cách điều chỉnh nó theo cách xác định tổng
lượng tiền (monetary aggregates).
Theo đó, M1 ứng với cách định nghĩa theo phương pháp lí thuyết, bao gồm tiền mặt,
tiền gửi, tài khoản séc và séc du lịch. Những loại này rõ ràng là tiền vì chúng có thể trực
tiếp làm chức năng trao đổi. Trước năm 1970, chỉ có các ngân hàng thương mại mới được
phép cho mở các tài khoản séc và không tính lãi. Nhưng với những thay đổi mới tài chính
xuất hiện thì các quỹ tiết kiệm cho vay, ngân hàng tiết kiệm hỗ tương và liên hiệp tín
dụng cũng có thể mở các tài khoản séc. Về phía ngân hàng có thể mở các tài khoan khác
như Now-account thông thường hoặc Now-account cao cấp (Super now-account) và tài
khoản ATS (automatic transfer from saving account – tự động chuyển từ tài khoản tiết
kiệm), có trả lãi, từ đó được bổ sung vào khối lượng tiền M1.
M2, ngoài M1 cộng thêm những tài sản khác có đặc điểm sử dụng séc tài khoản tiền
gửi thuộc thị trường tiền tệ và chứng khoán thuộc quỹ hỗ tương thị trường tiền tệ và tài
sản khác như tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ, tiền gửi tiết kiệm, hợp đồng mua lại và đô la
ngoại biên qua đêm.
Những loại này có tính thanh khoản cao vì có thể chuyển thành tiền một cách nhanh
chóng với phí tổn thấp.
M3, ngoài M2, cộng thêm những loại tài sản kém thanh khoản hơn như tiền gửi có kỳ
hạn loại lớn, hợp đồng mua lại dài hạn, đô la ngoại biên có kỳ hạn và quỹ hỗ tương thị
trường tiền tệ có tổ chức.
L, ngoài M3, cộng thêm một vào loại chứng khoán kho bạc ngắn hạn, thương phiếu,
trái phiếu tiết kiệm và hối phiếu được ngân hàng chấp nhận (banker’s accetance).
Tóm lại.
M
1
= Tiền mặt + tiền gửi không kỳ hạn

M
2
= M
1
+ tiền gửi có kỳ hạn
M
3
= M
2
+ chứng khoán
1.2- CUNG CẦU TIỀN TỆ
1.2.1- Cung tiền tệ
Khối lượng tiền tệ trong lưu thông được ung ứng từ các tác nhân sau:
1.2.1.1. Ngân hàng trung ương cung tiền
Ngân hàng trung ương (NHTW)giữ độc quyền phát hành vào lưu thông giáy bạc ngân
hàng, ngân phiếu thanh toán và các phương tiện lưu thông – thanh toán khác, thông qua
các nghiệp vụ sau:
a-Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, các chứng từ có giá… của
các ngân hàng thương mại và của các tổ chức tín dụng.
b- Tái cầm cố các phương tiện nêu trên.
c- Ngân hàng trung ương ứng tiền cho ngân cách nhà nước.
1.2.1.2. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cung tiền.
Những tác nhân này về nguyên tắc không được cung tiền vào lưu thông. Nhưng trong
thực tiễn chúng lại góp phần tích cực làm gia tăng khối lượng tiền hiện có. Những nhiệp
9
vụ làm tăng khối lượng tiền lưu thông của các ngân hàng thương mại (NHTM)và các tổ
chức tín dụng là:
a- Tổng nghiệp vụ “Có” lớn hơn nghiệp vụ “Nợ”. Nghĩa là sử dụng vốn nhiều hơn số
vốn hiện có.
Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại là một lượng có hạn. hưng trong thực tiễn,

khi thực hiện nghiệp vụ chúng lại sử dụng số vốn lớn hơn nguồn thực có, như:
* Cho khách hàng vay quá nguồn vốn huy động được. Các ngân hàng thương mại cho
khách vay bằng hình thức chiết khấu, cầm cố các thương phiếu, các chứng từ có giá, hoặc
bằng tín chấp. Tổng hợp lại, tại một thời diểm nào đó, tổng giá trị các khoản cho vay này,
có thể vượt quá nguồn vốn hiện có của ngân hàng thương mại. Nếu xảy ra hiện tượng này
ngĩa là các ngân hàng thương mại đã “góp phần” làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu
thông.
* Cho khách hàng chi vượt quá số tiền gửi Mỗi khách hàng có thể mở một số tài
khoản tại ngân hàng thương mại để thực hiện giao dịch. Nếu được ngân hàng thương mại
tín nhiệm, thì một số nghiệp vụ thanh toán của khách hàng này, có thể dược xử lí “trái qui
trình”, như:
- Xử lí chứng từ thanh toán đòi tiền khách hàng, bằng cách ghi “Có” trước, ghi “Nợ”
sau. Thực chất là ngân hàng thương mại đã ứng tiền cho khách hàng để trả cho người
bán. Đây cũng là một loại cho vay không đảm bảo của các ngân hàng thương mại.
- Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
Những nghiệp vụ trên được coi là nghiệp vụ tạo tiền của các ngân hàng thương mại.
Tùy theo qui chế quản lí tài chính của mỗi quốc gia và chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương, nghiệp vụ trên có thể bị ngăn cấm hoặc giới hạn phạm vi. Nhưng trên thực tế
nghiệp vụ này vẫn được thực hiện và một số lượng tiền mới lại được tăng thêm trong lưu
thông. Các nghiệp vụ trên tuy được thực hiện bằng hình thức ghi sổ và tiền tồn tại dưới
dạng “bút tệ”, nhưng chúng vẫn phát huy chức năng thực sự của tiền. Đồng thời sau đó
chúng có thể chuyển hóa thành những phương tiện chuyển tải giá trị khác nhau.
b- Các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện có giá trị thanh toán khác,
được các ngân hàng thương mại phát hành theo qui chế quản lí tài chính.
Những phương tiện này có thể thay tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thông
và phương tiện thanh toán. Chúng đã góp phần làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông.
1.2.1.3. Các tác nhân và tổ chức phi ngân hàng cung tiền
Các tác nhân này rất đa dạng. Mỗi tác nhân có thể phát hành vào lưu thông để những
phương tiện lưu thông và thanh toán đặc thù, được qui chế tài chính cho phép.
* Chính phủ: Phát hành công trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị (cấp tỉnh hoặc

