Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.76 KB, 27 trang )

Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
-oOo-
Luật Ngân Hàng
*☼*
Đề tài: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam 2010 so với Luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam 1997 (Sửa đổi, bổ sung 2003).
Chương I
Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam
Một xã hội văn minh không thể thiếu Luật, Luật len lỏi vào cuộc sống của chúng
ta trong mọi ngành nghề, lĩnh vực. Khi một ngành nghề, một lĩnh vực mới xuất hiện luôn
luôn kéo theo sự xuất hiện của Luật điều chỉnh nó, và ngành Ngân hàng không phải là
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 1
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
một ngoại lệ. Sự trao đổi tiền tệ ra đời từ rất sớm, những hoạt động tiền tệ sơ khai ra đời
từ thời chiếm hữu nô lệ, tuy nhiên, Luật điều chỉnh nó không thể xuất hiện ngay lập tức,
vì lúc này con người chưa nhận thức được khái niệm Luật và sự quan trọng của Luật.
Cùng với sự phát triển tất yếu của xã hội loài người, nền văn minh xuất hiện, lúc này nhu
cầu cần Luật trở nên bức bách đối với ngành Ngân hàng, đặc biệt là khi nền kinh tế thị
trường đang ngày càng mở rộng. Sự ra đời của pháp luật Ngân hàng là vô cùng rộng lớn,
ở đây, chúng tôi chỉ bàn về sự ra đời của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và sự phát
triển của nó qua từng thời kì. Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về Pháp luật ngân hàng nhà
nước Việt Nam, ta hãy bám sát theo lịch sử ra đời của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Cùng với và là nhân tố cấu thành không thể thiếu của những trang sử hào hùng của
dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, ngành Ngân hàng Việt Nam từ khi được thành
lập 6/5/1951 trên thực tế đã trải qua “4 đoạn đường” đầy thử thách, rất gập ghềnh nhưng
liên tục phát triển – Đó là những đoạn đường: 9 năm đánh thực dân Pháp (1945 – 1954,
trong đó từ 1945 đến trước ngày 6/5/1951 hoạt động ngân hàng nằm trong Bộ Tài Chính);


hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975); 10 năm hàn gắn các vết thương
chiến tranh, bảo vệ vẹn toàn biên giới lãnh thổ và khôi phục kinh tế đất nước sau chiến
tranh (1975 – 1985); Và hơn 20 năm đổi mới cơ chế kinh tế từ 1986 đến nay. Ta cùng sơ
lược qua quá trình hình thành và phát triển của ngành Ngân hàng và Pháp luật Ngân hàng
của Việt Nam qua các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn 1945-1954 :
Thống trị hệ thống ngân hàng Đông Dương suốt thời kỳ Pháp thuộc là Ngân hàng
Đông Dương do Pháp thành lập vào đầu nửa sau thế kỷ 19. Giai đoạn 1945 -1954, đất
nước Việt Nam bị chia cắt, đan xen bởi những vùng tự do thuộc chính quyền cách mạng
kiểm soát và những vùng bị Pháp chiếm đóng. Theo đó, hệ thống ngân hàng của Việt
Nam cũng ở trong tình trạng chia cắt.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 2
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển
mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng
giải phóng. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng
lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, vào lúc này, không chỉ riêng ngân hàng nhà nước Việt Nam mà mọi cơ
quan, tổ chức và các hoạt động khác của đất nước đều nhằm mục đích phục vụ kháng
chiến, chính vì vậy, luật ngân hàng nhà nước lúc này vẫn chưa được xem là vấn đề cần
thiết, mà ưu tiên hàng đầu là tìm cách thống nhất đất nước. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta
trong giai đoạn này là nền kinh tế bao cấp, nên ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng hoạt
động theo nguyên lý hành chính, mệnh lệnh, tập trung, một cấp và nhà nước là độc quyền
sở hữu.
2. Giai đoạn 1954-1975:
Hoà bình được khôi phục năm 1954 đã dẫn tới sự cấu trúc lại hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Hệ thống ngân hàng ở miền Bắc đã trở thành cỗ máy phục vụ chủ yếu cho khu
vực kinh tế nhà nước - cấp tín dụng cho các xí nghiệp quốc doanh, và một phần cho khu

vực kinh tế tập thể - các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc
gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên
thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Tuy vào giai đoạn này bên cạnh ngân hàng nhà nước Việt Nam đã xuất
hiện thêm một số ngân hàng khác như: Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương, Quỹ
tiết kiệm XHCN nhưng tính chất của hệ thống ngân hàng VN vẫn không hề thay đổi, nền
kinh tế lúc này vẫn là tập trung bao cấp và theo đó, hoạt động của ngân hàng vẫn tiến
hành theo kế hoạch hóa tập trung và nhu cầu về luật điều chỉnh riêng cho ngân hàng nhà
nước Việt Nam vẫn chưa hề xuất hiện.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 3
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
3. Giai đoạn 1975-1985:
Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài
Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế
hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam
được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất
của cả nước.
Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động
như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo
nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng -
chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối
những năm 80. Chính sự chuyển đổi từ nền kinh tế đóng sang kinh tế mở đã làm xuất
hiện nhu cầu về pháp luật của ngành ngân hàng, tuy nhiên lúc này, do sự chuyển đổi chỉ
mang tính manh nha, chưa dứt khoác, chưa có các chính sách, quy định pháp luật cụ thể
cho nền kinh tế mới, hơn thế nữa do đất nước ta đã trải qua nền kinh tế bao cấp trong thời
gian dài khiến người dân chưa thể ngay lập tức thích nghi với cơ chế thị trường mới nên

