Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện cư jút, tỉnh đắk nông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.63 KB, 26 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến quý thầy, cô trong khoa Lý luận Chính trị, thầy, cô đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô
giáo hướng dẫn: Thạc sĩ Phạm Phương Anh, người đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn sâu nặng tới gia đình, bạn bè và những
người thân đã luôn động viên, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học cũng như
trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực của bản thân còn nhiều
hạn chế nên chắc chắn chuyên đề tốt nghiệp của em không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Đắk Lắk, tháng , năm 2015
Sinh viên
Hà Thị Mai
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một hiện tượng xã hội đặc biệt đa dạng,
phức tạp, có liên quan chặt chẽ đến những biến động xã hội, sắc tộc và không ngừng
tác động đến những vấn đề của đời sống xã hội. Vì thế, chính phủ của các quốc gia
trên thế giới nói chung, Đảng và Nhà nước Việt Nam nói riêng luôn coi việc giải
quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo là một nhiệm vụ có tính chiến lược, ổn định. Vấn đề
dân tộc, tôn giáo là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Cư Jút là một huyện của tỉnh Đắk Nông, huyện nằm trên trục đường quốc lộ 14,
cách trung tâm Buôn Ma Thuột khoảng 20km về phía Tây Nam và cách thị xã Gia
Nghĩa khoảng 110km. Trên địa bàn huyện Cư Jút có đến 25 dân tộc cùng sinh sống
xem kẽ ở 127 thôn, buôn, bon, xã, thị trấn,…nên mang đậm bản sắc văn hóa của


nhiều vùng, miền, dân tộc. Toàn huyện có 3 tôn giáo chính gồm Công giáo, Phật giáo
và Tin lành, tín đồ có 26,190, chiếm 28,37% dân số.
Huyện Cư Jút có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế - an ninh quốc
phòng, đồng thời là một địa bàn phức tạp về tôn giáo. Do địa hình kinh tế - xã hội các
thế lực thù địch trên cơ sở này đã ra sức kích động bằng những chính sách hỗ trợ về
kinh tế để xây dựng, nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập li khai, ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội huyện Cư Jút. Vì vậy việc nghiên cứu về tôn
giáo nói chung và chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông nói riêng là một vấn đề cấp thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Chính vì
lý do trên tôi chọn đề tài: “Nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tín
ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay” làm đề tài chuyên đề
tốt nghiệp của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát về mức độ nhận thức tôn giáoở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện
nay.
-Làm rõ những quan điểm chính sách đối với tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông hiện nay.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong những năm qua lĩnh vực nghiên cứu về tôn giáo nói chung và
những chính sách về tôn giáo nói riêng đã gặt hái được nhiều thành quả to lớn
với sự tham gia nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài
nước. Nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo cũng
đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau, có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Nguyễn Khắc Đức, “Vấn đề đạo tin lành trong đồng bào dân tộc
H’mông và đồng bào dân tộc dao ở miền núi phía Bắc”, luận án tiến sĩ triết
học, nghiên cứu về quá trình du nhập và phát triển cùng ảnh hưởng của đạo
tin lành đến đời sống của đồng bào người H’mông và Dao ở miền núi phía
Bắc.
- Chủ nhiệm TS. Nguyễn Đức Lữ (2000), đề tài cấp bộ: “Sự phát triển

của đạo tin lành trong vùng đồng bào dân tộc ít người ở một số tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay”
- Nguyễn Đức Lữ (số 11 – 1997), “sự biến động và xu hướng của tôn
giáo trong thời đại ngày nay”, tạp chí thông tin lý luận.
- PGS.TS Trần Đăng Sinh – TS Đào Đức Doãn (2011), giáo trình tôn
giáo học, Nxb Đại học sư phạm.
- Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam”, sách tham khảo, Nxb, Chính trị quốc gia.
- Hoàng Tâm Xuyên (1999), “Mười tôn giáo lớn trên thế giới”, Nxb,
chính trị quốc gia.
Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề tôn giáo, tuy nhiên mục
đích nghiên cứu là nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tín ngưỡng,
tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống toàn diên vấn đề này. Vì vậy, tôi chọn
đề tài: “Nhận thức về tôn giáo và chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở
huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay làm đề tài chuyên đề của mình.
3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tôn giáo và những chính sách tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
hiện nay.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu chuyên đề, tôi tập trung làm rõ những
vấn đề sau:
Thứ nhất: Làm rõ nguồn gốc, bản chất và tư tưởng Hồ Chí Minh về mặt lý
luận về tôn giáo.
Thứ hai: Làm rõ những chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư
Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay về mặt thực tiễn.

