Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.99 KB, 37 trang )

Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
CHƯƠNG II: VỊ TRÍ PHÁP LÝ, TƯ CÁCH PHÁP NHÂN, CHỨC NĂNG, NHIỆM
VỤ, QUYỀN HẠN CỦA NHNNVN 8
LỜI MỞ ĐẦU
rong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống ngân hàng
chiếm một vai trò quan trọng, quyết định và chi phối các lĩnh vực khác
của nền kinh tế. Sự hình thành của tiền tệ đã làm cho quá trình trao đổi
hàng hóa thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều giữa những người cùng khu vực
địa lý, cùng một quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau. Kèm theo đó là
sự xuất hiện của những thương gia chuyên kinh doanh những dịch vụ trung
gian, giữ tiền, cho vay,… Đó là những hình thức sơ khai của
ngân hàng hiện nay. Từ đây các quốc gia trên thế giới đã xây dựng, hình
thành nên hệ thống ngân hàng riêng cho quốc gia mình và phát triển đến ngày
nay.
T
Việt Nam cũng không ngoại lệ, sau khi miền Bắc giành được độc lập thì
nước ta đã manh nha hình thành nên ngân hàng riêng của Việt Nam. Đến năm
1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết
kịnh thành lập thông qua sắc lệnh 15/SL. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử, là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh
xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển
mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ đó đến nay,
gắn liền với sự phát triển của từng thời kỳ cách mạng, Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam (từ tháng 1/1960 đến nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã từng
bước lớn mạnh và phát triển, góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố,
hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng và hệ thống ngân hàng Việt Nam, phục vụ
tích cực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
Phần trình bày của nhóm trong bộ môn Luật Ngân hàng,chúng em bàn
về vấn đề: “Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định


của Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 2010”. Qua bài tiểu luận nhỏ này,
chúng em không có tham vọng đi đến tất cả các vấn đề liên quan đến tổ chức
bộ máy, hoạt động hay chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNNVN)theo quy định của pháp luật mà chỉ đề cập đến một vài khía cạnh
nổi bật. Trong tương lai, khi có đầy đủ kiến thức và thời gian, nhóm sẽ nghiên
cứu sâu hơn về đề tài này.
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
NHNNVN.
1. Mục đích ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước nửa thuộc
địa, nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Từ thời này hệ thống
tín dụng, tiền tệ ngân hàng cũng đã được thiết lập và hoạt động. tuy nhiên, hệ
thống ngân hàng này chủ yếu phục vụ cho chính sách thuộc địa của thực dân
Pháp ở VN. Trong suốt thời kì thuộc đị, sự hình thành và phát triển của hệ
thống tiền tệ, tín dụng đều do Chính phủ Pháp sắp đặt, bảo hộ thông qua Ngân
hàng Đông Dương.
Sau CMTT, một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của chính
quyền cách mạng là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ độc lâp, tự chủ, là
công cụ của chính quyền để quản lí tiền tệ, xây dựng, abor vệ đất nước. Chính
vì vậyngày 6 tháng 5 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 15/SL
thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lí
việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền twj, quản lý Kho Bạc nhà
nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu
dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia VN (sau này được biết đến dưới tên
Ngân hàng Nhà nước VN) là một bước ngoặc lịch sử, là kết quả nối tiếp của
quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh
dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở
nước ta. Nó thể hiện vai trò quản lý, lãnh đạo của nhà nước trong lĩnh vực ngân
hàng.

2. Tóm tắt quá trình phát triển:
2
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử
phát triển của từng thời kỳ cách mạng, qua trình đấu tranh giành độc lập và
công cuộc xây dựng Đất nước.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam là một nước nửa thuộc
địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín
dụng ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân
hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng
Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là
ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách
thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc xây dựng đất nước sau Cách mạng
Tháng 8 là từng bước xây dựng hệ thống tiền tệ và ngân hàng độc lập, tự chủ.
Bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp đã có những bước
tiến đáng kể, với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và
vùng giải phóng được mở rộng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng
đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu,
mục tiêu đề ra.
Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội
Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam -
Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực
hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện
chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý
tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình
đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước
phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại

Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc
gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam
được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp
1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam
giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và
các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn đã mở đầu cho
quá trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động
ngân hàng theo nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về mọi phương diện, Nhà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc
gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân
3
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN
bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi
nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm ngân hàng cơ sở tại
các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách
mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được
chia làm 4 thời kỳ như sau:
a. Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt
Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính,
thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát
hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho
bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
b. Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ,
miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải

phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu
cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản sau;
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn
vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy
mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và
giải phóng Miền Nam.
c. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau
chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống
ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân
hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở
miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam
cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống
NHNNVN, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát
hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở
cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân
hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa
thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay
4
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt
động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm
80, và kéo dài cho tới ngày nay.
d. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự
kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam thể hiện qua một số "cột mốc" có tính đột phá sau đây:
+ Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý
Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động

ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt
động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai
pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh NHNNVN và Pháp lệnh Ngân hàng,
hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt
động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ mô hình một cấp sang mô hình hoạt
động theo hai cấp. Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt
động của mỗi cấp ngân hàng được luật phân biệt rạch ròi:
+ Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt
động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi
nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát
hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước;
NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ
ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính
sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp hai.
+ Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do
các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá
trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời
hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp hai với các loại hình sở hữu khác
nhau. Gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên
doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác
xã tín dụng, Qũy TDND, công ty tài chính Trong thời gian này, bốn ngân
hàng thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng
Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
+ Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách
của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hệ thống ngân hàng
Việt Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng
trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước ở thiên
5

Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình
đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với
hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Đồng bằng Sông cửu long (Quyết
định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ
cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng -
Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào
và đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ
sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách
với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật
NHNNVN.
Năm 2008: Thực hiện cam kết khi gia nhập tổ chức Thương mại Thế
giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức cấp phép thành lập 05
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, bao gồm: Ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân
hàng Hong Leong Việt Nam, Ngân hàng Stardard Chartered Việt Nam, Ngân
hàng HSBC Việt Nam, Ngân hàng Shinhan Việt Nam.
3. Văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng nhà nước
Việt Nam
 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 06/1997/QHX ngày 12/12/1997.