lúc này chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào điều chỉnh hoạt động của ngân
hàng nhà nước Việt Nam.
4. Giai đoạn từ 1986 đến nay:
Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển
biến căn bản của pháp luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam thể hiện qua một số "cột mốc"
có tính đột phá sau đây:
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 4
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
 Thứ nhất, sự chuyển đổi hệ thống ngân hàng Việt Nam khởi đầu từ năm
1987 thông qua các văn bản sau:
- Nghị quyết thứ VI của BCH Trung ương Đảng khóa VI về thay đổi từ cơ chế
quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế kinh doanh XHCN.
- Hội đồng bộ trưởng ban hành chỉ thị số 218/CT ngày 13/7/1987 cho phép ngân
hàng thí điểm chuyển sang hệ thống ngân hàng 2 cấp.
- Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định 53/NĐ/HĐBT ngày 26/3/1988 tổ chức
lại hệ thống ngân hàng, bao gồm: Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng chuyên doanh.
Chính sự ra đời của các văn bản này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong hệ thống
ngân hàng, từ cách tổ chức đến chức năng hoạt động của từng ngân hàng, trong đó rõ
nhất là sự phân định về đối tượng, nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của các cấp ngân
hàng. Đó là tinh thần chuyển dần chức năng “cấp phát” sang chức năng hạch toán kinh
doanh; tách dần cấp quản lý Nhà nước về Ngân hàng ra khỏi hoạt động kinh doanh trực
tiếp với các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế; thành lập lại các Ngân hàng chuyên doanh,
Phó Tổng giám đốc NHNN thôi không kiêm chức Tổng Giám đốc Ngân hàng chuyên
nghiệp như mô hình tổ chức cũ ghi tại Nghị Định 65-HĐBT ngày 28/5/1986 nữa v.v. Nhờ
đó, những đường nét ban đầu của cơ chế mới về hoạt động Ngân hàng theo 2 cấp đã dần
dần hình thành và được thể chế hoá bằng hai Pháp lệnh về Ngân hàng năm 1990.
 Thứ hai, cơ sở pháp lý đầu tiên cho quá trình cải tổ hệ thống Ngân
hàng Việt Nam – sự ra đời của 2 Pháp lệnh.
Năm 1989, sau những chủ trương đổi mới có tính bước ngoặt, xoá bỏ chỉ tiêu kế
hoạch pháp lệnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh, tự do hoá phân

phối tư liệu sản xuất và tự do hoá giá cả, kinh tế thị trường được chính thức xác lập, việc
đổi mới tất yếu tiếp theo là xây dựng khuôn khổ thể chế cho việc hình thành hệ thống
ngân hàng mới hai cấp, tách biệt chức năng điều tiết chính sách tiền tệ của cấp ngân hàng
Trung ương với chức năng kinh doanh phân phối nguồn lực tài chính cho thị trường của
cấp các ngân hàng thương mại.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 5
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Giữa năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) giao cho ông Cao Sỹ
Kiêm, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, cùng phối hợp với một nhóm chuyên gia
độc lập do Hội đồng Bộ trưởng chỉ định cùng soạn thảo hai pháp lệnh ngân hàng. Việc
soạn thảo đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn
Kiệt.
Trong số những chuyên gia độc lập, có giáo sư Phan Văn Tiệm (lúc đó đang là
Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước), các ông Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn cựu
viên chức ngân hàng của chính quyền Sài Gòn cũ, ông Nguyễn Thiệu cán bộ giúp việc
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt.
Việc sử dụng một nhóm chuyên gia ngoài biên chế ngân hàng với chuyên gia
Ngân hàng Nhà nước, và sau này giúp Ngân hàng Nhà nước triển khai thực hiện là cách
làm mới mẻ của người chỉ đạo trực tiếp, nhằm lắng nghe ý kiến độc lập và tranh luận
nhất trí giữa hai nhóm chuyên gia đồng soạn thảo pháp lệnh đổi mới ngân hàng.
Sau hơn bốn tháng làm việc khẩn trương, vượt qua nhiều cuộc tranh luận thẳng
thắn, mấy lần trình xin ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn
Kiệt, hai dự thảo pháp lệnh hoàn thành. Sau đó, hai dự thảo được mang sang Paris nhờ
Ngân hàng Trung ương Pháp đánh giá; nhờ Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thẩm định và cử
chuyên gia sang Hà Nội tổ chức một lớp tập huấn cho cán bộ Ngân hàng Nhà nước.
Tháng 5 năm 1990, hai pháp lệnh bắt đầu có hiệu lực thi hành sau khi Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công phê chuẩn. Hai pháp lệnh Ngân hàng đem lại nhận thức
mới và cơ hội pháp lý tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước theo mô hình Ngân hàng Trung
ương. Đó là:
- Pháp lệnh số 37 về Ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 23/5/1990, có hiệu lực

ngày 1/10/1990.
- Pháp lệnh số 38 về Ngân hàng thương mại, HTX tín dụng và công ty tài chính
ngày 23/5/1990, có hiệu lực ngày 1/10/1990.
Hai pháp lệnh này là nền tảng pháp lý chính thức cho sự phân định rạch ròi về đối
tượng, mục tiêu và nhiệm vụ của từng cấp ngân hàng trong mô hình ngân hàng 2 cấp,
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 6
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
phục vụ cho quá trình chuyển đổi của hệ thống ngân hàng từ cơ chế kinh tế tập trung sang
cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó cũng là tiền đề cho
các văn bản Luật ngân hàng nhà nước sau này.
 Thứ ba, sự ra đời của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997
thay thế cho pháp lệnh số 37.
Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ
chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1997 tạo nên bậc thang
hoàn thiện môi trường pháp lý, tiếp tục mở đường cho sự phát triển của ngành Ngân hàng
Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Tại Luật này, lần đầu tiên trong lịch sử Ngân hàng Việt
nam, Ngân hàng Nhà nước Việt nam được diễn đạt định nghĩa bằng đồng thời 2 khái
niệm song song: Là “cơ quan của Chính phủ” và là “Ngân hàng trung ương” của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Và đến ngày 17/06/2003 thì Quốc Hội đã thông qua Luật sửa đổi và bổ sung một
số điều của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997, trong đó đưa vào 2 khái niệm mới
gồm có “Giấy tờ có giá dài hạn’ và “mua bán ngắn hạn”, bỏ đi “cơ quan thuộc Chính
phủ” trong những quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động
ngân hàng đồng thời thay đổi cơ quan “Bộ Nội vụ” thành “Bộ Công An”. Cuối cùng là
việc thay đổi thẩm quyền quyết định các trường hợp đặc biệt trong quy định về ‘tạm ứng
cho ngân sách nhà nước’ từ Thủ tướng Chính phủ sang cho Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bên cạnh đó là 1 hệ thống văn bản hướng dẫn được cập nhật và điều chỉnh kịp thời
những vấn đề mới trong suốt giai đoạn từ 2003 đến khi khi Luật Ngân hàng nhà nước
2010 được ban hành vời nhiều cải cách.
Chương II.

