NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
Nhóm 01 - Lớp NH06
BÀI TIỂU LUẬN MÔN BẢO HIỂM
Đề tài: BẢO HIỂM NHÂN THỌ
GVHD: Thầy Đặng Văn Dân
Nhóm thực hiện: 1.Võ Thị Thu Hà
2.Nguyễn Thị An Thi
3.Nguyễn Thanh Phúc
4.Nguyễn Khắc Sinh
5.Võ Minh Tân
6.Lê Mỹ Hoa
TP.HCM,Tháng 12/2013
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 5
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
2
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính-ngân hàng-bảo hiểm
nói chung và ngành bảo hiểm nhân thọ (BHNT) nói riêng cũng đã có những bước phát
triển đáng kể. Doanh thu từ loại hình BHNT ngày càng tăng cao và ổn định. Với tính
chất ưu việt riêng có, BHNT đã góp phần ổn định kinh tế xã hội thông qua công tác bồi
thường và chi trả tiền bảo hiểm, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao
động.
Hơn nữa, ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lượng
sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Song trong
lao động và cuộc sống, con người cũng không tránh khỏi những rủi ro như: tai nạn, ốm
đau, bệnh tật, mất việc làm, già yếu, … và tác động đến nhiều mặt đời sống xã hội. Vì
vậy, vấn đề mà ai ai cũng quan tâm đến là làm thế nào để khắc phục hậu quả rủi ro
nhằm đảm bảo cuộc sống con người. Thực tế đã có nhiều biện pháp được áp dụng như:
phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm, … nhưng bảo hiểm luôn được đánh giá là biện pháp
hữu hiệu nhất.
Thực tế cho thấy rằng, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế ra đời từ rất lâu, nhưng
lại có nhiều hạn chế trong phạm vi bảo hiểm, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Bên cạnh các vấn đề về sức khoẻ, con người còn nhiều vấn đề phải quan tâm như: thất
nghiệp, thu nhập của người trụ cột bị giảm xuống, người cao tuổi về hưu,… Vấn đề lúc
này là phải tạo ra nguồn công cụ để mọi người có thể để dành ra từ thu nhập và tiết
kiệm chi tiêu hiện tại của mình những khoản tiền nhỏ để có thể đảm bảo cuộc sống khi
có biến cố hay lúc về già.
Và BHNT ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đó của con người.
Bảo hiểm nhân thọ nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình của bảo hiểm
thương mại, là hình thức bổ sung cho bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, nhằm bảo đảm
ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những tai nạn bất ngờ đối với
thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác
của người tham gia bảo hiểm. Nó có phạm vi đối tượng tham gia rộng hơn, nguồn quỹ
là do người tham gia đóng góp, và số tiền bảo hiểm phụ thuộc vào những quy định đã
thoả thuận trên hợp đồng, đồng thời hình thức là tự nguyện. Còn đối với bảo hiểm xã
hội, phí được trích từ lương theo quy định và là bắt buộc. Nhờ vậy, bảo hiểm nhân thọ
có thể thay thế cho bảo hiểm xã hội trong những trường hợp hay khu vực mà nó không
điều tiết được.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: bảo hiểm nhân thọ và thực trạng bảo hiểm nhân thọ hiện
nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Thị trường BHNT Việt Nam
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
- Mục tiêu: làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về BHNT, thị trường BHNT và
thực trạng thị trường BHNT ở Việt Nam hiện nay, làm rõ xu hướng phát triển BHNT
trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ: đề tài tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu
+ Tổng quan một số vấn đề lý luận về BHNT và thị trường BHNT
+ Các sản phẩm BHNT
+ Khái quát thực trạng BHNT hiện nay
+Xu hướng mới của thị trường BHNT
Nội dung đề tài:
1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm nhân thọ.
2. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
3. Thực trạng và xu hướng phát triển của bảo hiểm nhân thọ hiện nay.
4
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
NỘI DUNG
1. Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm nhân thọ
1.1. Khái niệm
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho bên tham gia (hay người thụ hưởng)
một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm
sống hoặc chết đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí đầy đủ,
đúng hạn. Nói cách khác, nó bảo hiểm rủi ro sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con
người.
Hay: “Bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết”
“Luật Kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam”
1.2. Những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm nhân thọ
1.2.1. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
Đây là đặc tính khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ:
- Tính tiết kiệm: Người tham gia bảo hiểm sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ
(phí bảo hiểm), và công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả số tiền lớn (tiền bảo hiểm) cho người
thụ hưởng như đã thoả thuận từ trước. Tính tiết kiệm thể hiện ngay trong từng cá nhân,
từng gia đình, có kế hoạch và kỷ luật.
- Tính rủi ro: Người bảo hiểm phải đảm bảo trả cho người thụ hưởng một số tiền
rất lớn ngay cả khi người tham gia bảo hiểm mới chỉ nộp một khoản tiền nhỏ nếu như
những tình huống ghi trên hợp đồng xảy ra. Trong trường hợp người được bảo hiểm
chết đi, số tiền này sẽ giúp cho người thụ hưởng trang trải những khoản phí cần thiết.
1.2.2. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ
Trong khi bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng mục đích khắc phục hậu quả khi đối
tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, từ đó góp phần đảm bảo tài chính cho người tham
gia, thì bảo hiểm nhân thọ lại đáp ứng được nhiều mục đích (cụ thể trong từng loại hợp
đồng). Chẳng hạn:
- Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) hưu trí: đáp ứng nhu cầu bảo hiểm những khoản
trợ cấp đều đặn hàng tháng, từ đó góp phần ổn định của sống của họ khi già yếu.
- Hợp đồng bảo hiểm tử vong: giúp người tham gia bảo hiểm để lại cho gia đình
họ một số tiền bảo hiểm khi họ tử vong như: trang trải nợ nần, phụng dưỡng bố mẹ già,
nuôi dưỡng con cái, …
- BHNT còn có vai trò như vật thế chấp vay vốn. BHNT tín dụng thường được
bán cho đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục
đích cá nhân khác, …Đây là loại bảo hiểm có thị trường rộng rãi và được nhiều người
quan tâm.
5
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
1.2.3. Các hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp
Tính đa dạng và phức tạp thể hiện ở chính trong mỗi sản phẩm bảo hiểm của nó.