 Luật số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
 Luật các t ổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ng ày 12/12/1997.
 Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về sửa đổi, bổ sung, một số điều
của Luật Các tổ chức tín dụng.
6
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
 Luật các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11
năm 2005.
 Pháp lệnh Ngoại hối của UBTVQH số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày
13/12/2005.
 Nghị định 49/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng
thương mại.
 Nghị định của Chính phủ số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
 Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
02/5/2001của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính.
 Nghị định của Chính phủ số 79/2002/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm
2002 về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính.
 Nghị định của chính phủ số 48/2001/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2001
về tổ chức và hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân.
 Nghị định của Chính phủ số 69/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2005
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13
tháng 8 năm 2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của quỹ tín dụng
nhân dân.
 Nghị định 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn
nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.

 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm.
 Nghị định của Chính phủ số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
 Nghị định số 161/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 do Chính phủ ban hành
quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền mặt.
 Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng.
 Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN sửa đổi Quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
 Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC của
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục Địa
7
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
chính về việc hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho
các tổ chức tín dụng.
 Quyết định 30/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc ban
hành Quy chế cung ứng và sử dụng séc.
 Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh
toán thẻ Ngân hàng.
CHƯƠNG II: VỊ TRÍ PHÁP LÝ, TƯ CÁCH PHÁP NHÂN, CHỨC
NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA NHNNVN.
1) Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Như đã đề cập ở phần trên về quá trình hình thành Ngân hàng nhà nước
Việt Nam (Ngân hàng Trung Ương). Tuy nhiên, không phải NHNN ở bất kì

quốc gia nào trên thế giới đều có mô hình hoạt động, tổ chức cũng như địa vị
pháp lí như nhau trong Bộ máy Nhà nước. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào
nguồn gốc hình thành, chế độ chính trị mà ngân hàng trung ương được tổ chức
và hoạt động theo những mô hình riêng biệt. Nếu căn cứ vào tính độc lập với
Bộ máy nhà nước thì chúng ta có thể chia làm hai loại:
 Ngân hàng Trung Ương độc lập với chính phủ: là Ngân hàng Trung
Ương không nằm trong cơ cấu bộ máy nhà nước, không chịu sự lãnh đạo, điều
hành của chính phủ. Ở đây Ngân hàng tồn tại dưới hình thức cổ phần, nhiều cá
nhân hay tổ chức là cổ đông của nó. Mô hình này được áp dụng nhiều ở các
quốc gia như Hoa Kỳ, Hungari, nhiều nước ở châu Âu,…
 Ngân hàng Trung Ương thuộc chính phủ: là Ngân hàng Trung Ương
nằm trong cơ cấu bộ máy chính phủ, chịu sự lãnh đạo, điều hành của chính
phủ. Mô hình ngân hàng này đã và đang được áp dụng ở các quốc gia như
Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam,…
Hiện nay, vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã
được quy định rõ trong Luật NHNN 2010, tại khoản 2 điều 2 có nêu rõ “Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan
ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.” Như vậy, luật đã xác định cụ thể vị trí pháp lý của
8
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
NHNNVN là một trong 4 cơ quan ngang Bộ, trực thuộc chính phủ và chịu sự
quản lí của chính phủ. Tuy nhiên, khi mới thành lập cho đến thời điểm trước
khi luật NHNN 2010 ra đời, vị trí pháp lý của nó không được xác định rõ là
một “cơ quan ngang Bộ”, mà chỉ được hiểu ngầm theo ý của nhà làm luật.
Tháng 9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời nhưng mãi đến
năm 1951 thì Ngân hàng đầu tiên của nước ta mới được thành lập theo sắc lệnh
15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc lệnh này không trực tiếp quy định vị trí
pháp lý của Ngân hàng quốc gia nhưng có đề cập đến việc Tổng giám đốc là
người lãnh đạo ngân hàng quốc gia có danh vị ngang với Bộ trưởng, qua đó ta

có thể hiểu Ngân hàng quốc gia được xem như là một cơ quan ngang với Bộ.
lúc này, sắc lệnh 16/SL bổ nhiệm ông Nguyễn Lương Bằng và ông Lê Viết
Lượng làm Tổng giám đốc và phó tổng giám đốc ngân hàng quốc gia Việt
Nam.
Những quy định về vị trí pháp lí của Ngân hàng quốc gia Việt Nam (nay
là ngân hàng nhà nước Việt Nam) trong sắc lệnh 15 là không cụ thể, rõ ràng.
Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, vị trí pháp lí
của ngân hàng nhà nước ngày càng được xác định cụ thể. Trải qua một thời
gian hoạt động, ngân hàng quốc gia Việt Nam đã có những vai trò nhất định
trong việc quản lí tiền tệ, việc cân đối thu chi trong hoàn cảnh đất nước còn
gặp nhiều khó khăn. Nhằm đấp ứng việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), ngày 26/10/1961 Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định
171/CP quy định về tổ chức và hoạt động ngân hàng, đổi tên ngân hàng quốc
gia thành ngân hàng nhà nước Việt Nam. So với sắc lệnh 15 thì ở Nghị định
này vị trí pháp lí của NHNNVN được quy đinh rõ ràng hơn. “Ngân hàng Nhà
nước là cơ quan của Hội đồng chính phủ.” Lúc này, vị trí pháp lí của NHNN đã
được xác định là thuộc chính phủ, chịu sự quản lí của chính phủ. Hơn nữa,
Nghị định này cũng quy định chức năng, nhiệm vụ của NHNN là quản lí các xí
nghiệp quốc doanh, phục vụ cho hoạt động của mậu dịch quốc doanh. Như
vậy, nó có thẩm quyền quản lí nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức kinh
tế, các xí nghiệp.
Tiếp theo đó, Nghị định số 63/NĐ-CP ngày 16/6/1977 đã quy định cơ
cấu tổ chức và bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. NHNNVN lúc này
được quy định là cơ quan ngang bộ thuộc Hội đồng chính phủ. Nó có trách
nhiệm thống nhất quản lí công tác phát hành tiền, quản lí tiền mặt và điều hòa
lưu thông tiền tệ, quản lí tín dụng, thanh toán trong ngoài nước, quản lý ngoại
hố, quỹ Ngân sách Nhà nước. Thời kì này, NHNNVN với vị trí pháp lí vừa là
9
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
cơ quan của Chính phủ, vừa có tư cách Ngân hàng Trung Ương vừa là Ngân