Sự ra đời của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 7
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Ngành ngân hàng và Pháp luật về Ngân hàng đã trải qua 1 giai đoạn dài theo lịch
sử phát triển của đất nước với nhiều biến đổi. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã
hội, ngành ngân hàng cũng không ngừng đổi mới, những mối quan hệ mới phát sinh
trong hoạt động giao dịch hàng ngày, những mô hình, hình thức hoạt động mới không
ngừng được ra đời phục vu cho nhu cầu của đời sống xã hội, cũng vì vậy pháp luật cần
được kịp thời thay đổi để điều chỉnh tốt những mối quan hệ, hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng đang đổi mới hằng ngày. Trong những năm gần đây, vai trò của các ngân hàng
trung ương đã có sự thay đổi rất lớn nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 cũng đã tác
động mạnh mẽ tới việc điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng trung ương, dẫn đến yêu
cầu cấp thiết trong việc mở rộng vai trò của các ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo ổn
định hệ thống tài chính và giám sát rủi ro hệ thống hiệu quả. Trước yêu cầu của xã hội,
Luật ngân hàng nhà nước Việt nam năm 2010 đã được thai nghén và ra đời sau 1 số bản
dự thảo và những tranh luận của các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật lẫn ngân hàng.
A. Sự cần thiết ban hành Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 8
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Tổng kết trên 10 năm thực hiện Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho thấy
Luật NHNN VN đã góp phần to lớn trong việc hình thành cơ sở pháp lý để đổi mới tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà
nước), đặc biệt trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của mình đã thực hiện tốt
chính sách tiền tệ quốc gia và thanh tra, giám sát có hiệu quả hoạt động của các Tổ chức
tín dụng. Đạt được không ít thành tựu, Luật NHNN VN đã góp phần từng bước hoàn
thiện khuôn khổ thể chế về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo cơ chế
thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình
thực thi chính sách tiền tệ, góp phần đổi mới hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng,
góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, ngay cả trong những giai đoạn khó

khăn, đổi mới các hoạt động cơ bản đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về dịch vụ ngày
một cao của các tổ chức tín dụng, như chế độ quản lý tiền mặt, phát hành, thanh toán thẻ,
thanh toán điện tử liên ngân hàng, thông tin tín dụng (cập nhật, cung cấp thông tin về
quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với khách hàng, công tác thông tin dự báo, định
hướng chính sách lãi suất, tỷ giá )
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật NHNN VN cũng cho thấy một số nội dung
quy định của Luật NHNN VN chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đối với việc xây dựng
Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện mới, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Vẫn
còn nhiều tồn tại và hạn chế cần được khắc phục như:
• Chưa nâng cao trách nhiệm cũng như thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong
điều hành các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ. Cuộc khủng hoảng tài chính
tại các nước phát triển vừa qua cũng cho thấy những quy định hiện hành của Luật
NHNN VN trong việc giám sát hoạt động, xử lý tổ chức tín dụng lâm vào tình
trạng khó khăn có thể gây mất an toàn hệ thống chưa đầy đủ. Những quy định về
thẩm quyền của Nhà nước trong việc can thiệp vào hoạt động cũng như chế tài đối
với các tổ chức tín dụng yếu kém chưa đủ mạnh.
• Chưa quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về việc công khai chủ
trương, chính sách và những thông tin cần thiết về tiền tệ và ngân hàng, tạo lòng
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 9
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
tin của công chúng vào chính sách của Nhà nước trong bối cảnh thông tin có rất
nhiều chiều và từ rất nhiều nguồn của nền kinh tế thị trường.
• Chưa quy định cụ thể tính chất đặc thù của hoạt động thanh tra, giám sát an toàn
hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tín dụng là thanh tra, giám sát thường xuyên,
mang tính chất phòng ngừa nhằm ngăn chặn và xử lý “sớm” các rủi ro có khả năng
xảy ra trong quá trình hoạt động đối với của các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn
ra tác động sâu rộng đến các quốc gia và hệ thống ngân hàng cũng như quản lý nhà nước
của Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng Nhà nước) nhất là các chính sách quản lý và
thanh tra, giám sát nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng, ngăn