Mỗi sản phẩm bao gồm nhiều loại khác nhau.
Mỗi loại hợp đồng cảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) khác nhau về : thời gian (5
năm, 10 năm), phương thức đóng phí, số tiền bảo hiểm, độ tuổi người tham gia, mối
quan hệ giữa các bên (người bảo hiểm, người tham gia, người thụ hưởng, người được
bảo hiểm, người thụ hưởng).
1.2.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp nhiều nhân tố, vì vậy quá
trình định phí khá phức tạp
Theo Jean – Claude Harrari: “Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không gì hơn chính là
một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm ra công chúng”. Trong tiến trình đó, rất nhiều
loại chi phí đã phải bỏ ra.
Xem xét yếu tố phí bảo hiểm trong BHNT phụ thuộc vào bảng tỷ lệ tử vong và
yếu tố tài chính. Do bảo hiểm trong thời gian dài thường là từ 5 năm trở lên nên yếu tố
tỷ lệ tử vong đóng vai trò quan trọng trong định phí bảo hiểm.
Để tạo nên giá cả của sản phẩm BHNT, ngoài chi phí khai thác và quản lí hợp
đồng, ta còn phải xác định nhiều yếu tố quan trọng khác:
- Độ tuổi người được bảo hiểm;
- Tuổi thọ bình quân con người;
- Số tiền bảo hiểm;
- Thời gian tham gia;
- Phương thức thanh toán;
- Lãi suất đầu tư;
- Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát đồng tiền;
- Các vấn đề phát sinh khác.
Những khoản chi này thực tế phát sinh và được hạch toán một cách chi tiết đầy
đủ vào tài khoản chi phí đầu vào để phục vụ quá trình định giá. Tuy nhiên, rấy nhiều
yếu tố phải giả định như: tỷ lệ chết, tỷ lệ huỷ bỏ hợp động, tỷ lệ lạm phát. Vì vậy,
người định giá phải nắm vững đặc trưng sản phẩm, có khả năng phân tích dòng tiền và
chiều hướng phát triển sản phẩm trên thị trường nói chung để đưa ra mức giá phù hợp
cho từng thời kỳ.
1.2.5. BHNT cho phép bảo hiểm trong cùng một hợp đồng bảo hiểm cho hai sự
kiện trái ngược nhau là sự kiện “tử vong” và sự kiện “sống”
Bảo hiểm cho hai trường hợp trái ngược nhau là trường hợp duy nhất trong bảo
hiểm. Đối với các loại bảo hiểm phi nhân thọ, người ta chỉ bảo hiểm cho hậu quả của
các sự kiện được bảo hiểm chứ không bảo hiểm cho việc nó không xảy ra. Trong bảo
hiểm nhân thọ người ta có thể bảo hiểm:
- Xảy ra biến cố tử vong: ví dụ,nhà bảo hiểm trả một số tiền cho người được thụ
hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm chết.
6
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
- Không xảy ra biến cố tử vong: người bảo hiểm trả tiền cho người được bảo
hiểm khi anh ta còn sống cho đến hết hạn hợp đồng.
- Hoặc đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện: tử vong và không tử vong
1.2.6. Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định
Ở các nước phát triển, BHNT ra đời và phát triển các đây hàng trăm năm, tuy
nhiên ở một số nước hiện nay vẫn chưa triển khai được mô hình BH này, mặc dù người
ta hiểu rõ vai trò và lợi ích của nó. Các nhà kinh tế học BHNT chỉ hình thành khi điều
kiện kinh tế - xã hội phải phát triển.
Điều kiện kinh tế như: tốc độ GDP, GDP bình quân đầu người, mức thu nhập
dân cư, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, cùng các điều kiện xã hội như: dân số, tuổi thọ
bình quân người dân, trình độ học vấn , tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, … quyết định đến
khả năng tồn tại của một công ty bảo hiểm nhân thọ.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lí cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và
phát triển của BHNT.
(Nguồn: Giáo trình Bảo hiểm, PGS. TS. Nguyễn Văn Định, Trường ĐH Kinh tế Quốc
dân, nguyên lý và thực hành bảo hiểm chủ biên: nguyễn Tiến Hùng)
2. Các sản phẩm bảo hiểm
Theo điều 7, luật của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số
24/2000/QH10 ngày 9/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm, Bảo hiểm nhân thọ gồm:
2.1. Bảo hiểm trọn đời:
Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kì thời
điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Vì thời điểm chết của người tham gia bảo
hiểm là không xác định nên thời hạn hợp đồng là không xác định. Số tiền bảo hiểm
được chi trả cho người thụ hưởng khi người được bảo hiểm chết. Ngoài ra, trong một
số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm
khi họ sống đến một độ tuổi nhất định (chẳng hạn 99 tuổi theo quy định của
Prudential).
Loại hình này thường có các loại hợp đồng sau:
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận.
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời có tham gia chia lợi nhuận
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời đóng phí liên tục
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời đóng phí một lần
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời quy định số lần đóng phí
Loại hình bảo hiểm này có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thời hạn bảo hiểm không xác định.
- Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết bất cứ lúc nào.
7
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
- Phí bảo hiểm của loại này lớn hơn của Bảo hiểm tử kỳ vì rủi ro chết chắc chắn
xảy ra nên số tiền bảo hiểm chắc chắn phải chi trả.
- Phí đóng có thể đóng một lần, định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình
bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ trọn đời được triển khai nhằm thoả mãn nhiều mục đích khác
nhau:
- Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo
hiểm.
- Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau.
- Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch đã định trước.
- Tiết kiệm.
2.2. Bảo hiểm sinh kỳ
Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời
hạn nhất định. Theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm. Thực chất là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn
trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo
hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thí sẽ không được
chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Bảo hiểm sinh kỳ có một số đặc điểm chính sau:
- Thời hạn bảo hiểm có thể xác định (gọi là niên kim nhân thọ tạm thời), có thể
không xác định (gọi là niên kim nhân thọ trọn đời).
- Phí bảo hiểm đóng một lần.