hàng trung gian.
Ngày 09/10/1987 Chính phủ ra quyết định số 172 quy định chức năng
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, NHNNVN là cơ quan
trong bộ máy quản lí Nhà nước, là một tổ chức hạch toán kinh tế chuyên
ngành, thực hiện hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, là hệ
thống Ngân hàng cấp một.
Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước VN và chuyển sang hệ
thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng
quản lí Nhà nước về tiền tệ và đóng vai trò Ngân hàng của các Ngân hàng.
Ngày 23/5/1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân
hàng, Hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính được ban hành. Trong đó xác định
rõ Ngân hàng Nhà nước VN là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng và là cơ quan
duy nhất phát hành tiền. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lí Nhà
nước và là Ngân hàng trung ương của các Ngân hàng.
Ngày 12/12/1997 luật Ngân hàng Nhà nước và luật các Tổ chức tín dụng
ra đời. Khẳng định địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “là cơ
quan của chính phủ và là Ngân hàng trung ương của nước cộng hòa XHCN
Việt Nam” (khoản 1, điều 1 luật NHNNVN 1997, sửa đổi bổ sung 2003). Tuy
nhiên, mới đây quốc hội đẫ ban hành luật NHNN 2010 nhằm sửa đổi và bổ
sung một số điều của luật NHNNVN 2003. Theo đó, tại khoản 1 điều 2, luật
NHNNVN 2010 quy định “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là
Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung
ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy nếu như ở luật
NHNNVN 2003 chỉ quy định NHNN là “cơ quan của chính phủ”, nằm trong
chính phủ, chịu sự quản lí của chính phủ nhưng lại không xác định rõ vị trí
pháp lí của nó. Nó có thể được hiểu là một cơ quan trực thuộc một Bộ nào đó,
dưới quyền của Bộ đó (Ví dụ Bộ tài chính chẳng hạn). Do đó quyền hạn, chức
năng của NHNN vì thế cũng bị hạn chế. Chính vì vậy mà mới đây, quốc hội đã
thông qua dự thảo sửa đổi luật NHNNVN 2003, ban hành Luật NHNN 2010

(có hiệu lực từ 1/1/2011).Về địa vị pháp lý của NHNNVN vẫn giữ nguyên như
thể hiện trong Luật NHNNVN 1997 (sửa đổi bổ sung 2003), tức là nó vẫn là cơ
quan thuộc chính phủ, để phù hợp với thể chế chính trị và hiến pháp 1992 của
nước cộng hòa XHCNVN. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật NHNN 2010 đã
thể hiện rõ hơn vị trí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang bộ của Chính
phủ. Đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm cụ của Ngân hàng Nhà nước với
10
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
tư cách là Ngân hàng trung ương của nước cộng hòa XHCNVN, thực hiện các
chức năng quản lí Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng (điều
2, luật NHNNVN 2010). Qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
chức năng quan trọng của một Ngân hàng Trung ương: Thực thi chính sách
tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. (điều
3, luật NHNNVN 2010). Việc thay đổi trên nhằm xây dựng Ngân hàng Nhà
nước trở thành Ngân hàng trung ương hiện đại, có tính tự chủ và tính độc lập
cao. Đây là định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu hội
nhập và phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, đây
là một việc lớn cần có bước đi thích hợp và đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn
bị các điều kiện cần thiết cho hoạt động của một ngân hàng trung ương hiện
đại.Việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế của thế giới đòi hỏi Việt Nam
phải tận dụng mọi nguồn lực, đồng thời cần nâng cao năng lực quản lí của các
cơ quan Nhà nước nới chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng. Cần tăng
cường tính chủ động và trách nhiệm của NHNN trong việc hoạch định và thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia vừa bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia, vừa đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống chính sách kinh
tế, tài chính cảu quốc gia. Không thể quá phụ thuộc vào quốc hội hay chính
phủ. Vì vậy, quy định vị trí pháp lí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang
Bộ thuộc Chính phủ thực hiện chức năng ngân hàng trung ương là phù hợp với
thể chế chính trị, kinh tế-xã hội của Việt Nam hiện nay và mức độ hội nhập của
nền kinh tế cũng như nguồn nhân lực của NHNN.

2) Tư cách pháp nhân:
Để xác định tư cách pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chứng ta căn cứ trên 4 đặc trưng chung theo quy định tại điều 94 Bộ luật dân
sự 2005, nếu không đảm bảo 4 đặc trưng đó thì xem như không có tư cách
pháp nhân.
• Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước do Nhà nước thành lập theo sắc lệnh
15/SL. Như vậy xét về đặc trưng này thì Ngân hàng Nhà nước VN được thành
lập hợp pháp.
• Thứ hai, NHNN có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Từ khi thành lập đến nay, cơ
cấu tổ chức của NHNN có sự thay đổi qua các thời kì:
 Giai đoạn từ 1951-1987: hệ thống ngân hàng được tổ chức theo
mô hình một cấp. Theo đó, NHNN là hệ thống tổ chức thống nhất, toàn ngành,
là một pháp nhân duy nhất.
 Giai đoạn thí điểm cải cách hệ thống ngân hàng (1987-1990): Nhà
nước cải cách hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng
hai cấp.
11
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
 Giai đoạn sau 1990: Hệ thống ngân hàng hai cấp, NH được tổ
chức thành hệ thống tập trung, thống nhất có cơ cấu chặt chẽ.
• Thứ ba, NHNN có vốn pháp định thuộc sở hưu nhà nước, được nhà nước
giao vốn, tài sản để hoạt động. Theo quy định tại điều 42 Luật NHNNVN 2010
quy định “Vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước do ngân sách nhà nước
cấp. Mức vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ
quyết định.” Ngoài vốn pháp định, NHNN còn được giao các loại tài sản khác
và được lập quỹ từ chênh lệch thu chi nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia.
• Thứ tư, NHNN nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật.
ÄChính vì hội tụ đầy đủ 4 đặc trưng được quy đinh tại điể 94 Bộ luật dân sự