ngừa và xử lý sớm mầm mống gây mất ổn định.
Hơn nữa trong những năm vừa qua, nhiều Luật có liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như Luật Tổ
chức Quốc hội (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội
(2007), Luật Tổ chức Chính phủ (2001), Bộ Luật dân sự (2005), Luật Doanh nghiệp, Luật
Thương mại, Luật Đầu tư (2005), Luật Chứng khoán (2006)
Từ những vấn đề trên ta thấy được việc ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt
Nam 2010 là một yêu cầu cấp bách nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống
pháp luật. . Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần phải nhanh chóng sửa đổi tạo cơ sở
pháp lý để thể chế hoá những chủ trương, chính sách quan trọng này nhằm tạo điều kiện
tiếp tục đẩy nhanh cải cách, đổi mới về tổ chức, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.
B. Bối cảnh kinh tế - xã hôi
Trước sự cần thiết của xã hội, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 đã ra
đời với những nội dung mới tiến bộ, đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh tế xã hội đất nước. Là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời cũng là cơ sở cho những đổi mới về nội
dung, bối cảnh kinh tế xã hội là một nội dung cần xem xét để ta dễ dàng tiếp cận những
nội dung của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 với nhiều điểm khác biệt so với
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 10
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đồi vổ sung 2003). Và Luật Ngân hàng nhà
nước 2010 đã được xây dựng và ban hành trong tình hình đất nước có những chuyển biến
quan trọng sau:
 Thứ nhất: Ngày 11/1/2007 Việt Nam ta chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức
WTO. Gia nhập vào WTO đồng nghĩa với việc mở rộng mối quan hệ với các nước của
các khu vực trên thế giới, như vậy thì các lĩnh vực trên thị trường đều có sự chuyển biến
tích cực lẫn tiêu cực và ngành ngân hàng nước ta cũng không ngoại lệ.
Cụ thể hệ thống pháp luật ngân hàng nước ta chưa thực sự đồng bộ và chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế , vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng,
giữa các nhóm ngân hàng, giữa ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước
ngoài… đã gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Chính những điều này đã đặt ra thách

thức phải sửa đổi, tạo mội trường kinh doanh trong ngành ngân hàng 1 cách bình đẳng
( thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO )
Việc mở cửa thị trường tài chính trong nước sẽ làm tăng rủi ro thị trường do tác
động từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Trong khi đó thì năng lực chính sách tiền
tệ cũng như năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước ta còn hạn
chế.
Có thể nói Ngân hàng Nhà nước ta vẫn đang ở mức độ thấp về công nghệ, trình độ
tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ. thị trường tài chính chưa thực sự phát triển, cơ chế quản
lí giám sát chưa hoàn thiện, chưa có chính sách thống nhất để quản lí hiệu quả hoạt động
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi hoạt động của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam hậu WTO sẽ càng mở rộng và phát triển.
 Thứ hai: Do cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 vừa qua cũng đã làm cho nhiều ngân
hàng mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng…đã làm cho lạm phát tăng cao
=> cho nên ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã có nhưng đổi mới trong quản lí tiền
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 11
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
tệ và hoạt động ngân hàng , trong đó quan trọng nhất là thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ nhắm kiềm chế lạm phát gia tăng.
Ví dụ như: khoản 2 Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 : “
Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định
chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia “
Bên cạnh đó theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X yêu cầu phải
thể chế hóa được quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tổ
chức và hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam, thể hiện được tính đặc thù của hệ
thống ngân hàng nhà nước Việt Nam, phải phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.
Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay chính sách tiền tệ cũng từng bước
được thực hiện thông qua việc sử dụng ngày càng nhiều công cụ gián tiếp, đặc biệt là
việc Ngân hàng trung ương sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến các mức lãi
suất ngắn hạn. Qua đó đã tác động đến tỉ lệ tăng cung tiền và tác động đến tốc độ tăng
trưởng kinh tê. Vì vậy cần có một cơ chế điều chỉnh mới phú hợp với tình hình hiện tại

nhằm nâng cao hiệu quả công cuộc thực hiện chình xách tiền tệ quốc gia
Một điều nữa không thể không nói đến chính là tình hình tranh chấp và cho vay
nặng lãi hiện nay, xã hội cũng mong muốn có được sự điều hành của ngân hàng nhà nước
và có cơ sở áp dụng các luật liên quan như : dân sự, hình sự, lao động… nhằm hỗ trợ và
phối hợp lẫn nhau giữa các lĩnh vực pháp luật một cách chặt chẽ chống lại hình vi cho vai
nặng lãi, bảo vệ trật tự và lợi ích của xã hội.
Từ đó ta thấy Luật Ngân hàng nàh nước Việt Nam 2010

thực sự cần thiết và hơn
nữa là nội dung của nó cần phải giải quyết được những vấn đề cấp thiết của xã hội trong
lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, khắc phục những tồn tại và hạn chế hiện có, nâng cao hơn
nữa trách nhiệm, quyền hạn của NHNN trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ
quốc gia trong nền kinh tế thị trường, cải cách hệ thống thanh tra giám sát hoạt động ngân
hàng và thị trường tiền tệ., để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tiền tệ và ngân hàng
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 12
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
C. Dự thảo và quá trình tranh luận, chất vấn xây dựng Luật Ngân hàng nhà nước Việt
Nam 2010
Để dẫn đến sự ra đời của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 đã có nhiều dự
thảo, tuy nhiên những dự thảo này vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Và để đảm bảo tính
khả thi và khắc phục những hạn chế, đáp ứng những nhu cầu đặt ra của thực tiễn….Quốc
hội đã xem xét và lấy ý kiến để từng bước hoàn thiện và cho ra đời Luật ngân hàng nhà
nước Việt Nam năm 2010.
Những bản dự thảo tuy đã có nhiều điểm tiến bộ so với LNHNN 1997 như: : hình thức
diễn đạt, cấu trúc chương, mục điều khoản khoa học hơn, nhất là Luật Các tổ chức tín
dụng; các quy định đã có xu hướng tiếp thu thông lệ quốc tế (quản trị ngân hàng, quản trị
các tổ chức tín dụng, minh bạch thông tin ) và có vẻ ít giấy phép con hơn nhưng vẫn còn
bỏ ngỡ nhiều vấn đề cần được xem xét như:
a) Chưa rõ thế nào là một “ngân hàng Trung ương hiện đại”. Vì theo thông báo số 191 của

Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 1.9.2005 về mục tiêu giải pháp ngành ngân hàng
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ ra “Tổ chức lại NHNN với cơ cấu và
tính chất hoạt động như một ngân hàng Trung ương hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc
tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng sức mua của đồng tiền Việt
Nam”.
Và theo thông lệ quốc tế, có thể hiểu rằng ngân hàng Trung ương có sự độc lập
trong việc tham mưu cho Đảng, Nhà nước về chính sách tiền tệ quốc gia nhằm duy trì
mục tiêu ổn định giá cả, kềm chế lạm phát. Sự độc lập này có được trên cơ sở quy định
về mô hình của ngân hàng Trung ương không chịu sự chi phối của người đứng đầu hành
pháp. Đồng thời cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng phải độc lập, không nằm trong cơ
cấu tổ chức của ngân hàng Trung ương.
Nhưng trong dự thảo luật NHNN và các định hướng, quan điểm nêu trên, thì dự
thảo luật vẫn giữ nguyên như luật hiện hành.Theo như trong điều 2 của dự thảo luật
NHNN: “NHNN là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, thực hiện chức năng ngân hàng Trung ương về
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 13
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính
phủ”.Trong điều 2 này chỉ khác ở luật NHNNVN 1997 ở 1 điểm đó là nêu rõ hơn NHNN
là cơ quan ngang bộ của Chính phủ.
b) Thứ 2,dự thảo LNHNN chưa giải quyết được bộ máy cồng kềnh
Có một điểm quan trọng mà dự thảo lại bỏ qua đó là cần cải cách bộ máy hành
chính thông báo 191 của Ban chấp hành Trung ương Đảng: “Phát triển NHNN theo
hướng thực sự là ngân hàng Trung ương với cơ cấu tinh gọn, hiệu quả và từng bước hình
thành chi nhánh ngân hàng khu vực”. Theo chính thống kê của NHNN, hiện NHNN có
tổng số 5.361 nhân viên, trong đó ở Trung ương là 2.011 người và địa phương 3.350
người. Tốc độ tăng trưởng lao động bình quân của NHNN khoảng 10 – 15%. Với tốc độ
này, sau năm năm nữa, con số nhân viên của NHNN có thể không dưới 7.000 – 8.000
người.
c) Thứ 3 là vấn đề ôm vốn nhà nước

Theo các quy định về cổ phần hoá, phần vốn nhà nước ở các doanh nghiệp quốc
doanh đã chuyển thành công ty cổ phần do tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC) quản lý. Nếu công ty con của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, thì công
ty mẹ mới quản lý phần vốn nhà nước còn lại ở công ty con.
Hơn nữa, thông báo 191 khẳng định: “Xóa bỏ cơ chế chủ quản của NHNN đối với
các ngân hàng thương mại quốc doanh theo tinh thần nghị quyết TW 3, khoá 9”. Còn
quyết định 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24.5.2006 về đề
án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhấn mạnh:
“Xoá bỏ cơ chế đại diện chủ sở hữu của NHNN đối với các ngân hàng thương mại nhà
nước (trang 9)”.
Tuy nhiên, hai dự thảo luật ngân hàng lại không phản ánh đúng định hướng các
văn kiện nói trên. Khoản 10, điều 4 dự thảo luật NHNN :”Thực hiện đại diện chủ sở hữu
phần vốn nhà nước tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi, doanh nghiệp thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của NHNN, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước theo quy định pháp luật”. Với
vai trò chủ sở hữu, NHNN có nhiều thẩm quyền với ngân hàng quốc doanh (sẽ chuyển
đổi thành ngân hàng thương mại TNHH một thành viên nếu chưa cổ phần hoá), và thông
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 14
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
qua đại diện theo uỷ quyền là Hội đồng thành viên sẽ can thiệp trực tiếp và quyết định
mọi vấn đề quan trọng của ngân hàng quốc doanh.Ví dụ việc phát hành tăng vốn của
ngân hàng Vietcombank . Mặc dù trước đó đã được đại hội đồng cổ đông thông qua, đã
được SCIC chấp thuận, nhưng phải đợi đến khi NHNN đồng ý, Vietcombank mới được
phép phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu. Vietcombank đã chờ sự chấp thuận
đó của NHNN tới…chín tháng!
Và trên thực tế, quy định của dự thảo luật NHNN về đại diện chủ sở hữu tại các
TCTD có vốn nhà nước là phù hợp với luật Tổ chức Chính phủ hiện hành. Tuy nhiên
ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt, và NHNN có vị trí khác biệt, thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, nên việc NHNN quá nhiều chức năng, nhất là các chức năng này có thể xung
đột lợi ích với nhau, rất cần được tính toán và xem xét kỹ lưỡng lại.
Ngoài ra trong quá trình chất vấn, tranh luận để thông qua dự luật, nhiếu vấn đề

nổi cộm đã dành được sự quan tâm ý kiến, các quan điểm đối lập từ nhiều phía khiến quá
trình thông qua Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 thu hút sự chú ý của dư luận,
báo đài, và công chúng.
Cụ thể nhất là vấn đề lãi suất, dự luật đã đưa ra quy định mà trong đó bãi bỏ “lãi
suất cơ bản”, vấn đề này lại đúng chạm đến cơ chế chống cho vay nặng lãi căn cứ trên
Lãi suất cơ bản do NHNN công bố được quy định trong Bộ Luật dân sự 2005. Đã có
nhiều quan điểm đối lập tranh luận quyết liệt về vấn đề nóng bỏng này, có những ý kiến
còn đề nghị cả việc thay đổi quy định về lãi suất trong Bộ luật dân sự, nhưng đến cuối
cùng Quốc hội đã bỏ phiếu không thông qua nội dung đó, và Lãi suất cơ bản vẫn tồn tại
và được điều chỉnh trong Luật Ngân hàng nhà nước 2010 dù có phần khác biệt. Sự khác
biệt này sẽ được phân tích cẩn thận ở chương 3.
Tóm lại, ta thấy được quá trình xây dựng và ban hành Luật Ngân hàng nhà nước
năm 2010 trải qua các bản dự thảo, những vấn đề còn thiếu sót, những nội dung gây
nhiều tranh luận. Nhưng cho đến ngày 16/06/2010 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thông
qua Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 và Luật này sẽ bắt đầu có hiệu lực vào
ngày 01/01/2011 sắp tới.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 15
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Chương III
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010
so với Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003)
A.Giới thiệu luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010:
1.Đối tượng điều chỉnh:
Cũng như các ngành luật khác, Luật Ngân hàng nhà nước Việt nam 2010 cũng có
đối tượng điều chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của Luật Ngân hàng nhà nước Việt
Nam là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện các chức năng của mình bao gồm: chức năng quản lý
nhà nước về tiền tệ và ngân hàng và chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành
tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
(Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 về vị trí và chức năng của Ngân hàng