3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt kết quả như trên, chuyên đề chủ yếu dựa trên phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời còn
có sự kết hợp của các phương pháp như:
- Phương pháp lịch sử- logic: Để có cái nhìn tổng quan về nhận thức tôn
giáo và chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đăk
Nông hiện nay.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm đánh giá nhận thức về tôn giáo
và chính sách đối với tín ngưỡng,tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông
hiện nay
- Phương pháp so sánh- đối chiếu: Để có kết quả nghiên cứu tôi đã sử
dụng phương pháp so sánh- đối chiếu với các nội dung nghiên cứu khác để từ
đó đưa ra những nhận định, đánh giá và kết luận chung.
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG 1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO VÀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
1.1. Nguồn gốc, bản chất của tôn giáo
1.1.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất tôn giáo là một
hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh
tự nhiên và sức mạnh xã hội.
Theo Mác: Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân,…
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hóa, phù hợp với
đạo lý, đạo đức của xã hội. Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan
duy vật Mác Xít và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau, tuy nhiên những
người Cộng sản có lập trường Mác Xít không bao giờ có thái độ xem thường

hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân.
Ngược lại, chủ nghĩa Mác – Lênin và những người Cộng sản, chế độ xã hội
chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Thứ nhất, nguồn gốc kinh tế - xã hội
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con
người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn. vì vậy
họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh thần bí, từ đó họ xây dựng những
biểu hiện tôn giáo để thờ cúng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất
lực trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị, họ không giải thích được
nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác,…tất cả họ quy
về số phận và định mệnh. Từ đó họ đã thần thánh hóa một số người thành
những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà
sinh ra tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bần
cùng kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã
hội là nguồn gốc sâu xa.
Thứ 2, nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và bản thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và
xã hội có nhiều điều khoa học còn chưa khám khá và giải thích được nên con
người lại tìm đến tôn giáo. Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực,
thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng thần thánh hóa đối tượng.
Thứ 3, nguồn gốc tâm lý của tôn giáo.
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội
mà dẫn đến việc hình thành tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra
luận điểm “sự sợ hãi sinh ra tôn giáo”, Lênin cũng cho rằng: sự sợ hãi trước
thế lực mù quáng của tư bản…sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu

nhiên”, làm họ bị diệt vong…dìm họ vào cảnh chết đói đó chính là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo hiện đại. Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn,
kính trọng cũng có khi biểu hiện qua tôn giáo.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Thứ nhất, tư tưởng đoàn kết lương giáo
Đoàn kết toàn dân trong đó có đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo là
yếu tố cơ bản để đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết tôn
giáo hoà hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và không tín ngưỡng, tôn giáo là những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo. Hồ Chí Minh cho rằng: Lực lượng toàn dân
là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó. Đoàn
kết toàn dân, trong đó có đoàn kết dân tộc và tôn giáo là yếu tố cơ bản đưa tới
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy nằm trong chiến lược đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.Với tinh thần đoàn kết lương giáo, hòa hợp
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được đông đảo chức sắc, tín đồ các
tôn giáo hết lòng phấn đấu cho sự nghiệp cứu nước, kiến quốc, từ đó xóa dần
những định kiến, mặc cảm do lịch sử để lại và âm mưu chia rẽ tôn giáo của
các thế lực thù địch.
Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết lương giáo là đoàn kết lâu dài và toàn
diện, là vấn đề chiến lược. Thái độ chân tình, cởi mở, bao dung và luôn thấu
hiểu nỗi trăn trở, suy tư của đồng bào của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng tín đồ các tôn giáo. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch
Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố trước toàn dân ngày 2-9-1945 đã kế thừa
và phát triển những giá trị của những tư tưởng tiến bộ về quyền con người
trong các cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Chỉ sau một ngày khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Trong phiên họp này, Chủ
tịch đã nêu sáu vấn đề cấp bách cần giải quyết, trong đó vấn đề thứ sáu là
thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết.
Ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có
quyền tự do tín ngưỡng. Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh 234/SL quy định những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới, được đồng
bào theo và không theo tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.Năm 1958,
khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo
có bị hạn chế không?, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại thái độ của
người cộng sản đối với tôn giáo: Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín
ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam ta cũng vậy. Người cũng nêu rõ những
giá trị đạo đức và văn hóa nhất định của tôn giáo:
Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa.
Chính những quan điểm đúng đắn ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội và tôn giáo đã bác bỏ luận điệu tuyên truyền rằng: Chủ nghĩa xã hội
không phù hợp với nền văn minh Ki-tô giáo; chủ nghĩa xã hội hạn chế, thậm
chí không chấp nhận chung sống với tôn giáo… và giải toả nỗi lo lắng, ngờ
vực trong cộng đồng Công giáo khi bước vào công cuộc xây dựng xã hội
mới.Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải quan
tâm, chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo.
Mong sao sản xuất ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn
cũng được yên vui.
Hồ Chí Minh coi tôn giáo là một yếu tố cấu thành và là di sản văn hoá của
nhân loại. Có được sự nhìn nhận ấy phải là con người đã trải qua một quá
trình trải nghiệm trong thực tiễn cách mạng và sự am hiểu các tôn giáo một
cách tường tận, để khái quát, chắt lọc những giá trị tinh tuý của nó nhằm tiếp
thu, kế thừa. Tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt về nhận thức, tư tưởng; tìm ra
và phát huy điểm tương đồng, mẫu số chung về mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp để
cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cao cả của dân tộc luôn được Hồ Chí Minh
chú ý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân tộc