nên ta có thể khẳng định: NHNNVN có tư cách pháp nhân.
3) Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Theo khoản 2 điều 1 Luật NHNN 2003:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín
dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.”
Theo khoản 3 điều 2 Luật NHNN 2010:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt
động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện
chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.”
Nhìn chung các qui định của luật NHNNVN 2003 và luật NHNNVN 2010
đều đã xác định rõ các chức năng của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân
hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như
thực hiện các chức năng về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt
động ngân hàng. Qua đó khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng
quan trọng của một Ngân hàng Trung ương. Cụ thể là:
Chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế:
 Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tê – xã hội
của nhà nước: Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ khác cùng với
NHNN trình CP dự án kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cả nước.
 Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ.
12
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
 Xây dựng các dự án luật, pháp luật và các dự án khá về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng.
 Cấp thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng
trừ trường hợp do Thủ tướng chính phủ quyết quyết định; cấp, thu hồi giấy

phép hoạt động ngân hàng của tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận,
chia, tách, hợp nhất của các tổ chức tín dụng.
 Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng xử lý các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
 Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định
của Chính phủ.
 Ngân hàng nhà nước về thanh toán quốc tế, hoạt động đối ngoại…
Chức năng ngân hàng trung ương:
 Phát hành tiền và cung cấp vốn cho nền kinh tế, cho các tổ chức tín dụng
 Hỗ trợ thông tin về hoạt động ngân hàng để đảm bảo an toàn cho hệ
thống.NHNN thường xuyên có những thông tin về hoạt động để phát hiện kịp
thời và đưa ra những chính sách phù hợp
 Thực hiện điều chuyển tiền trong tài khoản của các tổ chức tín dụng để
điều hòa lưu thông tiền tệ
Tuy nhiên các chức năng nhiệm vụ của ngân hàng NN hiện nay được qui
định theo hướng quá coi trọng chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng trong
khi đó chức năng ngân hàng trung ương không được quan tâm thỏa đáng. Ví dụ
như: tại khoản 2 điều 10 Luật NHNN 2003 quy định: “Tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của bộ máy điều hành của ngân hàng nhà nước do chính phủ quy
định.” Tại khoản 1 điều 11 Luật NHNN 2003 quy định: “Thống đốc ngân hàng
Nhà nước là thành viên chính phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành
ngân hàng nhà nước.”
Trên thế giới, pháp luật về ngân hàng trung ương của các nước rất ít khi đề
cập đến chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng của cơ quan phát hành tiền
quốc gia mà chủ yếu đề cập đến hoạt động này dưới danh nghĩa là chức năng
giám sát về kiểm soát an toàn của hệ thống ngân hàng.Vì vậy chúng em cho
rằng chức năng NHTW cần được quan tâm và chú trọng hơn nữa trên cơ sở
phân tích nêu trên.
4) Nhiệm vụ và quyền hạn:
13

Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
a. Thứ nhất theo điểm c khoản 2 điều 5 Luật NHNN 2003 và khoản 1 điều
4 luật NHNN 2010 thì NHNN có nhiệm vụ đầu tiên là Điều hành chính sách
tiền tệ được thể hiện trên 3 khía cạnh sau:
 Ổn định giá trị đồng tiền:
Được biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát được thể hiện thông qua chỉ số
giá tiêu dùng và các công cụ, biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra
 Bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ
chức tín dụng
Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn
định xã hội, phát triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài
chính, tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử
dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn
đến đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra sự mất lòng tin trong nhân dân và đe dọa sự
ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả nền kinh tế. Do vậy,
Luật NHNN 2003 và đặc biệt là luật NHNN 2010 đã có nhiều quy định để
nâng cao nhiệm vụ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về các yêu cầu bảo
đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng
Như vậy so với các qui định trong luật NHNN 2003 thì luật NHNN 2010
đã xác định rõ được thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát
an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và
thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng
thuộc Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ
thống tổ chức tín dụng.
 Bảo đảm sự an toàn của hệ thống thanh toán
b. Thứ hai, theo điểm a khoản 1 điều 5 luật NHNN 2003 và theo khoản 2
điều 4 Luật NHNN 2010 đều qui định NHNN có nhiệm vụ tham gia xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội và của ngành ngân hàng
c. Thứ ba theo điểm c khoản 1 điều 5 Luật NHNN 2003 và theo khoản 4
điều 4 Luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm vụ ban hành hoặc trình cơ