cấp bang) trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc…
* Các tác nhân mở tài khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại, như: Các doanh
nghiệp, các tổ chức không kinh doanh, các thể nhân…Các tác nhân này, tuìy theo mục
tiêu hoạt động, quy chế tài chính có thể cho phép chúng phát hành: Cổ phiếu, trái khoán,
séc các loại…
Các phương tiện nêu trên làm cho thành phần của tiền trong lưu thông thêm phong
phú Tuy nhiên “tính lỏng” của chúng kém hơn các thành phần khác của tiền. Vì vậy
những tác nhân và thể nhân sở hữu chúng luôn luôn tìm cách chuyển hóa chúng về M
1
, để
10
từ đó lại chuyển hóa thành những phương tiện khác phù hợp. Sự chuyển hóa này là
thường xuyên. Nhưng tại thời điểm chuyển hóa, nó chỉ làm thay đổi các thành phần của
tiền, chứ không làm thay đổi tổng khối lượng tiền.
Nghiệp vụ cung ứng tiền cho lưu thông rất đa dạng. Có nhiều tác nhân tham gia vào
quá trình này, trong đó ngân hàng trung ương đóng vai trò quan trọng nhất, vì:
- Ngân hàng trung ương (NHTW) quyết định khối lượng tiền đưa vào lưu thông và
khối lượng giấy bạc ngân hàng trong lưu thông thông qua lãi suất tái chiest khấu.
-NHTW quyết định qui mô đầu tư tín dụng của các NHTM bằng tỉ lệ dự trữ bắt buộc,
ngĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng tiền đang lưu thông.
- NHTW quyết định việc điều chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng và do đó tác
động đến điều hòa tiền trong nền kinh tế.
1.2.2- Cầu tiền tệ
Tổng nhu cầu tiền của nền kinh tế trong một thời kỳ, được xác định bằng khối lượng
tiền cần thiết cho lưu thông (Mn).
Tổng cầu tiền được xác định bởi nhu cầu tiền của các tác nhân và thể nhân trong nền
kinh tế. Đây là số lượng tiền được giữ lại cho một mục đích nào đó của các tác nhân và
thể nhân. Về mặt kinh tế, tiền giữ lại thì không sinh lời. Thời gian tiền bị giữ lại càng lâu,
lợi tức mất đi càng lớn, nó trái ngược với đầu tư. Vì vậy các tác nhân và thể nhân chỉ giữ
lại tiền khi có một lợi ích nào đó bù đắp được khoản lợi tức bị mất đi.

Nhu cầu tiền của các tác nhân và thể nhân được chia thành các loại sau đây:
1.2.2.1. Nhu cầu tiền cho giao dịch
Hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra
thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải sử dụng tiền, như trả công lao động (trả
lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ, mua vật phẩm tiêu dùng…Các khoản chi này
hợp thành Tổng cầu tiền cho giao dịch. Tiền cần thiết cho giao dịch được các tác nhân
giữ lại nhiều hay ít chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
- Giá trị giao dịch.
Số lượng, số lần và giá trị giao dịch quyết định đến mức cầu tiền, tức là lượng tiền cần
giữ lại của các tác nhân. Nếu giá cả hàng hóa trong kỳ tăng leenhay giảm xuống, thì nhu
cầu tiền cho giao dịch cũng thay đổi tương ứng.
- Sự không đồng bộ về thời gian giữa thu và chi.
Nếu thu nhập và chi tiêu của các tác nhân phát sinh đều đặn, thì nhu cầu tiền giữ lại
cho giao dịch là ít nhất. Nếu có cách quãng về thời gian giữa thu và chi, thì số tiền phải
giữ lại nhiều hơn để đảm bảo các khoản chi thường xuyên. Sự “lệch pha” về thời gian th
chi càng lớn thì nhu cầu tiền được giữ lại càng nhiều và ngược lại.
- Lãi suất tiền gửi.
Lãi suất tiền gửi tác động trực tiếp đến tổng cầu tiền. Giữ lại tiền chờ cơ hội mua hoặc
thanh toán là mất đi một khoản thu nhập tính theo lãi suất tiền gửi hoặc đầu tư và thời
gian. Lãi suất thay đổi sẽ tác động đến tư duy kinh tế của các tác nhân gửi tiền. Những
tác nhân này sẽ so sánh giữa lợi ích của việc giữ tiền và lợi tức mất đi Họ sẽ hành động
theo hướng lợi ích vượt trội. Nhìn chung lợi giảm thì nhu cầu giữ tiền sẽ tăng và ngược
lại.
11
- Tập quán dân tộc và địa phương.
Tập quán dân tộc và địa phương được phản ánh khá đậm nét trong nhu cầu tiền.
Những nơi kinh tế thuận lợi, kiếm tiền không khó khăn thì tiền được giữ lại ít. Ngược lại
những vùng có cuộc sống khó khăn, thì tiền đượ giữ lại nhiều hơn. Những điều kiện ấy
đã hình thành tập quán thanh toán của vùng, miền và dân tộc. Tập quán này sẽ thay đổi
theo đời sống kinh tế, nhưng rất chậm chạp.