- Số tiền bảo hiểm được chi trả nhiều lần nên còn gọi là trợ cấp định kỳ
Loại bảo hiểm này nhằm thoả mãn những mục đích sau:
- Đảm bảo cuộc sống khi về già hoặc về hưu.
- Đảm bảo thu nhập cố định sau khi hết tuổi lao động.
- Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội khi tuổi già.
2.3. Bảo hiểm tử kỳ:
Còn gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn; là nghiệp vụ
bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo
đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng nếu người được
bảo hiểm vẫn chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu cài
chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kì
một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm không phải thanh
toán số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Ngược lại nếu có cái chết xảy ra trong
thời hạn hiệu lực của hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thanh toán số tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Loại hình bảo hiểm này được đa dạng hoá thành các loại:
8
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
- Bảo hiểm tử kỳ cố định
- Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
- Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
- Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
- Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
- Bảo hiểm thu nhập gia đình
- Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên
- Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
Đặc điểm chính:
- Thời hạn bảo hiểm xác định.
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính chất tạm thời
- Mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập quỹ tiết kiệm cho người được bảo
hiểm.
Mục đích triển khai:
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất.
- Bảo trợ cho gia đình và gia đình trong một thời gian ngắn.
- Thanh toán các khoản nợ như khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo
hiểm.
2.4. Bảo hiểm hỗn hợp
Là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. Công ty bảo
hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết trong thời
hạn hợp đồng và chi trả vào thời điểm hợp đồng đáo hạn.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có một số đặc điểm chính sau:
- Thời hạn bảo hiểm luôn xác định ( thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm…)
- Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi có các SKBH xảy ra (người bảo hiểm
chết hoặc khi hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn sống).
- Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo
hiểm.
- Có thể được chia lãi hoặc có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục
tham gia.
Loại hình bảo hiểm này được triển khai nhằm nhiều mục đích khác nhau :
- Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân
- Thực hiện tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ gia đình cho con cái,
mua sắm tài sản.
- Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.
2.5. Bảo hiểm trả tiền định kỳ
Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời
hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ
cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
9
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
Bảo hiểm trả tiền định kì là loại hình bảo hiểm theo đó công ty bảo hiểm cam kết chi
trả những khoản tiền cố định cho người được bảo hiểm, bắt đầu từ một độ tuổi nhất
định.
Đặc điểm chính:
- Những khoản tiền này thường được mô tả là khoản tiền hằng năm (niên kim),
mặc dù trong thực tế nó có thể được trả mỗi nửa năm, hằng quý hoặc hằng tháng. Niên
kim có thể được trả ngay vào thời điểm kí kết hợp đồng hoặc trả sau, khi hợp đồng đã
có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định.
- Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm trả tiền định kì phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: Sản phẩm cụ thể khách hàng tham gia, độ tuổi bắt đầu tham gia, độ tuổi bắt đầu
được nhận niên kim Ví dụ, thời hạn của hai sản phẩm An Hưởng Hưu Trí và An Bình
Hưu Trí của Bảo Việt Nhân thọ là không xác định; các sản phẩm Phú-An Khang Hưu
Trí và Phú-An Khang Hưu Trí Toàn Diện của Prudential có thời hạn từ 19 đến 39 năm.
- Sản phẩm bảo hiểm trả tiền định kì thường cung cấp cả hai hình thức: đóng phí
một lần hoặc định kì.
Bảo hiểm nhân thọ trả tiền định kì triển khai nhằm nhiều mục đích khác nhau :
- Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu
- Có được thu nhập bổ sung cho các chính sách xã hội của Nhà nước như bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế
- Đảm bảo mức sống trong những năm tuổi già
- Có thêm thu nhập để trang trải các khoản chi phí như: Chi phí thuốc men, y tế,
chăm sóc sức khoẻ, lo hậu sự
- Không phụ thuộc, không trở thành gánh nặng cho con, cháu.
(Nguồn:)
3. Thực trạng và xu hướng phát triển bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
3.1. Thực trạng bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
3.1.1. Tình hình phát triển
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế- xã hội và khoa học kỹ thuật, đời
sống của con người không ngừng được nâng cao và con người ngày càng ý thức được
sự cần thiết và hữu ích của bảo hiểm trong đời. Chính vì thế, sự ra đời của bảo hiểm là
một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và nó đã ra đời từ rất lâu trên thế giới.
Tuy nhiên ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng ra đời
tương đối muộn. Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng, cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ tới các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ
bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên ở Việt Nam, thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt
trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết
định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm: Bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và Bảo
10
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
hiểm an sinh giáo dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ đầu tiên ra thị trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển của BHNT
ở Việt Nam.
Ngày 09 tháng 12 năm 2000 Quốc Hội đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm,
tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhờ có Luật kinh
doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh bình đẳng hơn và đang thực sự
là động lực thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là thị trường bảo hiểm
nhân thọ phát triển .
Trải qua gần 17 năm hoạt động,từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm
duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cho đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ đã
phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài vào đầu tư và
kinh doanh. Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam được mở cửa từ tháng 6/1999,
công ty BHNT nước ngoài đầu tiên gia nhập thị trường là Chinfon-Manulife, liên
doanh giữa Tập đoàn Taiwanese Chinfon và công ty bảo hiểm nhân thọ Canadian
Manulife. Sau đó có nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ lớn trên thế giới tham gia vào thị
trường. Tính đến tháng 9 năm 2013, trên thị trường bảo hiểm đã có 15 công ty bảo
hiểm nhân thọ.