quan có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật
d. Thứ tư theo khoản 5 điều 4 luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm
vụ xây dưng chỉ tiêu lạm phát hằng năm trình Chính phủ và để Chính phủ
trình quốc hội. Như vậy, Quốc hội sẽ quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm và
giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Đây là qui định
khá cụ thể so với điểm b khoản 1 điều 5 Luật NHNN 2003 qui định NHNN có
nhiệm vụ “Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét
14
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến
lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam”
e. Thứ năm theo điểm a khoản 2 điều 5 Luật NHNN 2003 và theo khoản 7,
8 điều 4 Luật NHNN 2010 thì NHNN sẽ tổ chức và điều hành phát triển tiền tệ,
thực hiện công tác thống kê , dự báo, in đúc bảo quản vận chuyển tiền; phát
hành , thu hồi, thay thế tiêu hủy tiền
f. Thứ sáu theo khoản 9 điều 4 Luật NHNN 2010 đã qui định cụ thể hơn về
việc Cấp sửa đổi bổ sung giấy phép hoạt động của các tổ chức tín dụng so với
Luật NHNN 2003 ( theo điểm d khoản 1 điều 5).Cụ thể là :
“Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức
tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành
lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài
khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi
giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp
thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng
theo quy định của pháp luật”
g. Thứ bảy theo khoản 10 điều 4 Luật NHNN 2010 qui định NHNN thực
hiện đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các tổ chức tín dụng. Đây là qui định
mới so với luật NHNN 2003
h. Thứ tám điểm đ khoản 2 điều 5 luật NHNN 2003 và khoản 17 điều 4

luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra và xử phạt
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, thực hiện quản lí nhà nước về
ngoại hối, quản lý việc cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.
Chính sách ngoại hối là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ, vì
vậy NHNN được giao nhiệm vụ quản lý ngoại hối và việc tổ chức kiểm tra
thực hiện. NHNN ban hành các văn bản hướng dẫn về quản lý ngoại hối, tổ
chức thực hiện và kiểm tra. NHNN có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối
trong nước qua các nghiệp vụ mua bán, kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỉ
gía hối đoái của đồng Việt Nam.
Tuy nhiên so với luật NHNN 2003 thì Luật NHNN 2010 có qui định mới về
nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối ( theo khoản 18 điều 4 ). Chúng ta biết rằng
việc sử dụng dự trữ ngoại hối vào mục đích chi tiêu thuộc phạm vi ngân sách
cần thiết phải do Quốc hội quyết định, để bảo đảm đúng chức năng, nguyên tắc
quản lý ngân sách nhà nước của Quốc hội. Tuy nhiên, do điều kiện hiện nay
Quốc hội chưa họp được thường xuyên, chỉ họp hai kỳ trong một năm, đề nghị
Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định vấn đề này để
15
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
xử lý một cách kịp thời các yêu cầu sử dụng Dự trữ ngoại hối nhà nước cho các
nhu cầu đột xuất, cấp bách. Kể từ khi hình thành vào năm 1991 đến nay, dự trữ
ngoại hối nhà nước của Việt Nam được Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước
quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm nguồn lực để thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tỷ giá, đảm bảo khả năng thanh toán
quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của Nhà nước.
Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản có trong Bảng cân đối của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền
trong lưu thông. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được sử dụng cho nhiều mục
đích khác nhau, trong đó chủ yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn
định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín
dụng. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được quản lý dưới nhiều hình thức như

tiền gửi, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ các nước G7…để đáp ứng nhu cầu
thanh toán bằng ngoại tệ của nền kinh tế, vừa để sinh lời, đảm bảo giá trị của
Quỹ.
Việc quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý quỹ Dự trữ ngoại hối
Nhà nước theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về
quản lý ngoại hối. Trong trường hợp việc sử dụng Dự trữ ngoại hối làm thay
đổi dự toán Ngân sách nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân
sách.
i. Thứ chín Quản lí hệ thống thông tin tín dụng và nhiều nhiệm vụ quyền
hạn khác theo qui định
j. Ngoài ra so với luật NHNN 2003 thì luật NHNN 2010 có những qui định
mới như sau:
Theo khoản 12 điều 4 luật NHNN 2010 có qui định “ Quyết định áp dụng
biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các
quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có
nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ
chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý,
người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể
tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối
với tổ chức tín dụng”
Hoặc khoản 13 qui định NHNN có nhiệm vụ “Chủ trì, phối hợp với các
cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện phòng,
chống rửa tiền”
16
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
Hoặc khoản 14 qui định NHNN “Thực hiện quản lý nhà nước về bảo
hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”
Hoặc khoản 25 qui định NHNN có nhiệm vụ “Tham gia với Bộ Tài chính
về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh”

5) Nhận xét chung :
Các qui định trong Luật NHNN 2003 về nội dung của các điều luật còn khá
khái quát, không bảo đảm yêu cầu đặt ra cho việc áp dụng. Vì vậy để phân định
rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN thì chúng ta có thể tách Điều 5 ra
thành 2 phần: một phần quy định về nhiệm vụ; một phần nói về quyền hạn.
Việc tách biệt 2 nội dung nhiệm vụ và quyền hạn không chỉ có ý nghĩa làm rõ
nhưng việc NHNN phải làm mà quan trọng hơn là khẳng định NHNN có
những quyền hạn gì một cách rõ ràng nhất.Việc bố trí các khoản trong Điều 5
cần bố trí theo hướng quy định từ nhiệm vụ, quyền hạn cao nhất.
Mặt khác việc qui định chung chung như Luật NHNN 2010 cũng sẽ không
phân định được một cách rõ tràng về nhiệm vụ quyền hạn của NHNN tương
ứng với từng chức năng cụ thể.
Ngoài ra chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng quy định rõ
hơn nữa trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc
hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung quan trọng trong hoạt động của
Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định
trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công
chúng, thị trường.
17
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN

1. Hoạt động của NHNN :
a. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính
phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt -
như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái hay tăng trưởng kinh
tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất
định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui
định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.