1.2.2.2. Nhu cầu tiền cho tích lũy
Ngoài các khoản chi thường xuyên cho giao dịch, các tác nhân còn phải tích lũy một
khoản tiền nhất định cho các nhu cầu dã dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, ho
kỳ du lịch sắp đến…Giá trị của các khoản này chưa đến “độ sử dụng”, chúng ở trong quỹ
các tác nhân dưới dạng tiền nhàn rỗi.
Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền dành cho nhu cầu tích lũy với các mục đích trên
sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích của các tác nhân. Thời
gian sử dụng tiền càng cấp bách thì đòi hỏi tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản
chi càng lớn thì phải tích lũy càng nhiều.
1.2.2.3. Nhu cầu tiền cho dự phòng
Dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác nhân. Nhu cầu này dược chi làm 3 loại:
* Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội mua mà không dự báo trước được. Khoản tiền
này thường phát sinh khi các tác nhân chuẩn bị có những hoạt động ở xa trụ sở. Khoản
dự phòng này với một tác nhân tuy không lớn nhưng tổng hợp cả nền kinh tế, thì lại là
một số lượng không nhỏ.
* Dự phòng chi thường xuyên, đây là những khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá
nhân, buộc mọi người phải dự phòng một khoản tiền tối thiểu. Số lượng tiền dự phòng
này phụ thuộc vào mức thu nhập của các tác nhân.
* Dự phòng chi cho rủi ro. Rủi ro thường gặp với các tác nhân, như: hỏng phương tiện
giao thông, các cong cụ lao động gặp sự cô bất chợt cần sửa chữa, bệnh tật, tai nạn…
Khôn có tác nhân nào để riêng tiền cho khoản chi này. Nhưng thực tế khoản chi này lại
hường xuyên phát sinh ở một số ít trong số đông các tác nhân. Trong nền kinh tế thị
trường có nhiều yếu tố tác động đến các tác nhân, như: thu nhập, giá cả, lãi suất và các
yếu tố kinh tế - xã hội khác, nên dự phòng một khoản tiền cho nhu cầu này là cần thiết.
1.2.2.1. Nhu cầu tiền để cất trữ
Sự phân hóa thu nhập giữa các thể nhân trong nền kinh tế thị trường là một quy luật.
Một số ít các thể nhân, do các nguyên nhân khác nhau đã giàu lên nhanh. Họ có một số
lượng “tiền thừa”. Đây là số tiền nhà rỗi lâu dài, chưa có mục tiêu đầu tư. Trường hợp
này các thể nhân thường đưa số “tiền thừa” đó vào cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng
vàng. Nhu cầu cất trữ của các thể nhân trong nền kinh tế thị trường tuy không lớn nhưng

là hiện thực. Cất trữ đã làm giảm khối lượng các phương tiện lưu thông.
Tổng các nhu cầu tiền nêu trên thành tổng cầu tiền của nền kinh tế trong một thời kỳ.
Thành phần của từng nhu cầu trong tổng cầu tiền có sự khác nhau giữa các nước. Ở các
quốc gia kinh tế chậm phát triển, tiền được giữ lại ở các tác nhân, chủ yếu là giấy bạc
ngân hàng(tiền mặt). Hiện tượng này làm cho tốc độ lưu thông của tiền thấp, chi phí lưu
12
thông tăng, vì phải phát hành thêm nhiều tiền. Quan trọng hơn là lãng phí một nguồn vốn
lớn và không kiểm soát được được nguồn thu nhập của các tác nhân, cũng như các thể
nhân. Vì vậy, nâng cao chất lượng phục vụ của hệ thống ngân hàng nhằm giảm thấp
“kinh tế tiền mặt” giảm tổng cầu tiền là một yêu cầu kinh tế quan trọng của các nước
đang xây dựng nền kinh tế thị trường.
1.2.3- Cân đối cung cầu tiền tệ
Cung cầu tiền thường không khớp nhau. Trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân
hàng mất cân đối cung cầu tiền là hiện tượng phỏ biến. Trong đó cung thường lớn hơn
cầu tiền.
Mất cân đối cung cầu – cung lớn hơn cầu, ở mức độ cao, sẽ dẫn đến lạm phát, giá cả
hàng hóa gia tăng và cuối cùng làm giảm thấp tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Mất cân đối cung cầu có thể xảy ra ở mộ dạng khác, là: cung nhỏ hơn cầu tiền. Hiện
tượng này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đây là hiện tượng
ít xuất hiện trong lịch sử lưu thông giáy bạc ngân hàng.
Mất cân đối cung cầu tiền dù là ở dạng nào cũng cần phải có những giải pháp để lập
lại thế cân đối. Đặc biệt là hiện tượng cung lớn hơn cầu ở mức độ cao (lạm phát) có ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Những giải pháp thường được áp dụng là:
- Hạn chế số lượng tiền gia tăng trong lưu thông bằng cách:
+ Nâng tỉ lệ dự trữ các NHTM.
+ Nâng lãi suất tái chiết khấu.
- Nâng lãi suất tiền gửi, để thu hút tiền vào ngân hàng
- Các NHTM bán các công cụ lưu thông – tín dụng, để thu hút giấy bạc NH, như: kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kho bạc, cổ phiếu trái khoán công ty…
- Gia tăng cung cấp hàng hóa – dịch vụ.