STT Tên công ty
Năm
thành lập
Vốn điều lệ đã góp
(Tỷ đồng)
1 Tổng công ty Bảo Việt Nhân thọ(Bảo Việt Nhân thọ) 2004 1500
2 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam(Prudential) 1999 1136
3 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Việt Nam (Manulife) 1999 789
4 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ AIA Việt Nam(AIA) 2000 1035
5 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ ACE (ACE Life) 2005 911
6 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prévoir Việt Nam(Prévoir) 2005 710
7 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam(Dai-ichi) 2007 1141
8 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Cathay Việt Nam(Cathay life) 2007 966
9 Công ty TNHH bảo hiểm nhân Great Eastern Việt Nam 2007 940
10 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc Việt Nam(Hanwha) 2008 960
11 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Vietcombank-Cardif(VCLI) 2008 600
12 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Fubon Việt Nam(Fubon life) 2010 800
13 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Generali Việt Nam(Generali) 2011 722
14 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Vietinbank-Aviva 2011 800
15 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ PVI Sun Life 2013 1000
Nguồn:Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2012,Bộ tài chính,Nhà xuất bản tài chính(2013)
11
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
Biểu 1: Số lượng các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường từ 1996-2013
Nguồn:Cục quản lý, giám sát bảo hiểm
Nhìn vào đồ thị có thể thấy số lượng các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị
trường đã có sự gia tăng đáng kể qua các năm . Ngoài ra, sự góp mặt của rất nhiều văn
phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam như:
Nan Shan, HSBC, Cathay, Samsung, đã góp phần phá bỏ tình trạng kinh doanh độc
quyền trước đó, tạo ra một môi trường cạnh tranh mới, làm cho thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam trở nên sôi động hơn và có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô,
sản phẩm, chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp, giúp nâng cao năng lực của thị
trường bảo hiểm, thiết lập thêm một kênh thu hút vốn trong dân, tạo điều kiện cho thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam từng bước hội nhập với thị trường bảo hiểm nhân
thọ khu vực và trên thế giới.
(Nguồn: />hinh-thanh-va-phat-trien-nhu-the-nao.aspx)
3.1.2. Hoạt động kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Trong suốt chặng đường hoạt động của mình, Bảo hiểm nhân thọ đã trải qua
nhiều biến động và đã đạt được những kết quả nhất định mặc dù kinh tế Việt Nam vẫn
phải đối mặt với không ít khó khăn,cụ thể:
Về sản phẩm bảo hiểm
Nếu như vào năm 1996, trên thị trường bảo hiểm nhân thọ chỉ có 2 sản phẩm là
Bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và Bảo hiểm an sinh giáo dục thì đến nay các sản phẩm
trên thị trường trở nên đa dạng hơn, có hầu hết các dòng sản phẩm từ sản phẩm truyền
thống đến sản phẩm nhân thọ phi truyền thống (sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và
liên kết đơn vị). Có thể kể đến một số sản phẩm như : bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh
kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm liên kết đầu
12
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
tư trọn đời, bảo hiểm liên kết đầu tư hỗn hợp, bảo hiểm liên kết đầu tư trả tiền định
kỳ,
Nhìn chung, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng được các nhu cầu đa dạng
của khách hàng: tạo lập quỹ giáo dục cho con, bảo vệ tài chính gia đình trước những
rủi ro bất ngờ trong cuộc sống, hỗ trợ viện phí, tiết kiệm và tích luỹ tài sản để thực hiện
những dự định lớn (như mua nhà, mua xe, du lịch…), hình thành quỹ hưu trí cho cuộc
sống tuổi già an vui…
Bên cạnh đó, các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không ngừng gia tăng về số lượng
cũng như chất lượng. Chỉ tính riêng năm 2012, trên thị trường đã có trên 30 sản phẩm
bảo hiểm mới được phê chuẩn, chủ yếu là sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp, sản phẩm bảo
hiểm tử kỳ. Theo Bộ Tài chính, năm 2013, thị trường bảo hiểm nhân thọ sẽ tiếp tục
tăng trưởng, các sản phẩm bảo hiểm truyền thống và bảo hiểm dành cho người nghèo
có xu hướng tăng tỷ trọng trong cơ cấu doanh thu và hợp đồng khai thác mới. Các
doanh nghiệp bắt đầu chú trọng vào chất lượng dịch vụ và tính tiện ích để thu hút
khách hàng, tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới như bảo
hiểm chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm hưu trí, sử dụng các kênh phân phối khác như môi
giới, ngân hàng, tập trung vào bên mua bảo hiểm là tổ chức.
Ngoài ra, trong năm 2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 115/2013/TT-
BTC hướng dẫn về bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện, được triển khai tại Việt
Nam từ ngày 15/10/2013. Đây sẽ là nhân tố tích cực đối với sự phát triển dài hạn của
thị trường bảo hiểm nhân thọ, mở ra cơ hội lớn cho các DN với việc cho ra đời những
sản phẩm mới có liên quan, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.Các công ty
bảo hiểm được lựa chọn triển khai thí điểm sản phẩm này như PrudentialViệt Nam,
Dai-ichi Life Việt Nam, AIA Việt Nam… cũng đã hoàn thiện sản phẩm chỉ chờ sự phê
chuẩn của các cơ quan chức năng là chính thức đưa sản phẩm ra thị trường và công tác
tuyên truyền quảng bá sản phẩm tới các đối tượng khách hàng đang được các được các
doanh nghiệp này đẩy mạnh.Đầu tháng 10/2013, Manulife Việt Nam cũng đã phối hợp
với Công ty Môi giới bảo hiểm Jardine Lloyd Thompson (JLT) tổ chức Hội thảo về
Chương trình bảo hiểm hưu trí tự nguyện với đối tượng tham dự là các giám đốc nhân
sự và giám đốc tài chính của các công ty đang hoạt động tại Việt Nam.
(Nguồn: />huu-tri-3113-316616.htm)
Số lượng hợp đồng bảo hiểm
Số lượng hợp đồng khai thác mới trong 9 tháng 2013 đạt mức tăng trưởng cao
với 865.167 hợp đồng (sản phẩm chính), tăng 24% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó
Prudential khai thác được 247.068 hợp đồng, Prevoir là 224.485 hợp đồng và Bảo Việt
Nhân thọ là 155.722 hợp đồng.
Cơ cấu số lượng hợp đồng khai thác mới sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trong 9
tháng năm 2013 như sau: sản phẩm bảo hiểm tử kỳ chiếm 42,9%, sản phẩm bảo hiểm
13
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
hỗn hợp chiếm 32,4%; sản phẩm bảo hiểm đầu tư chiếm 24,6%; sản phẩm bảo hiểm
trọn đời và sản phẩm bảo hiểm trả tiền định kỳ chiếm 0,1%.