Theo điều 15 LNHNNVN 2010, Ngân hàng nhà nước Việt Nam có trách
nhiệm:
- Chủ trì xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng
lượng tiền bổ sung cho lưu thông hằng năm trình Chính Phủ.
- Điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ.
Các công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
• Công cụ tái cấp vốn (điều 17 LNHNNVN ):
Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Được ngân hàng sử dụng dưới hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết
18
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
khấu, tái chiết khấu theo phương thức thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn
khác
• Công cụ lãi suất (điều 18 LNHNNVN):
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì
sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều
hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp
cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ,
tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Lãi suất cơ bả : lãi suất căn cứ vào đó
ngân hàng thực hiện cho vay nằm trong biên độ +- 5% để điều hành chính sách
tiền tệ chống nạn cho vay nặng lãi
• Tỷ giá hối đoái (điều 19 LNHNNVN):
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất
nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế,
thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.
Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá
không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc
biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ
quan trọng cho chính sách tiền tệ. Căn cứ vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường
và nhu cầu điều tiết của nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng
Việt Nam.
• Dự trữ bắt buộc (điều 20 LNHNNVN):
Áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Để duy trì hoạt động kinh doanh và
hạn chế rủi ro thì các tổ chức tín dụng phải thành lập quỹ dự phòng. Để đáp
ứng nhu cầu chi trả thanh toán đột xuất và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
tín dụng, tổ chức tín dụng phải gửi tại ngân hàng nhà nước một số tiền gửi
theo mức từ 0 – 20 % tổng số dư tiền gửi ở tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với từng loại tiền gửi và tổ chức tín dụng khác nhau phụ thuộc vào
mức độ rủi ro.
• Nghiệp vụ thị trường mở (điều 21 LNHNNVN):
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên
thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối
lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung
ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối
19
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
lượng tiền tệ. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn: tín phiếu
kho bạc , chứng chỉ tiền gửi…
b. Phát hành tiền : (điều 23 LNHNNVN):
Phát hành tiền là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán.
Chỉ có NHNN là cơ quan duy nhất mới có quyền phát hành tiền bao gồm tiền
giấy và tiền kim loại. Mọi hành vi từ chối nhận, lưu hành đồng tiền do NHNN

phát hành đều bị coi là bất hợp pháp
c. Hoạt động tín dụng :
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước khác biệt về bản chất so
với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Bởi vì hoạt động tín dụng của
ngân hàng nhà nước nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo
đảm an toàn cho hệ thống tín dụng. Thông qua các hình thức: bảo lãnh; cho
vay; tạm ứng cho ngân sách nhà nước; góp vốn, mua cổ phần.
• Cho vay (điều 30 LNHNNVN):
Là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà
nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn. Hoạt động cho vay
này thể hiện vai trò của ngân hàng nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng.
Trường hợp đặc biệt, NHNN cho vay đối với tổ chức tín dụng tạm thời mất khả
năng chi trả, nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD khi được Thủ
Tướng Chính Phủ đồng ý.
• Bảo lãnh (điều 31 LNHNNVN):
Được xem là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước nhưng
chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo chỉ định của Thủ
tướng Chính Phủ. Không bảo lãnh cho tổ chức cá nhân vay vốn.
• Tạm ứng cho ngân sách nhà nước ( điều 32 LNHNNVN):
Là hình thức hoạt động tín dụng của NHNN để xử lý thiếu hụt tạm thời
quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc ngân
hàng nhà nước cho ngân sách nhà nước cho vay hoặc tạm ứng cho ngân sách
nhà nước tức là cung ứng thêm tiền cho lưu thông sẽ gây ra lạm phát và ảnh
hưởng tới chính sách tiền tệ.
Nước ta trong tình hình nền kinh tế chuyển đổi nên nguồn chi rất lớn mà
nguồn thu lại có hạn nên ngân sách nhà nước thường gặp tình trạng thiếu hụt
tạm thời, nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước sẽ rất khó khăn. Vì vậy cần
phải có quy định tạm ứng cho ngân sách nhà nước và khoản tạm ứng này phải
được hoàn trả trong năm ngân sách trừ trường hợp đặc biệt do Thủ Tướng
Chính Phủ quyết định.

• Góp vốn, mua cổ phần (điều 33 LNHNNVN):
NHNN không được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng và doanh
nghiệp khác.
20
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
2. Đối với việc hoạch định và thực thi Chính sách tiền tệ:
Luật quy định rõ khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở xây
dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với chính
sách tiền tệ. Theo đó, chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở
tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục
tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử
dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật cụ thể hóa được
vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ.
Cụ thể là: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông
qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp
và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế
nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ
và ngân hàng; Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng
năm; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các
công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc
gia theo quy định của Chính phủ.
Thẩm quyền cụ thể của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ:
Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất,
tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
Về công cụ lãi suất, Luật đã quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ
và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều

hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật
liên quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước… Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội
hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để các
TCTD ấn định lãi suất kinh doanh mà làm cơ sở cho việc phòng, chống cho
vay nặng lãi trong nền kinh tế. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến
bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ
giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
Theo quy định của Luật này, NHNN quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều
hành tỷ giá. Thẩm quyền của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn
định giá trị đồng tiền đã được nâng cao hơn.
Bên cạnh đó, NHNN tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân
hàng; công khai thông tin về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo qui định
của pháp luật; chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán
cân thanh toán quốc tế; NHNN tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành
21
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
trái phiếu chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh; Thống đốc NHNN có
quyền thành lập các ban, hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của NHNN; Hoạt động của NHNN được qui định rộng hơn
trong trường hợp cho vay đặc biệt đảm bảo có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế
rủi ro cho hệ thống ngân hàng…
3. Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối :
Nhiệm vụ quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối của NHNN đã qui định
tại khoản 17 Điều 4 và mục 5 trong phần các hoạt động của NHNN trong
LNHNN 2010, chính điều này càng thể hiện chức năng của NHNN trong việc
vai trò quản lý của nhà nước thông qua các nghiệp vụ ngân hàng trung ương.
Như chúng ta đã biết quản lý ngoại hối là hoạt động rất nhạy cảm đối với
hoạt động của nền kinh tế, với chức năng kiểm soát lượng tiền lưu thông trong
xã hội cùng việc bảo đảm cán cân thương mại. NHNN cần kiểm soát chặt chẽ