Những giải pháp trên nếu được áp dụng đúng thời điểm, phù hợp và đồng bộ, sẽ có
hiệu quả thiết thực đến việc lập lại thế cân đối cung cầu tiền trên thị trường.
1.3. GIẤY BẠC NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Giấy bạc ngân hàng Việt Nam là tiền dấu hiệu, do Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Việt Nam độc quyền phát hành vào lưu thông.
Tiền của nước CHXHCNVN gọi là “đồng”. Kí hiệu quốc gia là “đ”, kí hiệu quốc tế
là “VND”. Tiền đơn vị của Việt Nam là đồng.
“Tiền ước số” là “hào” và “xu”.
13
1đ = 10 hào và 1 hào = 10 xu.
“Tiền bội số”, có nhiều mệnh giá:
• 50đ, 100đ, 200đ, và 500đ.
• 1.000đ, 2.000đ và 5.000đ
• 10.000đ, 20.000đ và 50.000đ.
• 10.000đ và 500.000đ
Cùng lưu thông với giấy bạc ngân hàng, hiện nay các loại tiền mệnh giá 200đ, 500đ,
1.000đ, 2.000đ và 5.000đ được phát hành bằng tiền kim loại.
Các loại mệnh giá của tiền Việt Nam nêu trên là phù hợp. Tuy nhiên do giá cả hàng
hóa – dịch vụ tăng, cho nên một số loại tiền có mệnh giá thấp như: hào, xu, 1 đồng, 50đ,
không lưu thông bằng tiền mặt mà chỉ là đơn vị tính.
Theo luật pháp của CHXHCN Việt Nam, giấy bạc Nhà nước Việt Nam, có quyền lực
lưu thông trên toàn lãnh thổ Việt Nam và được thanh toán không hạn chế với mọi khoản
trao đổi hàng hóa dịch vụ. Mọi hành vi giả mạo, phá hoại giấy bạc NHVN là vi phạm luật
pháp và sẽ bị xử lí theo luật pháp hiện hành.
Trên thị trường Việt Nam, giấy bạc NHVN là phương tiện thanh toán và chi trả có
“tính lỏng” cao nhất. Để cung ứng đầy đủ khối lượng giấy bạc ngân hàng cho lưu thông,
NHNN Việt Nam căn cứ vào tổng mức chu chuyển hàng hóa – dịch vụ và các nhu cầu
khác về tiền, tốc độ lưu thông tiền, tâm lí sử dụng tiền mặt trong dân cư… để lập kế
hoạch cung ứng. Đồng thời sử dụng công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc và các công cụ khác
để điều hòa khối lượng tiền trong lưu thông.

Ở Việt Nam hiện nay, tiền mặt được sử dụng phổ biến trong hầu hết các giao dịch của
dân cư và một số của doanh nghiệp. Vì vậy đã làm cho tỷ trọng giấy bạc NH trong tổng
các phương tiện thanh toán là rất lớn. Tình trạng này không những làm cho chi phí lưu
thong tăng lên, mà còn làm cho giao dịch kinh tế trở nên không an toàn, khó kiểm soát.
Để khắc phục dần dần tình trạng này, tiến tới NHNN Việt Nam có thể aps dụng những
biện pháp:
* Quy định có tính cưỡng chế tồn quỹ tiền mặt đối với các doanh nghiệp và cơ quan
thuộc phạm vi kiểm soát của NHTM.
14
* Yêu cầu các đơn vị có kế hoạch sử dụng tiền mặt, NHTM cùng KBNN kiểm soát
các kế hoạch này.
* Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt trong các giao dịch về hàng hóa – dịch vụ.
* Đưa vào lưu thông những phương tiện thanh toán hiện đại, phù hợp với điều kiện
kin tế và trình độ dân cư.
CHƯƠNG 2: TÍN DỤNG VÀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG
2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUAN HỆ TÍN DỤNG
2.1.1- Định nghĩa về tín dụng
- Tín dụng theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa là sự
tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay
mượn.
Tín dụng là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang người vay và
sẽ quay lại về với người cho vay (hoặc với người mà được người cho vay chỉ định) cả
vốn và lãi trong một kỳ hạn xác định nào đó.
a. Người cho vay Giá trị (H
2
hay tiền tệ)  Người vay
b. Người cho vay Giá trị (H
2
hay tiền tệ) Người vay (đến hạn )

Khái niệm trên phản ánh các đặc điểm:
- Khoản cho vay sẽ quay về với người cho vay  tín dụng hai cực
- Khoản cho vay sẽ được trả cho một người thụ hưởng nào đó mà được người cho vay
chỉ định  tín dụng 3 cực
- Giá trị cho vay có thể dưới hình thức hàng hóa hay tiền tệ.
Một quan hệ được xem là quan hệ tín dụng khi nào chứa đựng đầy đủ 3 nội dung:
1. Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng.
2. Sự chuyển nhượng này có thời hạn.
3. Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Nếu thiếu một trong những nội dung trên thì không còn là quan hệ tín dụng. Chẳng
hạn trong 3 nội dung trên, nếu chúng ta bỏ bớt đi nội dung thứ 3 thì quan hệ không còn là
quan hệ cho vay mà chỉ là quan hệ cho mượn vì không có chi phí nghĩa là không có lãi.
Còn nếu thiếu luôn nội dung thứ 2 thì quan hệ không phải là quan hệ cho vay, cho mượn
mà là cho luôn.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của tín dụng
* Sự ra đời của tín dụng
Tín dụng là một trong những quan hệ xã hội hình thành từ rất sớm gắn liền với sự ra
đời và phát triển của sản xuất hàng hóa. Cơ sở hình thành và ra đời của tín dụng, trước
hết, xuất phát từ nhu cầu bù đắp thiếu hụt tiền bạc trong sản xuất kinh doanh hoặc trong
cuộc sống. Kế đến là có sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa. Ví dụ:?
15
Khi có sự phân công lao động xã hội và xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
là cơ sở ra đời của tín dụng.
* Sự phát triển của tín dụng
Tín dụng ra đời từ xa xưa chủ yếu dưới hình thức cho vay nặng lãi và phát triển lâu
dài cho đến ngày nay trải qua nhiều hình thái tín dụng khác nhau. Tín dụng nặng lãi ra
đời từ rất sớm, quan hệ tín dụng nặng lãi chủ yếu giữa bên cho vay là những người
thương gia, các nhà kinh doanh tiền tệ và một số quan lại giàu có với bên đi vay chủ yếu
là những người nông dân và thợ thủ công nghèo khó. Nhu cầu tín dụng xuất phát từ
những rủi ro bất khả kháng trong cuộc sống khiến cho người lao động phải đi vay nhằm