nhà nước Việt Nam)
Vậy có thể chia đối tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam thành 2
nhóm quan hệ gồm: nhóm quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và
nhóm quan hệ tổ chức và hoạt động Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
2.Phương pháp điều chỉnh:
Do đối tượng điều chỉnh của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam gồm 2 nhóm
mang đặc tính khác nhau: nhóm quan hệ quản lý nhà nước và nhóm quan hệ về tổ chức,
hoạt động ngân hàng nên sẽ có 2 phương pháp điều chỉnh khác nhau đối với mỗi nhóm
quan hệ.
Thứ nhất, các quan hệ quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng là các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
ngân hàng trong nền kinh tế thông qua hoạt động của Ngân hàng nhà nước. Ví dụ: quan
hệ trong việc Ngân hàng nhà nước cấp , sửa đồi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 16
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
hoạt động các tổ chức tín dụng, quan hệ thanh tra giám sát, quan hệ trong áp dụng biện
pháp xử lý đặc biệt, các quan hệ trong quá trình phát hành tiền,…Do đặc trưng của nhóm
quan hệ quản lý nhà nước là mang tính quyền lực nhà nước nên phương pháp điều chỉnh
đối với nhóm quan hệ này là phương pháp mệnh lệnh phục tùng.
Thứ hai, nhóm các quan hệ xã hội trong tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà
nước gồm những mối quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện các hoạt động
nghiệp vụ Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước như hoạt động tái cấp vốn cho các tổ chức
tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở qua mua bán giấy tờ có giá với các tổ chức tín dụng,…
Các quan hệ này được xây dựng trên cơ sở bình đẳng nên phương pháp điều chỉnh đối
với nhóm quan hệ này là phương pháp bình đẳng thỏa thuận.
3.Cơ cấu:
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 gồm 7 chương, 66 Điều, quy định
các nội dung về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam như: vị trí, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn, hoạt động, thanh tra, giám sát, kiểm toán nội bộ,…
Trong đó, bổ sung mới 26 điều, sửa đổi, bổ sung 38 điều, giữ nguyên 5 điều và

huỷ bỏ 4 điều trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003. (xem chi tiết ở bảng
thống kê)
B.Những điểm mới quan trong trong Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010:
Theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010, NHNN có 6 lĩnh vực
hoạt động nghiệp vụ chủ yếu gồm: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia; Phát hành tiền;
Cho vay, bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách; Hoạt động thanh toán và ngân quỹ; Quản lý
ngoại hối và hoạt động ngoại hối; Hoạt động thông tin, báo cáo.
1. Những quy định mới về chức năng thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN
Trong 6 lĩnh vực hoạt động chủ yếu của NHNN theo luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam 2010, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là một trong những lĩnh vực hoạt
động quan trọng nhất. Trong Luật Ngân hàng nhà nước vừa được thông qua, nhiều nội
dung trong mục này đã được điều chỉnh như sau:
• VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM:
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 17
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Nếu luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 (sửa đồi, bổ sung 2003) chỉ quy
định “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của
nhà nước thì Luật Ngân hàng nhà nước 2010 đã đưa ra được cụ thể khái niệm “chính
sách tiền tệ quốc gia”: Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm
quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá
trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện
pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. (Khoản 1, Điều 3)
Từ đó xây dựng nên những quy định rõ ràng và cụ thể thẩm quyền của các cơ quan
(Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với chính sách tiền tệ.
• VẤN ĐỀ THẨM QUYỀN:
So với Luật Ngân hàng nhà nước 1997 (sửa đổi 2003) thì thẩm quyền của các cơ
quan đối với chính sách tiền tệ trong Luật Ngân hàng mới đã có nhiều thay đổi. Luật
NHNN năm 2010 đã cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc
quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ
chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong việc

chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ đã được xác định rõ ràng.
Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật Ngân hàng nhà
nước 1997 (sửa đồi 2003) đã quy định cho Quốc hội quyền quyết định và giám sát việc
thực hiện chính sách tiền tệ, Chính phủ chỉ có quyền xây dựng dự án chính sách tiền tệ
quốc gia trình Quốc hội và thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ.
Nhưng đến Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 thì thẩm quyền trên đã được
thay đổi như sau:
o Quốc Hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua
việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia.
o Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật
quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân
hàng.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 18
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
o Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm.
o Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các
công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ
quốc gia theo quy định của Chính phủ.
(Điều 3 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010)
Qua đó thể hiện rõ thẩm quyền của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ
thông qua thẩm quyền của Thống đốc NHNN đối với việc quyết định việc sử dụng các
công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia trong khi ở luật cũ phía NHNN không có bất cứ
thẩm quyền gì trong việc quyết định và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong quá khứ việc tổ chức thực hiện thuộc về thẩm quyền của Chính phủ, ta thấy ở đây
đã có 1 sự thay đổi quan trọng với vai trò của NHNN trong việc thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia.
• VẤN ĐỀ CÔNG CỤ THI HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ :

So với luật năm 2003 thì Luật Ngân hàng không đưa ra thêm công cụ nào mới cho
việc thi hành chính sách tiền tệ tuy nhiên đã có sự thay đổi lớn, gây nhiều tranh cãi trong
quá trình thông qua Dự luật với những quy định mới về lãi suất, tỷ giá hối đoái và vấn đề
dự trữ bắt buộc.
a) Lãi suất:
Một trong những nội dung được tranh cãi quyết liệt và nhận được ý kiến từ nhiều
phía chính là vấn đề về lãi suất, nội dung gây nhiều tranh luận nhất ở vấn đề lãi suất
chính là có nên bỏ lãi suất cơ bản không? Và sau những cuộc chất vấn tranh luật thì vấn
đề lãi suất được Luật ngân hàng nhà nước 2010 quy định như sau:
Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi
suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.
Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước
quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với
nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 19
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Bên cạnh đó ở Luật ngân hàng mới cũng không còn điều khoản quy định “Lãi suất
cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh” như trong Luật Ngân hàng nhà nước 1997 (sửa đổi, bổ sung
2003). Từ quá trình tranh luật gay gắt về “lãi suất cơ bản” đến việc bỏ quy định về khái
niệm “lãi suất cơ bản” và cách quy định mới về lãi suất trong Luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam năm 2010 ta thấy:
Vì vấn đề chống cho vay nặng lãi và quy định về lãi suất của Bộ Luật dân sự thì
việc bỏ “lãi suất cơ bản” trong luật Ngân hàng mới là không thể, vì khi đó sẽ không còn
căn cứ để xác định hành vi cho vay nặng lãi trong các giao dịch vay đơn lẻ trong xã hội
nằm ngoài hệ thống ngân hàng. Ngoài ra người ta còn e ngại nếu bỏ đi quy định về lãi
suất cơ bản thì chính những Ngân hàng cũng có thể trở thành những chủ thể cho vay lãi
cao, gây rối loạn xã hội và nguy cơ sụp đổ hệ thống. Hơn nữa nếu bãi bỏ quy định về lãi
suất cơ bản trong luật ngân hàng, triệt tiêu khái niệm lãi suất cơ bản trên thực tế thì sẽ
gây nên sự mâu thuẫn với Bộ luật dân sự hiện hành, khiến điều 476 Bộ luật dân sự trở

nên vô nghĩa, từ đó làm mất đi tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên trong cách quy định mới và việc bỏ điều khoản quy định lãi suất cơ bản
là cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh ta thấy nội hàm của “lãi suất
cơ bản” đã bị thay đổi, hơn nữa, trong cách quy định ở luật mới đã tách mục đích của
việc công bố lãi suất thành 2 phần riêng biệt là nhằm “điều hành chính sách tiền tệ” và
“chống cho vay nặng lãi”, vậy lúc này ta có thể nhận thấy “lãi suất cơ bản” tồn tại đúng
với mục đích “chống cho vay nặng lãi” chứ không còn mang nội hàm là cơ sở cho việc
xác định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Cũng chính vì vậy đã xuất hiện
khoản 2 của điều 12 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 với nội dung thể hiện việc
can thiệp của Ngân hàng nhà nước vào cơ chế điều hành lãi suất trong quan hệ giữa cá tổ
chức tính dụng với nhau và với khách hàng khi có diễn biến bất thường trong thị trường
tiền tệ.
Từ đó ta có thể khẳng định ở Luật Ngân hàng nhà nước 2010 nội hàm của lãi suất
đã được thay đổi theo hướng không công bố “trước” để định hướng lãi suất thị trường mà
sẽ công bố “sau” khi nó được hình thành trên thị trường của các TCTD là để làm cơ sở
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 20
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế.Tuy nhiên Tại báo cáo giải
trình tiếp thu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng việc cho phép các tổ chức tín dụng
áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận không có nghĩa là để lãi suất tự do thả nổi trên thị
trường.Trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ can thiệp trực tiếp vào cơ chế lãi suất của
tổ chức tín dụng.
b) Tỷ giá hối đoái
Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ thứ 2 có sự thay đổi trong Luật Ngân hàng
mới chính là tỷ giá hối đoái, sự thay đổi thể hiện ở việc mở rộng nhiệm vụ quyền hạn của
Ngân hàng nhà nước đối với việc quyết định tỷ giá hối đoái. Không như ở Luật Ngân
hàng năm 2003, NHNN chỉ có nhiệm vụ công bố tỷ giá hối đoái, theo quy định của Luật
Ngân hàng nhà nước 2010 NHNN còn quyết định cả chế độ tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ
giá. Điểm mới này cũng là một sự nâng cao thẩm quyền của NHNN trong thực thi chính
sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền.