ngoại hối và hoạt động ngoại hối nhằm có sự điều chỉnh phù hợp khi có sự biến
động trên thị trường ngoại hối.Với chức năng quản lý nhà nước của cơ quan
nhà nước, NHNN có những thầm quyền nhất định đề thực hiện nhiệm vụ của
mình như tồ chức và phát triền thị trường ngoại tệ nhằm mở rộng thị trường
trao đổi ngoại tệ thích hợp xu hướng mở cửa hội nhập của nước ta. Bên cạnh
đó để đảm bảo cho an ninh tài chinh, tiền tệ Quốc gia, NHNN luôn phải theo
sát tình hình hoạt động để có thể trình Chính Phủ quyết định biện pháp hạn chế
giao dịch ngoại hối. Nhằm tạo sự vận hành thuận lợi cho hệ thống các tổ chức
tín dụng và các tổ chức khác thực hiện hoạt động ngoại hối, NHNN chịu trách
nhiệm trong việc cấp phát, thu hồi giấy phép hoạt động của các tổ chức này.
Nhiệm vụ này bắt buộc NHNN phải có những hoạt động thanh tra, giám sát
nhằm có những biện pháp khắc phục kịp thời cũng như ngăn chặn được những
khó khăn xảy ra đối với các tổ chức trên. Ngoài ra, NHNN thực hiện quản lý
dự trữ ngoại hối Quốc Gia, so với Luật NHNN năm 2003, luật năm 2010 mở
rộng thêm về dự trữ ngoại hối Quốc Gia bao gồm thêm quyền rút vốn đặc biệt,
dự trữ tại Qũy tiền tệ quốc tế. Với chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả
năng thanh toán quốc tế và bảo toàn dự trữ ngoại hối quốc gia phòng trừ khi
xảy ra những nhà nước có những nhu cầu cấp bách. Trước đây, NHNN phải
báo cáo tình hình hoạt động trước Thủ tướng Chính phủ và UBTVQH nhưng
hiện nay chỉ phài báo cáo trước Thủ tướng Chính phủ. Qui định có thấy sự
thống nhất trong cơ cấu quản lý, tạo thuân lợi trong việc quy trách nhiệm nếu
có sai sót trong quá trình quản lý của NHNN vì thực tế NHNN là cơ quan
ngang bộ của Chính Phủ theo Điều 2 LNHNN 2010.Bộ tài chính là cơ quan
thực hiện việc kiểm tra quản lý dự trự ngoại hối nhà nước do NHNN thực
hiện theo qui định của pháp luật tạo thuận lợi trong quá trình kiểm tra Bộ tài
chính có thể đóng góp ý kiến để NHNN hoàn thành nhiệm vụ được giao.
22
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
Song song với chức năng quản lý, NHNN còn tham gia vào việc mua bán
ngoại hối ở thị trường trong và ngoài nước thông qua các nghiệp vụ của ngân

hàng Trung ương theo qui định của Thủ tướng Chinh phủ. Với mục tiêu bảo
đảm cho chính sách tiền tệ quốc gia vận hành hiệu quả, một trong những nhiệm
vụ chính của NHNN.
4. Hoạt động thông tin báo cáo:
Những qui đinh về các hoạt động thông tin báo cáo được thể hiện tại mục 6
phần các hoạt động của NHNN theo LNHNN năm 2010, gồm 7 điều từ điều 33
đến điều 41. Với nội dung thể hiện trong các điều luật thì trách nhiệm cung cấp
các thông tin, dữ liệu thuộc về các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín dụng,
những chủ thể thực hiện các chính sách tiền tệ do NHNN điều hành. Là các đối
tượng trực tiếp chịu sự thanh tra, kiểm tra, đánh giá của NHNN nên trách
nhiệm báo cáo kịp thời, chính xác, nhanh chóng và trung thực các thông tin
quan trọng cho NHNN phục vụ cho công tác thống kê, phân tích, dự báo giúp
bảo đảm cho chính sách tiển tệ quốc gia và công tác quản lý ngoại hối phù
hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ. Với sự biến động liên tục
nên những thông tin được cung cấp tạo thuận lợi cho hoạt động dự báo tình
hình thay đối trên thị trường tiển tệ, kiểm soát được lượng tiền ngoại tệ và nội
tệ lưu thông trong nền kinh tế. Bảo đảm cán cân thanh toán và yêu cầu xây
dưng Bảng cân đổi tiền tệ. Bên canh trách nhiệm của các tổ chức tín dụng thì
NHNN cũng thực hiện các nhiệm vụ của mình về hoạt động thông tin. Với
chức năng quản lý của mình NHNN là tổ chức thu nhận thông tin từ phía các tổ
chức tín dụng và các tổ chức liên quan và sử dụng các nguồn này vào công tác
xây dựng chính sách. Đồng thời, NHNN cũng đảm nhiệm luôn vai trò lưu trữ,
cung cấp và công bố thông tin công khai theo thầm quyền cho tất cả mọi chủ
thể trong nển kinh tế nắm bắt kịp thời mọi chủ trương chính sách, tạo sự phối
hợp nhịp nhàng giữa Nhà nước và các đối tượng chịu sự điều chỉnh của các
chính sách, chủ trương.
Để đảm bảo độ tin cậy cho những thông tin quan trọng vể lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng của Nhà nước, NHNN có quyền từ chối yêu cầu cung cấp thông tin
của tổ chức, cá nhân trừ trường hợp theo yêu cầu cuả cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Vì lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực có ảnh hưởng mạnh mẽ