giải quyết khó khăn cuộc sống hoặc đảm bảo sản xuất. Ngoài ra nhu cầu và tập quán
sống xa hoa của một số quan lại cũng làm phát sinh nhu cầu vay tiền.
Đặc điểm của tín dụng nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, có khi lên đến 40 – 50,
thậm chí 100 -200% và mục đích vay vốn tường là để tiêu dùng và giải quyết khó khăn
cuộc sống hơn là phục vụ sản xuất kinh doanh. Lý do là vì lãi suất quá cao nên chi phí trả
lãi lớn hơn cả khả năng sinh lợi của nhà sản xuất kinh doanh. Do vậy, các nhà sản xuất
kinh doanh nếu vay mượn không thể nào có lợi nhuận để tái sản xuất. Nhưng đối với
người tiêu dùng họ vẫn phải chấp nhận vay vì họ không có lựa chọn nào khác.
2.1.3- Phân loại tín dụng
1. Phân theo thời hạn
- Ngắn hạn  =< 1 năm
- Trung hạn  1- 5 năm
- Dài hạn  trên 5 năm
2. Phân theo đối tượng tín dụng
a. Tín dụng lưu động
- Dùng để hình thành vốn lưu động
b.Tín dụng cố định
- Là tín dụng để hình thành tài sản cố định
3. Phân theo mục đích sử dụng vốn
a. Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa
b. Tín dụng tiêu dùng
4. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng
a. Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu
hiện dưới việc mua bán chịu hàng hóa
Mua chịu hàng hóa là hình thức tín dụng vì:
- Người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời
gian nhất định
- Đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán
16

Giấy nợ trong quan hệ tín dung thương mại:
* Hối phiếu ( Bill of Exchange)
Do người chủ nợ lập ra để lệnh cho người thiếu nợ trả một khoản tiền khi đáo hạn
cho chủ nợ.
Về hình thức có các loại hối phiếu sau:
- Hối phiếu vô danh: không ghi người hưởng thụ, người hưởng thụ chính là người nắm
giữ hối phiếu.
- Hối phiếu ký danh: có ghi người hưởng thụ và người này được quyền chuyển quyền
hưởng thụ cho người khác nhờ ký hậu (bối thư).
- Hối phiếu định danh: ghi người hưởng thụ nhưng không được chuyển nhượng
Các hạn chế của tín dụng thương mại:
- Hạn chế về quy mô tín dụng
- Hạn chế về thời gian vay
- Hạn chế về phương hướng tín dụng ( ràng buộc với một số loại hàng hóa)
b. Tín dụng ngân hàng
Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với
các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
- Tín dụng ngân hàng vừa cho vay vùa đi vay
- Tín dụng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ
c. Tín dụng nhà nước
Khái niệm:
Tín dụng nhà nước là tín dụng trong đó nhà nước thể hiện là người đi vay. Do một số
nguyên nhân như thâm hụt ngân sách.
Các loại tín dụng nhà nước:
* Tín dụng ngắn hạn
- Tín phiếu kho bạc để vay vốn của ngân hàng TW hay công ty và cá nhân
* Tín dụng dài hạn: là khoản vay trên 5 năm được thực hiện bằng cách phát hành trái
phiếu.
- Trái phiếu tạm thời (Bond) có quy định thời gian đáo hạn

- Trái phiếu vĩnh viễn (Consol) không có thời gian đáo hạn
3.2- CÁC CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
3.2.1- Các chức năng
3.2.2- Vai trò của tín dụng
3.3- CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG CHỦ YẾU TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN
17
3.3.1- Tín dụng thương mại
3.3.2-Tín dụng ngân hàng
3.3.3- Tín dụng nhà nước
3.3.4- Tín dụng tiêu dùng
3.4- Lãi suất tín dụng
3.4.1- Định nghĩa
3.4.2- Các loại lãi suất
3.4.3- Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất và nguyên tắc xác định lãi suất
3.4.4- Chính sách lãi suất và điều hành chính sách lãi suất
3.4.5- ý nghĩa của lãi suất tín dụng
CHƯƠNG 4: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG
4.1- SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
4.1.1- Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng trên thế giới
4.1.2- Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng ở nước Cộng hoà XHCN
VN
4.2- NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
4.2.1- Định nghĩa
4.2.2- Các loại hình ngân hàng thương mại
4.2.3- Các chức năng của ngân hàng thương mại
4.2.4- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
18
4.2.5- Vai trò của ngân hàng thương mại

4.3- CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG PHI NGÂN HÀNG
4.3.1- Công ty tài chính
4.3.2- Quỹ tín dụng nhân dân
4.3.3- Công ty Bảo hiểm
4.3.4- Kho bạc Nhà nước
4.3.5- Ngân hàng chính sách
4.4- NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
4.4.1- Định nghĩa
4.4.2- Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Trung ương
4.4.3- Vị trí và hệ thống tổ chức quản trị, điều hành của NHTW
4.4.4- Các chức năng của NHTW
4.4.5- Chính sách tiền tệ và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng TW
4.4.6- Vai trò của ngân hàng TW
4.5- thị trường TIỀN TỆ
4.5.1- Sự hình thành thị trường tiền tệ
4.5.2- Định nghĩa về thị trường tiền tệ
4.5.3- Cấu trúc của thị trường tiền tệ
4.5.4- Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
4.5.5- "Hàng hoá" và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ
4.5.6- Vai trò của thị trường tiền tệ
CHƯƠNG 5: TIỀN TỆ - TÍN DỤNG VÀ THANH TOÁN QUỐC
TẾ
5.1- tiền TỆ QUỐC TẾ VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
5.1.1- Các chế độ tiền tệ quốc tế
5.1.2- Tỷ giá hối đoái
5.2- THANH TOÁN QUỐC Tế
5.2.1- Khái niệm
19
5.2.2- Các phương tiện thanh toán quốc tế
5.2.3- Các hình thức thanh toán quốc tế