một cách giản dị, dễ hiểu nhưng rất độc đáo và sâu sắc: kính Chúa gắn liền
với yêu nước, phụng sự Thiên chúa và phụng sự Tổ quốc, nước có vinh thì
đạo mới sáng, nước có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự do.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với người có tôn giáo thì đức
tin tôn giáo và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn. Một người dân Việt Nam
có thể vừa là một người dân yêu nước, đồng thời cũng vẫn là một tín đồ chân
chính.
Từ việc xác định tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài, là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới, năm 1990, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết
24/NQ-TW, về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, khẳng định
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: Tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những quan điểm này được tiếp tục thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (1991); Văn kiện Đại hội
VII, VIII, IX. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về công tác tôn
giáo cũng khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng khẳng định: Phát huy những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo,
chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp
tục nhất quán khẳng định: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc

và nhân dân. Đây chính là cơ sở quan trọng nhằm đoàn kết dân tộc, đoàn kết
tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta - giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ hai, tư tưởng tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
Đại đoàn kết dân tộc là nguyên tắc để thực hiện mục tiêu độc lập tự do,
chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nguyên tắc đó chỉ có thể
thực hiên được khi biết trân trọng phát huy những yếu tố tương đồng, thống
nhất để khắc chế, giải quyết những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn. Hồ Chí Minh
bao giờ cũng đi tìm mẫu số chung cho lợi ích toàn dân tộc.
Từ nguyên tắc cơ bản đó, kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay đều nhất quán Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo. Công dân theo tôn giáo hoặc không
theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân
và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ công dân.
Muốn đoàn kết những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau phải đặt
lợi ích dân tộc, lợi ích toàn dân lên trên hết. Muốn đoàn kết phải tôn trọng
quyền tư do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, muốn đoàn kết
lương giáo phải phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào
có đạo với bọn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Muốn đoàn kết phải chú ý kế thừa giá trị nhân bản và hướng thiện của
các tôn giáo, trân trọng, quan tâm tranh thủ giáo sĩ, giáo dân, độ lượng, vị tha
với những người lầm lỗi; phê phán và trừng trị bọn phản động lợi dụng tôn
giáo.
Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là một trong những quyền
chính đáng của con người. Hạn chế, vi phạm thô bạo đến quyền ấy là đi
ngược lại với xu thế của tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh luôn gương mẫu, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của đồng bào. Bác Hồ luôn giáo dục cán bộ tôn trọng và