đến nền kinh tế nên việc giữ bí mật thông tin cuả các tổ chức tín dụng, bí mật
tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo pháp luật là rất quan trọng. Nó tạo sự ổn
định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Cán bộ, công chức NHNN phải
giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của NHNN.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách của nhà nước nhằm phát
kinh tế đất nước do vậy các hoạt động phục vụ cho chính sách cần được giám
sát chặt chẽ bởi Quốc hội, UBTVQH cùng các cơ quan khác của Quốc hội. Thủ
tướng chính phủ báo cáo hoặc ủy quyển cho Thống đốc NHNN báo cáo theo
23
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
định kì 06 tháng và hẳng năm. Theo LNHNN 2010 trách nhiệm và quyền cuả
NHNN được qui định rõ ràng và tách bạch và phạm vi của sự giám sát trong
quá trình hoạt động. Thêm vào đó, hoạt động xuất bản các ấn phẩm vể tiền tệ
và ngân hàng theo quy định của pháp luật,tạo điều kiện cho thông tin trong
hoạt động tiền tệ phổ biến đến tất cả mọi đối tượng trong xã hội. Càng thể hiện
sự công khai trong chế độ quản lý tiền tệ của NHNN. Và đây cũng chính là
điểm mới so với LNHNN 2003.
5. Các hoạt động khác:
a) Tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo của ngân hàng nhà
nước
NHNN là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước vì vậy chế
độ tài chính là độc lập, hạch toán độc lập. Vì đây là lĩnh vực kinh doanh có
điều kiện nên phải thõa mãn mức vốn pháp định do Thủ tướng chính phủ quyết
định. Ngoài vốn pháp định, NHNN còn được Nhà nước giao các loại tài sản
khác, được lập từ chênh lệch thu chi nhằm thực hiện chính sách tiển tệ quốc
gia. Do nguồn vốn của NHNN do ngân sách nhà nước cấp nên kết quả tài chính
cuả NHNN sau khi trích lập các quỹ từ kết quả tài chinh hằng năm được nộp
ngân sach nhà nước. Theo Điều 45 LNHNN 2010 các quỹ được lập tử kết quả
tài chính năm bao gồm :
• Qũy thực hiện tài chính chính sách tiền tệ quốc gia.

• Qũy dự phòng quốc gia.
• Qũy khác do Thủ tướng chính phủ quyết định.
Với chế độ thu,chi tài chính thực hiện theo qui định cuả Luật ngân sách nhà
nước. Do đó Thủ tướng chính phủ qui định nội dung thu chi tài chinh phù hợp
với hoạt động nghiệp vụ đặc thù của NHNN. Kết quả tài chính cuả NHNN
được xác định bằng các nguồn thu từ hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các
nguồn thu khác, sau khi trừ các nguồn chi hoạt động và các khoản dự phòng
khác. Nguyên tắc này tuân thủ theo qui định tại Điều 44 LNHNN 2010.
Các khoản thu chi tài chính của NHNN phù hợp với nội dung thu chi được
qui định thực hiện hạch toán theo chuẩn mực kế toán của Việt Nam và chế độ
kế toán đặc thù của NHTW theo qui định của Thủ tướng chính phủ. Do hoạt
động cuả NHNN là hoạt động đặc thù trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng nên
chế độ hạch toán của nó cũng cần có những đặc thù riêng để phù hợp với hạch
toán chính xác, nhằm phản ảnh đúng khả năng hoạt động của NHNN.
Nhằm tránh thất thoát ngân sách nhà nước trong quá trình thực hiện quản lý
chức năng của nhà nước cũng như thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trung
ương. Thông qua chế độ thu chi tài chính cũng như hạch toán tài chính, Nhà
nước đã sử dụng chế độ kiểm toán báo cáo tài chính hằng năm để xác nhận các
khoản thu chi tài chính trong năm tài chính của NHNN bắt đầu từ 01 tháng 01
24
Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật NHNNVN 2010.
kết thúc ngày 31 tháng 12 năm dương lịch là hợp lý và chính xác hay không.
So với LNHNN 2003, Luật NHNN năm 2010 đã cụ thể nhiều vấn đề về thu
chi, hạch toán cũng như kiểm toán tài chính trong hoạt động của NHNN.
b) Thanh tra ngân hàng, tổng kiểm tra của ngân hàng nhà nước:
Để có những hành động kịp thời trước sự biến động của nền kinh tế, Nhà
nước cần chủ động các hoạt động thanh tra, giám sát nhằm góp phần bảo đảm
sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống
tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng
của tổ chức tín dụng… Đó là những mục đích của thanh tra, giám sát ngân

hàng qui định tại điều 50 luat NHNN năm 2010.
Tạo điều kiện trong hoạt động thanh tra đáp ứng được những yêu cầu đề
ra thì khi tiến hành phải tuân theo các nguyên tắc tại điều 51 luật NHNN năm
2010 để việc thực hiện quá trình thanh tra mang lại hiệu quả thiết thực. Trình
tự, thủ tục thanh tra giám sát ngân hàng do Thống đốc ngân hàng nhà nước qui
định. Sự phối hợp giữa NHNN và các bộ, ngành liên quan trong hoat động
thanh tra giúp quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước được thể hiện rõ
ràng, tạo sự chặt chẽ trong tiến trình thực hiện rà soát các hoạt động thanh tra.
Để thực hiện quyền quản lý nhà nước của NHNN đối với lĩnh vực tiền tệ
-ngân hàng, các cơ quan thanh tra qui định tại điều 49 luật NHNN năm 2010 ra
quyết định thanh tra khi có các căn cứ qui định tại điều 54 đó là :
• Chương trình, kế hoạch thanh tra.
• Yêu cầu của Thống đốc NHNN.
• Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
• Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa sự an toàn hoạt động của tồ chức tín dụng.
Với những căn cứ này các cơ quan thanh tra, giám sát kịp thời có thể đưa ra
những khuyến nghị để các đối tượng bị thanh tra, giám sát điều chình phù hợp
tình hoạt động. Bên canh đó, khi phát hiện vi phạm hoặc nhận thấy các rủi ro,
NHNN có thể đưa ra các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra để hạn
chế mức độ rủi ro có thể xảy ra.
Tóm lại, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã góp phần giảm đi tác
hại của những rủi ro đối với hoạt động ngân hàng, giúp các cơ quan nhà nước
nắm bắt kịp tình hình của thị trường tiền tệ, để điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia hiệu quả hơn.
25

×