5.3- TÍN DụNG QUỐC TẾ
5.3.1- Khái niệm
5.3.2- Sự cần thiết của tín dụng quốc tế
5.3.3- Các hình thức tín dụng quốc tế
5.3.4- Thị trường tín dụng quốc tế
5.4- CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
5.4.1- Định nghĩa
5.4.2- Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế
5.4.3- ý nghĩa của cán cân thanh toán quốc tế
5.4.4- Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế
5.5- MỘT SỐ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH - TÍN DỤNG QUỐC TẾ
5.5.1- Sự hình thành các tổ chức Tài chính - Tín dụng quốc tế
5.5.2- Vai trò của các tổ chức Tài chính - Tín dụng quốc tế
5.5.3- Các tổ chức Tài chính - Tín dụng quốc tế chủ yếu
CHƯƠNG 1: TIỀN TỆ VÀ CUNG CẦU TIỀN TỆ.
1.1- Bản chất, các chức năng và vai trò của tiền tệ
1.1.1- Sự ra đời và bản chất của tiền tệ
1.1.2- Các chức năng của tiền tệ
1.1.3- Vai trò của tiền tệ
1.1. Vai trò, định nghĩa và chức năng của tiền
1.1.1. Vai trò
Tiền như là máu trong cơ thể, nhưng nhận thức về vai trò của tiền lại rất khác nhau
trong mỗi thời kỳ khác nhau.
20
Giai đoạn đầu, vào khoảng thế kỷ 16, tiêu biểu là trường phái trọng thương, cho tiền là
đại diện cho sự giàu có của mỗi quốc gia, mỗi gia đình và cho mỗi người. Và để có tiền,
con đường khả dĩ có thể thực hiện được là buôn bán để kiếm được nhiều tiền.
Giai đoạn hai, người ta lại cho tiền như là một thứ hư tưởng, đại diện cho trường phái
này là Fran
ς

ois Quesney. Ông ta cho rằng, sự giàu có phải tìm ở nông nghiệp – một
quan điểm đại diện cho trường phái trọng nông thời đó.
Giai đoạn ba, từ đầu thế kỷ thứ 19 đến giờ, các nhà kinh tế bắt đầu xét lại quan điểm
của các nhà kinh tế trước đó (tức các tác giả cổ điển) và cho rằng, tiền đóng vai trò hết
sức quan trọng, bắt đầu từ S. M. keynes, Samuelson và các nhà kinh tế khác. Với Keynes,
được phản ánh trong tác phẩm “Lý thuyết tổng quát về nhân dụng, tiền tệ và lãi suất-
1936” cho rằng tiền có hai vai trò:
- Tiền là công cụ để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, quản lý các hoạt động
đó theo một chính sách nhất định.
- Tiền có vai trò tổng hợp thông tin trên các thị trường.
1.1.2. Định nghĩa tiền
Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay
dịch vụ khác nhau hoặc để hoàn trả nợ.
1.1.3. Chức năng của tiền
- Chức năng làm phương tiện trao đổi (Means of Exchange): Tiền được dùng làm
phương tiện trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
- Đơn vị đánh giá hay tiêu chuẩn giá trị( Standard of Value): Tiền cung cấp đơn vị
chuẩn cho việc đo lường giá trị.
- Tồn trữ giá trị: tiền hôm nay có thể được sử dụng vào ngày mai cho nên tiền có chức
năng dự trữ giá trị.
1.2. Các hình thái của tiền
Tiền tệ xuất hiện và đã phát triển qua các hình thái chủ yếu: hóa tệ, tín tệ, bút tệ và tiền
điện tử.
1.2.1. Hóa tệ
Một hàng hóa nào đó giữ vai trò của vật trung gian trong trao đổi được gọi là hóa tệ.
Có thể chia hóa tệ thành hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại quý (kim tệ).
* Hóa tệ không kim loại:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn ngẫu nhiên,
không còn trên cơ sở của sự định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp
một vài hàng hóa, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng nhiều hơn đó