Biểu 2:Cơ cấu số lượng hợp đồng khai thác mới 9 tháng đầu năm 2013
Số lượng hợp đồng khôi phục hiệu lực (sản phẩm chính) trong 9 tháng đầu năm
là 62.747 hợp đồng giảm 16% so với cùng kỳ năm 2012. Các doanh nghiệp có số
lượng hợp đồng khôi phục cao là Prudential: 50.564 hợp đồng, Manulife 4.364 hợp
đồng và Dai-ichi là 2.955 hợp đồng. Nhóm sản phẩm khôi phục nhiều nhất là: sản
phẩm bảo hiểm hỗn hợp (29.623 hợp đồng) và sản phẩm bảo hiểm tử kỳ (25.973 hợps
đồng).
Số lượng hợp đồng hết hiệu lực trong kỳ là 698.057 hợp đồng tăng 15% so với
cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp có số hợp đồng hết hiệu lực nhiều trên thị
trường là Prudential với 212.821 hợp đồng, Prevoir 191.303 hợp đồng và Bảo Việt
Nhân thọ 116.534 hợp đồng. Nhóm sản phẩm hết hiệu lực nhiều nhất gồm sản phẩm tử
kỳ 315.057 hợp đồng và sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm 311.847 hợp đồng .
Tổng số lượng hợp đồng có hiệu lực cuối kỳ là 4.993.961 hợp đồng, tăng 8% so
với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp có số lượng hợp đồng có hiệu lực lớn là
Prudential 2.101.666, Bảo Việt Nhân thọ là 1.317.399 hợp đồng, Manulife là 414.786
hợp đồng.
Cơ cấu số lượng hợp đồng có hiệu lực cuối kỳ theo loại sản phẩm như sau: sản
phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm 61,5%; sản phẩm bảo hiểm đầu tư chiếm 18,8%; sản
phẩm bảo hiểm tử kỳ chiếm 18,3%, sản phẩm bảo hiểm trọn đời, sinh kỳ và trả tiền
định kỳ chiếm 1,4%.
Số tiền bảo hiểm
Tổng mức trách nhiệm mà các doanh nghiệp bảo hiểm Nhân thọ đang nắm giữ 9
tháng đầu năm 2013 là 674 nghìn tỉ đồng tăng 24% so với cùng kỳ năm 2012 trong đó
mức trách nhiệm của các sản phẩm chính đạt 487 nghìn tỉ đồng tăng 23%, mức trách
14
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
nhiệm của các sản phẩm phụ đạt 187 nghìn tỉ đồng tăng 28%. Nhóm sản phẩm bảo
hiểm có mức trách nhiệm cao nhất là sản phẩm đầu tư với tổng mức trách nhiệm là 263
ngàn tỉ.
Các doanh nghiệp có tổng mức trách nhiệm cao trên thị trường bảo hiểm là:
Prudential 176 ngàn tỉ, Dai-ichi Life 116 ngàn tỉ đồng và Bảo Việt Nhân thọ 106 ngàn
tỉ.
Phí bảo hiểm
Biểu 3:Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ từ 1996-2012
Nguồn:Cục quản lý, giám sát bảo hiểm
Nhìn chung, doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ có sự tăng trưởng tương đối nhanh
và ổn định qua các năm bất chấp nền kinh tế có những giai đoạn khó khăn do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Cho đến nay, mặc dù khó khăn vẫn
còn nhưng thị trường bảo hiểm nhân thọ vẫn luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng với
phí bảo hiểm định kỳ năm đầu trong 9 tháng đầu năm 2013 đạt 4.583 tỉ đồng tăng
28,3% so với cùng kỳ năm trước, phí bảo hiểm đóng một lần là 84 tỉ đồng tăng 68% so
với cùng kỳ năm trước. Tổng phí khai thác mới trong 9 tháng đầu năm đạt 4.667 tỉ
đồng tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước. Dẫn đầu về phí bảo hiểm khai thác mới là
Prudential với 1.185 tỉ đồng, Bảo Việt Nhân thọ 1.102 tỉ đồng và Manulife 586 tỉ đồng.
Tổng phí bảo hiểm toàn thị trường là 15.574 tỉ đồng, tăng 20,6% so với cùng kỳ
năm trước. Các doanh nghiệp có thị phần lớn trên thị trường là: Prudential với 5.256 tỉ
đồng chiếm 33,75% thị phần, Bảo Việt Nhân thọ với 4.488 tỉ đồng chiếm 28,82% thị
phần, Manulife với 1.845 tỉ, chiếm 11,85% thị phần.
15
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
Nhóm sản phẩm có tỉ trọng sản phẩm phí cao vẫn là sản phẩm hỗn hợp chiếm
61,7% (9.616 tỉ đồng), sản phẩm đầu tư là 25,3% (3.941 tỉ đồng), sản phẩm phụ chiếm
8,7 % (1.359 tỉ đồng).
Tình hình trả tiền bảo hiểm
Tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả quyền lợi cho các khách hàng
trong 9 tháng năm 2013 là 6.224 tỉ đồng.
Tổng số trả tiền bảo hiểm là 3.964 tỉ đồng, trong đó, Bảo Việt Nhân thọ chi trả
1.747 tỉ đồng, Prudential 1.332 tỉ đồng và Manulife 333 tỉ đồng.
Tổng số giá trị hoàn lại là 1.308 tỉ đồng, Prudential là doanh nghiệp có giá trị
hoàn lại cao nhất thị trường với 372 tỉ đồng, Bảo Việt Nhân thọ là 332 tỉ đồng tiếp theo
là Prevoir 197 tỉ đồng. Đặc biệt, Prevoir là doanh nghiệp bảo hiểm có tổng số giá trị
hoàn lại đứng thứ 3 trên thị trường do các sản phẩm chủ yếu của Prevoir là sản phẩm tử
kỳ có hoàn phí.
Tổng số lãi chia cho người thụ hưởng là 952 tỉ đồng, trong đó, Prudential trả
525 tỉ đồng, Bảo Việt Nhân thọ trả 212 tỉ đồng và Manulife trả 183 tỉ đồng.
Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Đội ngũ đại lý chuyên nghiệp là một trong những kênh phân phối chính các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ ra thị trường, ngoài ra các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn
được phân phối qua các nhân viên bảo hiểm, hệ thống ngân hàng, mạng internet, bưu
điện.Trong thời gian vừa qua, số lượng đại lý chuyên nghiệp phát triển nhanh từ 15 đại
lý năm 1996 lên 16818 năm 2000 và tính đến hết tháng 9 năm 2013, tổng số lượng đại
lý có mặt trên thị trường là 240.590 đại lý, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong
số các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động thì Prudential là doanh nghiệp có số
lượng đại lý cao nhất và tăng nhanh nhất, từ 5120 đại lý năm 2000 lên 126.049 đại lý
năm 2013.Số lượng đại lý Bảo Việt Nhân thọ cũng tăng đáng kể, từ 8817 đại lý năm
2000 lên 33.985 đại lý năm 2013.
Tuy nhiên, số lượng các đại lý bảo hiểm đang có dấu hiệu giảm sút và chất
lượng của các đai lý bảo hiểm chưa cao. Số lượng đại lý mới tuyển dụng trong 9 tháng
đầu năm 2013 là: 94.610 người giảm 13,4% so với cùng kỳ năm ngoái, các doanh
nghiệp bảo hiểm có số lượng đại lý mới tuyển dụng nhiều nhất thị trường theo thứ tự
là: Prudential (28.922 người), Bảo Việt Nhân thọ (13.588 người) và AIA (13.444
người).
16
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
Đơn vị: nghìn người
Biểu 4:Số lượng đại lý mới tuyển dụng trong kỳ và có mặt đến cuối kỳ giai
đoạn 2006-2011
(Nguồn: o/so-lieu-dai-ly-bao-hiem-nhan-tho-moi-tuyen-dung-
va-co-mat-giai-doan-2006-2011/)
Theo thống kê ở bảng trên ta thấy, có đến khoảng 80% đại lý bảo hiểm đóng cửa
trong vòng 12 tháng đầu tiên bước chân vào nghề bảo hiểm. Rất nhiều đại lý bảo hiểm
được mở ra nhưng trong vòng ba - sáu tháng liên tục không bán được một hợp đồng
bảo hiểm. Tình trạng này xảy ra, công ty bảo hiểm buộc phải chấm dứt hợp đồng đại
lý. Nhiều đại lý đã quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm, các điều kiện cũng như điều khoản bảo hiểm, gây thiệt hại cho bên
mua. Yêu cầu đối với đại lý bảo hiểm thấp, thời gian đào tạo ngắn, việc cấp bằng đơn
giản khiến chất lượng đại lý vì thế không tương xứng với số lượng.Các doanh nghiệp
chưa chú trọng đúng mức đến việc nâng chất lượng tuyển dụng, đào tạo quản lý và sử
dụng đại lý nên tỷ lệ doanh thu, lợi nhuận thu về trên số đại lý là rất thấp.
( />hiem-Viet-Nam-quy-III2013/37001.tctc)
Ngoài ra, trên thị trường hiện nay đang hình thành và phát triển một hình thức
kênh phân phối mới đó là Bancassurance. Bancassurance là một thuật ngữ tiếng Pháp
dùng để chỉ việc bán sản phẩm bảo hiểm qua hệ thống ngân hàng cho cùng một cơ sở
khách hàng, ra đời nhằm bảo vệ cho khách hàng tham gia các dịch vụ tài chính tại ngân
hàng trước những rủi ro ngoài ý muốn. Bancassurance là kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm hiệu quả, cạnh tranh mạnh mẽ với kênh phân phối truyền thống (thông qua các
đại lý bảo hiểm). Loại hình bảo hiểm này đã và đang phát triển mạnh tại thị trường một
số nước châu Á như Malaysia, Singapore, Indonesia, Thái Lan Tại Việt Nam,
Bancassurance đang trở thành một trào lưu và xu hướng tất yếu để các ngân hàng trong
nước tìm tới một nguồn thu bổ sung bền vững và an toàn, thay vì dựa vào hoạt động tín
dụng nhiều vốn, rủi ro cao. Và Sacombank là một trong những Ngân hàng thương mại
đi tiên phong trong việc triển khai nhiều gói Bancassurance, góp phần tạo tiền đề quan
trọng cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của Bancassurance tại Việt Nam như hiện
17
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
nay, với các sản phẩm chủ yếu : An tâm tiêu dùng liên kết với Công ty bảo hiểm
Prevoir, An tâm tín dụng liên kết với Công ty bảo hiểm Dai-Ichi Life, Bảo hiểm Phố
chợ liên kết với công ty bảo hiểm Prevoir .
Những công ty bảo hiểm đang phát triển mạnh kênh phân phối này tại thị trường
Việt Nam hiện nay là Prudential, Manulife, Prevoir,… Nhiều DNBH Việt Nam như:
Prudential, Manulife, Dai-Ichi life, Ace life, … sau một thời gian triển khai kênh phân
phối sản phẩm này đã đạt được những thành quả rất đáng khích lệ, doanh thu phí bảo
hiểm từ kênh Bancassurance đã không ngừng tăng lên. Tại DNBH Manulife doanh thu
bảo hiểm từ kênh này trong quý I/2013 tăng 260% so với cùng kỳ năm 2012.
(Nguồn: />bao-hiem-dang-duoc-ky-vong-o-Viet-Nam/32300.tctc
/>ap-dung-tai-sacombank.htm
)
3.1.3. Hoạt động đầu tư
Ngành bảo hiểm ngày càng chứng tỏ mình là một kênh huy động vốn an toàn,
hiệu quả, đáp ứng kịp thời yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo
hiểm. Hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm, phần lớn tập trung các công cụ mang
tính chất an toàn,chủ yếu đầu tư vào trái phiếu, đây là công cụ mà chính phủ đưa ra để
huy động vốn cho các công trình trọng điểm của quốc gia, tiếp đến là hình thức gửi
tiền vào các tổ chức ngân hàng.Ngoài ra, còn có các hình thức đầu tư khác như: cổ
phiếu,bất động sản, liên doanh,…với tỷ trọng thấp.Cụ thể:Tổng số tiền đầu tư 6 tháng
đầu năm 2013 đạt khoảng 70.996 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2012. Tính
đến tháng 6/2013, doanh thu từ hoạt động đầu tư ước đạt 3.639 tỷ đồng, tăng 2,4% so
cùng kỳ năm 2012. Cơ cấu đầu tư của các DNBH nhân thọ mang tính an toàn với
khoảng 60% đầu tư vào trái phiếu chính phủ và 15% đầu tư vào tiền gửi ngân hàng.