làm tốt công tác vận động đối với đồng bào và các chức sắc các đạo khác
nhau. Trong các văn bản quan trọng cũng như sắc lệnh mà Người trực tiếp
biên soạn và công bố, Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu
dài của Đảng, Nhà nước ta trước sau như một là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng để nhân dân an tâm. Sự tôn trọng ấy không chỉ thể hiện trên văn bản,
lời nói mà cả trên hành động thực tiễn của Người.
CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG HIỆN
NAY.
2.1. Tình hình, đặc điểm tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay.
2.1.1. Tình hình tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay.
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ và
tác động chính trị - xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáoở huyện
Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nayđã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn thanh niên có đạo đã
tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều tín đồ và
giáo sĩ ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay đã nhận thức đúng chính
sách, luật pháp của Nhà nước, làm tốt cả “việc đạo” và “việc đời”.
Tình hình kinh tế, an ninh chính trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn
giáo huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay khá ổn định. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo còn
băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.Những năm gần đây, sinh hoạt
tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu
sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài liệu, đào tạo các chức sắc Số người tham
gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn
giáo nhiều, mang nhiều màu sắc khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng
mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một
số đông quần chúng nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay.Từ khi

đổi mới và dân chủ hoá tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện, đáp ứng
nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lênđiều không
bình thường vì trong đó không chỉ có sự sinh hoạt tôn
giáo thuần tuý, mà còn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho
mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
Trước tình hình tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay, với
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam, đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáođã phát huy truyền
thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo
với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an
ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi
mới quê hương, đất nước. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức
tôn giáo được in ấn kinh sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh
hoạt bình thường. Hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn giáo ngày
càng được mở rộng. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng cố; quan hệ
của tôn giáo với Nhà nước ngày càng được hoàn thiện.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những
năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin
tưởngtrước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn
giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia
phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời
sống văn hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Đặc điểm tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay
Từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá của huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông hiện nayđã tác động sâu sắc đến tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn
huyện, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện
naycó những đặc điểm sau:

Thứ nhất, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay là một huyện có
nhiều hình thức tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thắp hương mùng một, ngày
rằm, đi chùa ngày rằm,…những tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Thiên chúa
giáo, Tin lành,… đang tồn tại.
Do điều kiện địa lý của huyện thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều
luồng tư tưởng, văn hoá khu vực và thế giới.
Huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông có nhiều dân tộc cư trúở nhiều khu vực
khác nhau, với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau. Hơn nữa, bản tính người dân nơi đây luôn cởi mở, khoan
dung nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau. Từ những hình thức tôn giáotín ngưỡng sơ khai đến hiện đại,
từ tôn giáo phương Đông cổ đại đến phương Tây cận, hiện đại, tất cả đã và
đang cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ
tộc khác nhau.
Thứ hai, tính đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều đó được biểu hiện:
Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện diện của một số vị thần,
thánh, tiên, phật… của nhiều tôn giáo.
Đối với người dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay, rất khó xác
định tiêu chuẩn tôn giáo của họ. Người ta không chỉ thờ phụng ở đình, chùa,
miếu, ma còn khấn vái “tứ phương”, kể cả những gốc cây, mô đất, khúc sông.
Về phía giáo sĩ: ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay có nhiều tăng
ni, phật tử thông thạo giáo lý Phật giáo, đồng thời cũng triết thuyết Khổng
Mạnh và nghiên cứu cả đạo giáo.
Giáo lý cùa các tôn giáo lớn ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông có không ít
những điều khác biệt và trong lịch sử đã xuất hiện những mâu thuẫn nhất
định, nhưng nhìn chung, chưa có sự đối đầu dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
Tín ngưỡng tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông là hòa đồng, đan
xen, hỗ trợ lẫn nhau.Truyền thống “Tam giáo đồng nguyên”, “Ngũ chi hợp
nhất” được kết tinh trong đạo Cao đài. Những tôn giáo độc thần như : Công

giáo, Tin lành, Hồi giáo du nhập vào nước ta cũng như tôn giáo nội sinh như :
Cao Đài, Hòa Hảo ít nhiều đều có tính đan xen, hòa đồng dung hợp với nhau
với tín ngưỡng bản địa.
Thứ ba, yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưõng, tôn giáo ở huyện Cư Jút,
tỉnh Đắk Nông hiện nay.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò
quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ gánh vác công việc nặng nề thay
chồng nuôi con ở hậu phương mà còn xông pha trận mạc.
Ở nước ta, dù mẫu quyền được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, nhưng
tàn dư chế độ này còn kéo dài dai dẵng đến tận ngày nay. Hơn nữa, ở một xứ
sở thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, vốn coi trọng yếu tố âm-
đất-mẹ, người mẹ biểu tượng cho ước muốn phong đăng, phồn thực; hình
tượng của sự sinh sôi, nãy nở, sự trường tôn của giống nòi, sự bao dung của
lòng đất. Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm trong tín ngưỡng,
tôn giáo Việt Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ.
Thứ tư, thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước.
Người dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông vốn có tinh thần yêu nước,
trọng tình “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín
ngưỡng, tôn giáo ở huyệnCư Jút, tỉnh Đắk Nông cũng thấm đượm tinh thần
ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng đồng gắn bó với nhau là gia
đình, làng xóm và quốc gia.
Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu, song nhà nào cũng có
bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ-những người đã khuất.
Làng xóm có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ. Mỗ làg có phong tục, lối
sống riêng. Trong phạm vi làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa
phương và việc thờ cúng này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người.
Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người
Việt Nam tôn vinh, sùng kính.
Thứ năm, tín đồ các tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hầu hết là
nông dân lao động.

Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ
hầu hết là nông dân. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông hiểu giáo lý không sâu sắc nhưng lại chăm chỉ thực hiện những nghi lễ
tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưõng một cách nhiệt tâm.
Thứ sáu, Một số tôn giáo bị các thế lực thù địch phản động trong và
ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính trị.
Tôn giáo nào cũng có 2 mặt: nhận thức tư tưởng và chính trị. Chính vì
vậy, tuy mức độ có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử nào thì các giai cấp
thống trị, bóc lột vẫn chú ý sử dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
Các thế lực trong và ngoài nước đang âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân
quyền gắn với tôn giáo hòng xoá bỏ CNXH ở nước ta. Vì vậy, một mặt phải
đáp ứng đúng như cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân, mặt khác phải
luôn cảnh giác với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Thứ bảy, hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây có biểu hiện
mang tính chất thị trường.
Những năm qua, nhờ có công cuộc đổi mới mà đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông được nâng cao nhưng cũng
kéo theo nhưng hoạt động của các tôn giáo sôi nổi hơn trước, việc xây mới,
sửa chũa cơ sở thờ tự diễn ra khó kiểm soát. Hiện tượng “buôn thần, ban
thánh” có dấu hiệu bùng phát làm tiêu tốn tiền bạc, thời gian, sức khoẻ của
nhân dân.
Hiện nay đã xuất hiện một số chức sắc, tín đồ các tôn giáo có biểu hiện
suy thoái đạo đức, lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín-dị đoan, kiếm tiền
bất chính.
2.2.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông hiện nay
2.2.2.1. Quan điểm từ nguồn gốc, bản chất, vai trò và tính khách quan của
tôn giáo đối với đời sống xã hội nói chung và đối với công cuộc xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì

vậy, giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng,
tỉ mỉ và chuẩn xác; vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo,
linh hoạt, đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta là: không tuyên chiến với tôn giáo mà tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Quan điểm từ nguồn gốc, bản chất, vai trò và tính khách quan của tôn giáo đối
với đời sống xã hội nói chung và đối với công cuộc xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ của huyệnCư Jút, tỉnh Đắk Nông hiện nay được thể hiện ở
những điểm sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội
chủ nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan,
nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống
tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào hạn chế khả năng vươn lên
làm chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới; là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, cùng với quan điểm của Đảng,huyệnCư Jút, tỉnh Đắk Nông
xác địnhtín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Đó là một nhận định mang tính khoa học và mang tính cách mạng sâu
sắc, nó phản ảnh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại của tôn
giáo.Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa
là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín
ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần
phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo
đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi
xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân. Đó là sự thể hiện bản chất của nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của đảng cộng sản và nhà
nước của giai cấp vô sản đến nhu cầu tinh thần của quần chúng nhân dân đối
với tín ngưỡng tôn giáo.
Thứ ba, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người
không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính,
đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi
chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và trình
độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng, tôn giáo
sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Những người lao động quan tâm việc
xây dựng cuộc sống hạnh phúc thực sự ở thế gian - một thiên đường dưới trần
gian - có ý nghĩa thiết thực hơn những cuộc tranh luận suông về có hay không
có "cõi cực lạc", "thiên đường", v.v
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy
tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại
dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của
tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh, thậm chí đi đến
chống lại công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô
thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ
tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân.
Thứ tư, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng. Công tác vận động quần chúng có đạo cũng là công tác đối với
con người. Con người ở đây là con người-công dân-tín đồ. Công tác vận động
quần chúng có đạo phải làm sao cho giáo luật xích lại gần với pháp luật của
Nhà nước, đạo đức tôn giáo xích lại gần với đạo đức XH với tất cả những
chuẩn mực lành mạnh, tiến bộ của đạo đức XH.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạotại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải

tuân thủ hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà
đạo, hoạt động mê tín-dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
Thứ sáu, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc
phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự
nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử
phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong
lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác
kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới - giải quyết vấn đề này vừa phải
khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
Thứ bảy, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo, ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm thái độ của các giáo hội, giáo
sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy,
cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với
những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích
của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến
thành công cụ của giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời hành
đạo luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng cũng có những người đã
hợp tác với các thế lực phản động, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Có
những vị chân tu luôn "kính Chúa yêu nước", thiết tha sống "tốt đời, đẹp
đạo", nhưng lại có những người lầm đường lạc lối nghe theo kẻ địch phản bội
Tổ quốc và suy đến cùng cũng phản lại cả lợi ích của giáo hội. Điều khiến cho
nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn cần có thái độ, cách cư xử phù hợp với từng
trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I. Lênin đã nhắc nhở: "Người mácxít phải

biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể"
2.2.2.2. Một số nhiệm vụ của công tác tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông hiện nay
Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng, trong những năm tới, cần làm tốt những nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương
trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng, Nhà
nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho nhân
dân ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Thứ hai, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp
ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối với
công tác tôn giáo. Trên cơ sở triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về tôn giáo, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ
của công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tham mưu, từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách đối với công tác tôn giáo, tích cực tham gia xây dựng các văn bản
pháp luật về tôn giáo, đồng thời bổ sung kịp thời những chính sách đối với tôn
giáo ở những vùng, miền khác nhau. Trước mắt, làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo để thống nhất nhận thức về công tác
tôn giáo trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập
trung tuyên truyền sâu rộng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định của
Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo; Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ vè một số công tác đối với
đạo Tin lành; các địa phương đảm bảo tốt thông tin hai chiều, tập trung giải
quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc, nảy sinh trong công tác tôn giáo
như: đất đai, cơ sở thờ tự, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Thứ tư, thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, tạo
điều kiện giúp đỡ Đại hội, Hội nghị thường niên của các tổ chức tôn giáo,
xem xét cho đăng ký hoạt động một số tổ chức tôn giáo theo quy định của

pháp luật. Xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật và mọi hoạt động
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia; góp phần đảm bảo an ninh chính trị ở địa
phương.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện chủ trương, các kết
luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ đối với công tác tôn giáo hiện nay. Xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo.
Thứ sáu, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tuyên truyền sâu rộng các chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong chức sắc, tín đồ các
tôn giáo. Vận động chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo” thực hiện quyền
lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động đúng
pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức lành mạnh, hướng thiện của
các tôn giáo phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc.
Thứ bảy, công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo trong tình hình hiện nay, cần chủ động và tăng cường hơn nữa sự phối
hợp giữa các bộ, ban, ngành, các tỉnh, thành trong việc đối thoại và xử lý
những vấn đề tôn giáo nhạy cảm đang được các thế lực thù địch lợi dụng
chiến lược “diễn biến hòa bình” để xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, gây sức ép với
Nhà nước về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Tích cực triển khai công
tác đấu tranh ngăn chặn chống đối trong các tôn giáo. Thực hiện tốt công tác
tranh thủ, động viên và với những phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo
đi ngược lại tôn chỉ, mục đích và đường hướng hành đạo của các tổ chức tôn
giáo.
Thứ tám, tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo của huyện ,
chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm
công tác tôn giáo các cấp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Đồng thời
xây dựng chế độ phụ cấp ưu đãi cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
nhằm động viên kịp thời cán bộ toàn ngành quản lý nhà nước về tôn giáo.
2.2.2.3. Một số giải pháp chủ yếu về công tác tôn giáo ở huyện huyện Cư Jút,
tỉnh Đắk Nông hiện nay.
Thứ nhất, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách
nhiệm của bộ máy làm công tác tôn giáo của huyện, chính quyền, mặt trận tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân về vấn đề tôn giáo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương,
chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
của Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ
nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn
những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng
truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, thông qua đó tăng
cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những
người không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau; đồng thời, tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những
hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc,
dân tộc và nhân dân.
Thứ hai, tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực
lượng chính trị ở cơ sở.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức
công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của
đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc,
chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
Thứ ba, tăng cường quản lý về tôn giáo.
Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu qủa các dự án, chương trình
mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt
quan tâm các vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều
khó khăn.
Sớm ban hành Pháp lệnh về tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thực
hiện; chuẩn bị để tiến tới xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ
động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối xâm
phạm an ninh quốc gia.
Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các
hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục… của Nhà nước, theo nguyên tắc:
Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước, thừa nhận tham gia phù
hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp
luật.
Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với tư cách
công dân thì được khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn
giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo:
Đối với đất đai, thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với việc khiếu kiện liên quan đến nhà và cơ sở tôn giáo đã chuyển
giao cho chính quyền hoặc đoàn thể sử dụng: về nguyên tắc, xử lý theo quy
định của pháp luật hiện hành; riêng đối với những trường hợp nhà, đất do tôn
giáo đã hiến tặng có văn bản xác nhận thì không đặt vấn đề trả lại.
Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn

giáo phải được Nhà nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp
luật.
Thứ tư, tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo
Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của huyện,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình tổ chức quản lý về tôn giáo ở các cấp; xây
dựng quy chế phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác.
Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, Sử
dụng và bảo đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo.
Quan tâm thỏa đáng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác
tôn giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết phong tục tập quán, tiếng nói
của dân tộc nơi mình công tác.
KẾT LUẬN
Tôn giáo là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, đồng thời là một
hiện tượng xã hội, gắn liền với quá trình phát triển của xã hội loài người. Tôn
gió ra đời từ nguồn gốc về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, về nhận thức
tâm lý của con người trước tự nhiên và xã hội và bởi sự chi phối của hoàn
cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa của các quốc gia dân tộc.
Bản chất của tôn giáo là sự tôn sùng, là đức tin của nhân dân vào một
giáo lý nào đó. Bản thân tôn giáo có giá trị góp phần làm thỏa mãn nhu cầu
tinh thần để nhân dân lý giải những hiện tượng tự nhiên xã hội xung quanh
hoặc những rủi ro bất hạnh trong cuộc sống hàng ngày của họ
Tôn giáo, bên cạnh những giá trị và tác dụng đối với một bộ phận nhân
dân, còn góp phần vào việc giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa của các cộng
đồng dân tộc, góp phần vận động nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông là một huyện đa tôn giáo, các tôn giáo du
nhập và phát triển thông qua sự giao lưu và tiếp biến văn hóa. Tôn giáo ở

huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông vừa mang tính tự giác vừa mang tính áp đặt,
vừa có mặt tích cực nhưng lại có mặt tiêu cực trong bối cảnh lịch sử cụ thể
của dân tộc. Nhưng dòng chảy chính của tôn giáohuyện Cư Jút, tỉnh Đắk
Nông là đồng hành cùng dân tộc, số phận tôn giáo nằm trong số phận dân tộc.
Vì vậy, tôn giáo huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông hòa đồng không phân biệt,
cách biệt giữa những người có đạo và những người không có đạo. Người
không có đạo cũng tôn trọng và kế thừa các giá trị cao đẹp của các tôn giáo,
đồng thời đồng bào theo đạo cũng tích cực tham gia vào hoạt động của cộng
đồng với bổn phận công dân của mình.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ thực tiễn của
đất nước và các giá trị của tôn giáo. Đảng, Nhà nước ta nói chung và cơ quan
đoàn thểhuyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông nói riêng đã nhận thức và thừa nhận tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã và đang tồn tại lâu dài
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhà nước đã ban hành
pháp lệnh tôn giáo năm 2004 và nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh tôn
giáo năm 2005 để cụ thể hóa đường lối của Đảng, đó là pháp luật cao nhất về
chính sách tôn giáo của nhà nước ta.
Pháp lệnh tôn giáo ra đời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo pháp
luật của nhân dân, đưa công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đi vào nề nếp.
Góp phần cùng với các tầng lớp nhân dân trong các tôn giáo, đề cao cảnh
giác, làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
Tin tưởng rằng với những chính sách của huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
về tín ngưỡng và tôn giáo sẽ góp phần làm cho các tôn giáo trên địa bàn
huyện phát huy mặt tích cực, tiếp tục đồng hành cùng dân tộc trên con đường
xây dựng đất nước phồn vinh vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

×