giữa các hàng hóa đòi hỏi phải có một hàng hóa có tính chất đồng nhất, tiện dụng trong
vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận tiện cho trao đổi và bảo tồn giá trị.
Hình thái đầu tiên của tiền tệ có vẻ lạ lung, nhưng nói chung là những vật trang sức hay
những thứ để ăn.Thổ dân ở các bờ biển châu Á, châu phi trước đây đã dung vỏ sò, vỏ ốc
làm tiền. Người dân quần đảo Polyneise thì dùng long chim. Gạo thì được dùng ở quần
đảo Philippines. Ở Trung Quốc thì dùng lưỡi câu, dao và từ thế kỷ III trước công
nguyên, cả vải lụa. Gia súc cũng là một trong những loại “tiền” như cừu, dê, bò,…
Tiền tệ bằng hàng hóa có những bất tiện nhất định của nó trong quá trình phục vụ trao
đổi như không được mọi người, mọi nơi chấp nhận, dễ hư hỏng, không đồng nhất nên
21
khó phân chia thanh những đơn vị nhỏ để phục vụ trao đổi… những khó khăn đó đưa đến
việc sử dụng hóa tệ bằng kim loại quí.
* Hóa tệ bằng kim loại quí
Khi sản xuất trao đổi hàng hóa phát triển kèm theo sự mở rộng phân công lao động xã
hội đồng thời với sự xuất hiện các giao dịch quốc tế thường xuyên và sự ra đời Nhà nước
thì người giao. Kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bật trong vai trò của vật ngang
giá bởi những thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến… và từ đó, những đồng tiền bằng
kim loại đồng, chì, kẽm, thiếc, bạc, vàng xuất hiện thay thế cho hóa tệ không kim loại.
Tiền bằng chì xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới dạng một thỏi dài có lỗ ở một đầu để
có thể xâu thanh chuỗi. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những
năm 685-652 trước công nguyên ở vùng Lidia (Tiểu Á) có đóng dấu in hình nổi để đảm
bảo giá trị. Các đồng tiền bằng kim loại đã sớm xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải, song
cũng sớm bị mất giá vì thường bị cắt xẻo xung quanh, sau nhờ kỹ thuật đúc tiền có khuôn
khổ nhất định có khía ở mép ngoài nên tránh được việc cắt xẻo. Tiền kim loại đầu tiên ở
Anh làm bằng thiếc, ở Thụy Sĩ và Nga làm bằng đồng, khi bạch kim mới được phát hiện.
Trong thời kỳ 1828-1844, người Nga cho đó là kim loại không sử dụng được nên đem
đúc tiền. Nếu so với các loại tiền tệ trước đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ưu điểm
nhất định cũng đưa đến những bất tiện trong quá trình phát triển trao đổi cồng kềnh, khó
cất giữ, khó chuyên chở… Cuối cùng các kim loại quý như vàng bạc, một loại tiền tệ
thực tự chúng có giá trị nội tại trở nên thong dụng trong một thời gian khá lâu cho đến

cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Khoảng thế kỷ thứ 16 ở châu Âu nhiều nước sử dụng vàng làm tiền, có nước vừa sử
dụng vàng vừa sử dụng bạc. Các nước châu Á sử dụng bạc là phổ biến. Việc đúc quý kim
thành tiền ngay từ đầu coi là vương quyền, đánh dấu kỷ nguyên ngự trị của lãnh chúa,
vua chúa phong kiến.
Lịch sử phát triển của tiền kim loại quí đã trải qua 3 biến cố chủ yếu, quyết định đến
việc sử dụng phổ biến tiền làm bằng kim loại quý.
- Sự gia tăng dân số
1.2.2. Tín tệ hay tiền danh nghĩa ( Fiat Currency or Token Currency)
Giá trị của tiền cao hơn nhiều so với giá trị vật làm tiền bao gồm tiền giấy và tiền kim
loại.
- Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc hình thái hóa
tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không phù hợp với giá trị danh
nghĩa, tiền bằng kim loại hiện nay phần lớn được đúc để sử dụng làm tiền lẻ.
- Tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
+ Tiền giấy khả hoán là thứ tiền được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền bạc ký
thác ở ngân hàng. Bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi
lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị ghi trên tiền giấy khả hoán đó.
Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các
thương gia hình thành những thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn, thị tứ
lớn. Các thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận lấy giấy
chứng nhận gọi là phi tiền, với phi tiền các thương gia có thể mua hàng ở các thị trấn
22
khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài phi tiền triều đình nhà Tống còn phát
hành tiền giấy gọi là giao sao (giao tử) được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời trần, Hồ Quí Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy.
Nhân dân ai cũng phải nộp tiền vào cho Nhà nước, cứ một quan tiền tiền đồng đổi được
hai quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quí Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật
đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và cộng thêm sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền
đồng và tiền giấy (cho tiền giấy có giá trị thấp hơn)

Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước
Châu Âu. Từ đầu thế kỷ 17, ở Hà Lan, ngân hàng Ansterdam đã cấp cho những than chủ
gửi vàng bạc vào ngân hàng những chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể
đem những tờ giấy nhỏ đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người
khác, các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một chủ ngân hàng người Thụy
Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân
hàngPalmstruch đã có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy
được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loạn và nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây
nhiều thiết hại cho dân chúng, trong trường hợp này vua chúa các nước phải can thiệp
và cho rằng, việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là
một nguồn lợi lớn. Vương quyền các nước Châu Âu chỉ thừa nhận một ngân hàng tư có
quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:
- Điều kiện khả hoán: tức có thể đổi lấy bất kỳ lúc nào tại ngân hàng phát hành.
- Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo, điều kiện này ban dầu quy định là 100% sau
còn khoản 40%.
- Điều kiện phải nộp thuế
1.2.3. Bút tệ
Tiền do hoạt động ngân hàng tạo ra. Bút tệ lưu động là séc (cheque) nó là một hình
thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách của ngân hàng.
1.2.4.Tiền điện tử hay tiền nhựa
Hiện nay nhờ công nghệ thông tin phát triển và dịch vụ ngân hàng ngày càng hiện đại
do đó xuất hiện các loại thẻ Credit Card, Master Card được sử dụng như tiền.
1.3. Chế độ tiền
Là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước được xác định bằng luật pháp,
dựa trên một cơ sở nhất định gọi là bản vị tiền tệ.
1.3.1. Chế độ bản vị bạc và chế độ bản vị vàng
- Bản vị bạc là dùng bạc để định nghĩa cho đơn vị tiền
- Bản vị vàng là dùng vàng để định nghĩa cho đơn vị tiền
Đặc điểm chung:
- Đơn vị tiền được định nghĩa theo vàng hay bạc