Các hạng mục đầu tư rủi ro cao như cổ phiếu, góp vốn vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng
8% tổng tài sản đầu tư.
(Nguồn:Số liệu thống kê thị trường 6 tháng đầu năm 2013,Cục quản lý, giám sát bảo hiểm)
3.1.4. Khó khăn và thách thức
Mặc dù đã có những bước phát triển dài nhưng có thể thấy, đến nay thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên
thế giới và vẫn đang trong giai đoạn hình thành. Bên cạnh đó, thị trường bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam cũng đang gặp phải một số thách thức đối với sự phát triển bền vững của
mình:
- Thứ nhất, do những khó khăn chung của nền kinh tế khiến nhu cầu bảo hiểm
nhân thọ của người dân suy giảm. Lạm phát cao cộng với giá lương thực, thực phẩm,
giá điện nước, giá dịch vụ y tế, giáo dục có thể tiếp tục bị điều chỉnh tăng kéo theo hệ
quả là làm giảm niềm tin của công chúng đối với các khoản đầu tư dài hạn, các hợp
18
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
đồng bảo hiểm dài hạn đồng thời làm cho lãi suất ngắn hạn tăng lên cao (như lãi suất
tiết kiệm ngân hàng), tạo ra sự cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
- Thứ hai, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính (như ngân hàng, chứng khoán
và các tổ chức tài chính) và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc thu hút tiền
vốn nhàn rỗi trong dân chúng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng đã đưa ra những sản
phẩm có tính cạnh tranh cao đối với các sản phẩm bảo hiểm như tiết kiệm gửi định kỳ,
tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm với thời hạn dài kèm theo các hình thức khuyến
mại như tặng bảo hiểm, rút thăm trúng thưởng và nhiều ưu đãi liên quan khác. Theo
đánh giá chung, sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính là một trong những nguyên
nhân chính gây ra sự suy giảm của thị trường bảo hiểm nhân thọ trong giai đoạn 2004-
2006.
- Thứ ba, môi trường luật pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù
đã được quan tâm xây dựng nhưng đến nay vẫn chưa theo kịp sự phát triển của ngành,
đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
- Thứ tư, quy trình quản lý đại lý của một số doanh nghiệp chưa hoàn thiện dẫn
đến khiếu nại tố cáo của nhiều đại lý trong việc chấm dứt hợp đồng đại lý, cạnh tranh,
lôi kéo đại lý giữa các doanh nghiệp; danh mục đầu tư của nhiều doanh nghiệp vẫn chủ
yếu là tiền gửi ngắn hạn, chưa phù hợp với bản chất dài hạn của bảo hiểm nhân thọ; chi
phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng cao so với doanh thu phí bảo hiểm làm
giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Thứ năm, nhận thức về bảo hiểm nhân thọ của các tầng lớp dân cư vẫn còn hạn
chế: công tác tuyên truyền quảng cáo về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng vẫn còn hạn chế nên rất nhiều người không biết về bảo hiểm nhân thọ, hoặc biết
rất mơ hồ về bảo hiểm nhân thọ hoặc nhầm lẫn giữa bảo hiểm nhân thọ với các hình
thức bảo hiểm khác.
3.2. Xu hướng phát triển của bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
Nhìn chung thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang dần chuyển động theo
những lối đi mới để có thể vượt qua những khó khăn đang tồn tại đồng thời đưa thị
trường ngày một phát triển đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Sản phẩm mang tính bảo vệ đang rút dần khoảng cách với các sản phẩm tiết
kiệm, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển dòng sản phẩm mang tính bảo vệ.
Năm 2012, sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm thị phần cao nhất với 39,3%; tử kỳ
chiếm 35,4%; đầu tư chỉ chiếm 24,9%; sản phẩm trọn đời và sản phẩm bảo hiểm trả
tiền định kỳ chiếm 0,4%. Sang 6 tháng đầu năm 2013, sản phẩm bảo hiểm tử kỳ chiếm
42,9%, sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm 32,4%; sản phẩm bảo hiểm đầu tư chiếm
24,6%; sản phẩm bảo hiểm trọn đời và sản phẩm bảo hiểm trả tiền định kỳ chiếm
0,1%. Tuy nhiên các sản phẩm có tính đầu tư còn rất nhiều cơ hội để phát triển ở thị
trường Việt Nam và giống như tại các thị trường phát triển khác, dòng sản phẩm này sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong tương lai. Hiện tại, số lượng cũng như chủng loại
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chú trọng vào yếu tố đầu tư vẫn còn giới hạn tại Việt
19
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
Nam, nhưng khi các công ty bảo hiểm nhân thọ giới thiệu nhiều sản phẩm hơn nữa ra
thị trường thì dòng sản phẩm này sẽ trở thành dòng sản phẩm quan trọng, giống như tại
các thị trường phát triển. (nguồn: />hiem-van-con-co-hoi-cho-tat-ca.html).
- Xu hướng thành lập công ty quản lý quỹ của các công ty bảo hiểm. Thông tư
115/2013/TT- BTC hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện yêu cầu DN
bảo hiểm triển khai sản phẩm bảo hiểm hưu trí chủ động quản lý, đầu tư tài sản của
quỹ hưu trí tự nguyện hoặc ủy thác cho cty quản lý quỹ đầu tư tài sản của quỹ hưu trí
tự nguyện theo đúng hạn mức, mục tiêu, chiến lược đầu tư của quỹ này và theo quy
định của pháp luật hiện hành. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm nhân thọ có thể thấy,
mới chỉ có bốn công ty bảo hiểm nhân thọ đang có công ty quản lý quỹ cho riêng mình
(Công ty Bảo hiểm Nhân thọ ACE Life, Prudential Việt Nam, Manulife Việt Nam và
Bảo Việt Nhân Thọ). Với những doanh nghiệp như Dai-ichi Việt Nam, AIA Việt Nam,
PVI Sun Life đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc thành lập cty quản lý quỹ của riêng mình.