- Cho phép đổi tiền lấy vàng hay bạc và ngược lại
- Cho phép lưu thông tiền và vàng bạc ra nước ngoài
Ví dụ: Năm 1775 1USD =25,92 gram bạc ròng
23
1.3.2. Chế độ song bản vị (Bimetalic standard): Dùng cả vàng và bạc làm bản vị cho
tiền và lưu hành song song với nhau.
Ví dụ: * Vào năm 1914, Pháp định nghĩa đồng franc vừa theo vàng vừa theo bạc như sau:
1 franc vàng = 322,5mg vàng chuẩn độ 0,900
1 franc bạc = 5g bạc chuẩn độ 0,900
*Tương tự vào năm 1792 ở Mỹ đồng dollar cũng được định nghĩa vừa theo vàng
vừa theo bạc như sau:
1USD vàng = 1603,8mg vàng ròng
1USD bạc = 24,06g bạc ròng
=> Ta thấy rằng 1 franc bạc nặng gấp 15,5 lần franc vào ở Pháp và 1dollar bạc nặng gấp
15 lần dollar vàng ở Mỹ.
Chế độ song bản vị có những đặc điểm chính như sau:
- Dân chúng được mang vàng và bạc đến sở để đúc ra tiền.
- Có mối quan hệ pháp định giữa vàng và bạc
- Vàng và bạc là tiền pháp định
1.3.3. Chế độ bản vị ngoại tệ
Là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một quốc gia nào đó được định nghĩa theo
một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh. Ngoại tệ mạnh được dung làm bản vị có
thể không được chuyển đổi ra vàng. Nhưng các nước theo chế độ bản vị ngoại tệ thường
tích lũy ngoại tệ được chọn làm bản vị và ký gửi ở ngân hang Trung ương quốc gia có
ngoại tệ được làm bản vị nhằm đảm bảo giá trị cho đồng tiền của mình. Lịch sử tiền tệ
cho thấy những ngoại tệ mạnh như bảng Anh(GBP), dollar Mỹ(USD), franc Pháp(FrF)
đã từng được chọn làm bản vị cho nhiều đồng tiền của nhiều nước trên thế giới.
1.4. Chế độ lưu thông tiền giấy
1.4.1. Giá trị của tiền giấy và quy luật lưu thông tiền giấy ( được đổi ra vàng)
- Giá danh nghĩa là mệnh giá ghi trên tờ giấy.

- Giá trị thực – biểu hiện mối tương quan giữa giá trị danh nghĩa của tổng số tiền giấy
và giá trị của số lượng tiền vàng cần thiết cho lưu thông mà nó đại diện – tức là sức mua
của tiền giấy.
Ví dụ: Giả sử ta có: + số lượng tiền cần thiết cho lưu thông là 11.000 tỷ.
+ Số lương tiền phát hành là 11.000 triệu tờ
Thì giá trị của một tờ tiền giấy là 11.000 tỷ/11.000 triệu = 1.000đồng.
Giá trị thực của một tờ tiền giấy là 1.000đ (phù hợp với giá trị dang nghĩa)
1.4.2.Chế độ lưu thông tiền giấy khả hoán (đổi được ra vàng) (Convertible Paper
Money)
a. Chế độ bản vị bảng Anh
Chiến tranh Thế giới Thứ Hai ( 1914-1918) làm cho các nước tư bản suy yếu tuy
nhiên sau một thời gian ngắn các nền kinh tế này đã phục hồi. Trước tình hình đó một số
nước lớn đã cố gắng phục hồi chế độ bản vị vàng.
24
- Các nước có dự trữ vàng lớn lấy vàng làm bản vị
- Các nước không có lượng vàng dự trữ lớn lấy Bảng Anh làm bản vị. Việc này đã làm
cho nước Anh có một vị trí rất quan trọng trên thế giới.
b. Chế độ bản vị USD hay gọi là hệ thống tiền tệ Bretton Woods
• Trước khi chế độ này thành lập, trên thế giới chia thành ba khu vực bản vị USD,
FrF,GBP. Cuộc Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ Hai kết thúc, kinh tế Mỹ phát triển và
nền kinh tế Anh suy thoái do đó đã ra đời Hiệp ước Bretton Woods. Theo hiệp ước
này USD sẽ lấy vàng làm bản vị, các nước khác lấy USD làm bản vị. Sau đó Mỹ sa
lầy ở Việt Nam nên phá giá đồng tiền của mình liên tục và đến ngày 12/02/1973 chế
độ bản vị USD chính thức khai tử.
Hình 1: Bản vị USD
• Quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right)(SDR). Đây là đơn vị tiền ghi sổ do
IMF phát hành cho các nước hội viên gồm hỗn hợp các loại tiền USD, DEM, GBP,
FRF, JPY) và tài sản dự trữ quốc tế (ngoại trừ vàng) được ghi tên trong các thành viên
tùy theo ngạch được cấp. Theo hiệp ước Bretton Woods các nước đóng một lượng
tiền vào quỹ của IMF:

- 75% bằng tiền của nước mình
- 25% bằng tiền mạnh
Khi các nước này gặp khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế, có thể rút 125% số tiền
của mình đóng góp.
c. Đồng tiền chung Châu Âu.
Thực tế đây là chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong đó các thành viên sử dụng một loại
tiền đó là đồng Euro. (Liên minh châu Âu với 15 nước thành viên: Anh, Ailen, Áo, Bỉ,
Bồ Đào Nha, Đan mạch, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Italia, Lucxambua, Pháp, Phần Lan, Tây
Ban Nha, và Thụy Điển).
1.4.3. Chế độ tiền giấy không đổi ra vàng
Sự sụp đổ của hiệp ước Bretton Woods đã làm cho chế độ bản vị vàng cáo chung và
xuất hiện chế độ lưu thông tiền giấy không đổi ra vàng
- Tiền giấy phải là tiền pháp định.
- Tuy vàng không được thừa nhận là tiền song nó được sử dụng mặc định là một loại
tiền.
- Các nước vẫn coi trọng việc giữ vàng và ngoại tệ.
- Cần có một chính sách tiền tệ tốt để không xẩy ra lạm phát quá cao.
25
USD Vàng
FrF
GBP
Tiền khác

×