Đây là một xu hướng tất yếu để giúp các doanh nghiệp này đầu tư nguồn vốn có được
từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiệu quả hơn. Nhằm mục tiêu đón nhận dòng vốn
mới từ chương trình bảo hiểm hưu trí, quản lý tốt hơn danh mục đầu tư, thực hiện hiệu
quả mục tiêu mang lại lợi ích lớn hơn cho khách hàng.
( /> />quan-ly-quy-2013103016401842710ca31.chn
- Các công ty đang tập trung mạnh vào phân khúc bảo hiểm nhóm hướng tới đối
tượng là các tổ chức, doanh nghiệp và lực lượng lao động. Tiềm năng của bảo hiểm
nhóm phúc lợi nhân viên tại Việt Nam lớn hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy với
51 triệu người đang làm việc tại nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
- Sự ra đời của bảo hiểm hưu trí tự nguyện là một bước phát triển quan trọng của
thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ngoài đối tượng khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp
cũng có thể cung cấp quyền lợi hưu trí cho nhân viên của mình. Bảo hiểm hưu trí tự
nguyện dành cho doanh nghiệp sẽ làm phong phú thêm các phúc lợi nhân viên trong
khi những sản phẩm bảo hiểm phúc lợi nhân viên hiện nay sẽ tiếp tục đáp ứng những
nhu cầu khác của doanh nghiệp. Do đặc tính sản phẩm và phương thức tiếp cận không
có khác biệt đáng kể nên cạnh tranh trong phân khúc bảo hiểm nhóm sẽ chủ yếu dựa
trên hiệu quả quản trị chương trình bảo hiểm và dịch vụ khách hàng.
( />nhom/45/12563601.epi)
Theo ông Simon Lam-Tổng giám đốc Generali Việt Nam, tại thị trường đang
phát triển như Việt Nam, tương lai luôn quan trọng hơn nhiều. Do đó, khi đánh giá
những công ty mới gia nhập thị trường cần nhìn vào tốc độ bắt kịp thị trường của họ
ngay từ những ngày đầu tiên. Đây là thái độ cần thiết để vượt qua thử thách. Một trong
những thách thức quan trọng hàng đầu đối với công ty bảo hiểm mới là giải quyết được
câu hỏi: “công ty muốn tạo ra khác biệt gì trên thị trường và công ty đang mang vào thị
trường những khác biệt gì?”
Như vậy sự phát triển bảo hiểm nhân thọ gắn liền với sự tăng trưởng của nền kinh
tế. Với những khó khăn chung của nền kinh tế trong năm 2013, để có thể duy trì tốc độ
20
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
tăng trưởng ổn định, và theo kịp những xu hướng mới là một thách thức đối với các
doanh nghiệp. Vì vậy, bản thân mỗi doanh nghiệp cần tập trung phát triển sản phẩm
bảo hiểm mới (như các sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, sản phẩm hưu trí, bảo
hiểm vi mô ), đáp ứng được nhu cầu của nhiều tầng lớp người tham gia bảo hiểm, mở
rộng được các kênh phân phối mới bên cạnh các kênh phân phối truyền thống giúp bảo
hiểm nhân thọ tiếp cận được hơn với người có nhu cầu.
(nguồn: />nhan-tho-6-thang-dau-nam-2013-bid538.html
21
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
KẾT LUẬN
Như vậy, bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo vệ tài chính, thể hiện sự quan tâm
đến gia đình, lập quỹ học tập cho con em, là lương hưu an nhàn cho tuổi già, là kênh
huy động vốn lớn cho đầu tư,… Với những lợi ích đó bảo hiểm nhân thọ đang ngày
càng trở nên quan trọng đối với cá nhân, gia đình và toàn bộ nền kinh tế xã hội. Góp
phần ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.
Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn chất
lượng trong bối cảnh thị trường trẻ và đầy tiềm năng. Tuy nhiên vẫn còn đó những khó
khăn và thách thức phải vượt qua để hoàn thiện hơn nữa. Những xu hướng mới xuất
hiện trên thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải biết nhìn nhận, đánh giá đúng và có
những bước đi phù hợp để bắt kịp, mở rộng hơn nữa về sản phẩm, thị trường và chất
lượng dịch vụ bảo hiểm. Cần phải tập trung “làm mới” sản phẩm bằng cách tích hợp
nhiều tính năng hỗ trợ các chi phí y tế và giáo dục phục vụ nhu cầu ngày càng gia tăng
của khách hàng; phát triển mạng lưới hệ thống ra nhiều tỉnh/thành, trong đó có xu
hướng phát triển ra thị trường phía Bắc.
Như vậy để thị trường phát triển thì nhà nước ta phải không ngừng có những
chính sách hỗ trợ, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo ra một thị trường
kinh doanh lành mạnh, thu hút các nhà bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào thị trường. Bên
cạnh đó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đúng các chính sách đã đặc ra,
cũng như có các chương trình tuyển dụng, đào tạo cán bộ, đại lý làm bảo hiểm nhân
thọ.
22
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Bảo hiểm, PGS. TS. Nguyễn Văn Định, Trường ĐH Kinh tế Quốc
dân, nguyên lý và thực hành bảo hiểm chủ biên: Nguyễn Tiến Hùng
2. Luật kinh doanh bảo hiểm
3. Website Cục quản lý, giám sat bảo hiểm: />4. />thach-thuc-38798/
5.
6. />truong-bao-hiem-nhan-tho-6-thang-dau-nam-2013-bid538.html
7. />bao-hiem-nhom/45/12563601.epi
8. />quan-ly-quy.htm
9. />co-hoi-cho-tat-ca.html
10. Theo QUYẾT ĐỊNH số 193/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ:Về Chiến
lược phát triển thị trường Bảo hiểm Việt Namgiai đoạn 2011 – 2020
11. />huu-tri-3113-316616.htm
12. />truong-bao-hiem-Viet-Nam-quy-III2013/37001.tctc
13. />Viet-Nam-hinh-thanh-va-phat-trien-nhu-the-nao.aspx
14. />bao-hiem-nhan-tho/24236.tctc
15. />thanh-lap-cong-ty-quan-ly-quy-2013103016401842710ca31.chn
23
Bảo hiểm nhân thọ_Nhóm 1
24