c) Dự trữ bắt buộc:
Luật ngân hàng nhà nước 2010 đã bỏ quy định về giới hạn tỷ lệ dữ trữ bắt buộc từ
0% đến 20% đối với công cụ dự trữ bắt buộc để bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN trong tình hình nền kinh tế thường xuyên biến động. Đây
cũng là một điểm tiến bộ của Luật Ngân hàng mới bởi nó tăng tinh linh hoạt, nâng cao
khả năng thích ứng trước những biến động kinh tế, tăng cường quyền hạn của NHNN vì
khi này NHNN sẽ tùy theo tình hình kinh tế xã hội từng giai đoạn mà quy định mức dự
trữ phú hợp không bị ràng buộc bởi 1 giới hạn nào từ pháp luật.
Bên cạnh đó Luật Ngân hàng mới còn nâng cao thẩm quyền của NHNN qua việc
quy định cho NHNN thẩm quyền quy định việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc,
tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng đối vời từng loại tiền
gửi. Trong khi ở Luật ngân hàng trước đó thẩm quyền này thuộc về chính phủ. Cùng với
những điểm mới khác, đây là một trong những nội dung mở rộng và nâng cao thẩm
quyền cho NHNN, đặc điểm quan trọng của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 21
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
2. Quy định mới trong hoạt động cho vay, bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách của
NHNN:
Hoạt động cho vay của Ngân hàng Nhà nước đã được quy định rộng hơn trong
trường hợp cho vay đặc biệt: Ngân hàng Nhà nước được cho vay không những đối với
các tổ chức tín dụng đã "lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả" như quy định trong
Luật hiện hành mà cả đối với tổ chức tín dụng hoạt động bình thường nhưng "có nguy cơ
mất khả năng chi trả do các sự cố nghiêm trọng khác" để bảo đảm có thể can thiệp sớm
hơn, hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
3. Quy định mới trong hoạt động thanh toán và ngân quỹ của NHNN:
Đối với việc mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước: Nhằm mục tiêu bảo đảm
NHNN luôn có được đầy đủ, chính xác số liệu về quan hệ tiền gửi và cho vay của NHNN
đối với Ngân sách Nhà nước phục vụ công tác điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt
chẽ, hiệu quả, Luật có quy định liên quan đến việc mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước
tại NHNN. Theo đó về nguyên tắc Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản tại NHNN. Ở

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có
chi nhánh của NHNN, việc thực hiện các giao dịch cho Kho bạc Nhà nước theo quy
định của NHNN. Việc mở tài khoản cho Kho bạc nhà nước ở Ngân hàng nhà nước không
phải mới, nó đã có từ những quy định Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi
2003) nhưng sự khác biệt so với Luật ngân hàng nhà nước năm 1997 (sửa đổi 2003) nằm
ở việc giải quyết giao dịch cho Kho bạc nhà nước ở những địa phương không có chi
nhánh của NHNN.
Ở luật Ngân hàng nhà nước 1997 (sửa đổi 2003) không quy định về việc địa
phương có hay không có chi nhánh của NHNN chỉ quy định “ở huyện, thị xã không phải
là tỉnh lỵ, Kho bạc Nhà nước mở tài khoản tại một ngân hàng thương mại nhà nước”
nghĩa là, Luật cũ chỉ phân cách thực hiện giao dịch của Kho bạc nhà nước qua hệ thống
ngân hàng theo cấp đại phương. Tức từ cấp tỉnh trở lên thì Kho bạc nhà nước sẽ giao dịch
qua NHNN còn ở cấp Huyện, thị xã sẽ giao dịch qua Ngân hàng thương mại.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 22
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Luật Ngân hàng nhà nước 2010 quy định mới cho phần này có sự linh hoạt hơn,
không phân theo cấp địa phương mà chỉ quy định tất cả giao dịch của Kho bạc nhà nước
đều thông qua NHNN, ở những địa phương nào không có chi nhánh của NHNN thì việc
thực hiện giao dịch sẽ do NHNN quyết định. Ta thấy được sự nâng cao thẩm quyền cho
NHNN ở đây. Theo cách quy định của Luật mới thì mọi giao dịch của Kho bạc nhà nước
đều được thông qua hệ thống của NHNN hoặc theo quyết định của NHNN. NHNN được
quyền quyết định cách thực hiện các giao dịch của Kho bạc nhà nước ở nơi không có chi
nhánh của NHNN một cách linh hoạt tùy tình hình chứ không buộc phải thông qua NH
thương mại như theo quy định của luật cũ. Như vậy luật mới vừa gia tăng thẩm quyền
cho NHNN vừa tăng tính linh hoạt của pháp luật.
4. Quy định mới trong hoạt động ngoại hối và quản lý ngoại hối của NHNN
Việc quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà
nước theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về quản lý ngoại
hối. Trong trường hợp việc sử dụng dự trữ ngoại hối làm thay đổi dự toán ngân sách Nhà
nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách là một điểm mới không có ở Luật

Ngân hàng nhà nước cũ. Luật Ngân hàng nhà nước 1997 (sửa đổi năm 2003) đã không
điều chỉnh tình huống này. Ta thấy quy định mới thể hiện được tính thống nhất, toàn diện
trong hệ thống pháp luật và sự phối hợp chắt chẽ giữa các lĩnh vực pháp luật.
Ngoài ra theo quy định mới NHNN cũng chỉ phải báo cáo với Thủ tướng Chính
phủ về tình hình quản lý dự trữ ngoại hối chứ không phải báo cáo cho cả Chính phủ và
Ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định của luật cũ.
Luật ngân hàng nhà nước 2010 cũng quy định thêm một điều khỏng mới không có
ở luật cũ về việc mua, bán ngoại tệ giữa Dự trữ ngoại hối nhà nước với ngân sách nhà
nước: “Thủ tướng Chính phủ quy định mức ngoại tệ Bộ Tài chính được giữ lại từ nguồn
thu ngân sách để chi các khoản chi ngoại tệ thường xuyên của ngân sách nhà nước. Số
ngoại tệ còn lại Bộ Tài chính bán cho Dự trữ ngoại hối nhà nước tập trung tại Ngân hàng
Nhà nước” Quy định này thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước liên
quan trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 23
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
5. Quy định mới trong hoạt động thông tin và báo cáo của NHNN:
Luật quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính
phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng
Trung ương nhằm minh bạch hoá, công khai hoá các quyết định trong điều hành của
mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường.
Bên cạnh đó, NHNN còn có chức năng tham gia tham mưu kinh tế vĩ mô như
Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây
dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt,… nên nguồn thông tin là những dữ liệu rất quan trọng để NHNN xây dựng chính
sách, đánh giá diễn biến thị trường và đưa ra các quyết định. Luật ngân hàng nhà nước
nằm 2010 đã quy định cụ thể nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong việc cung cấp thông
tin, số liệu cho NHNN.
6. Những quy định mới trong lĩnh vực Thanh tra, Giám sát của NHNN
Đầu tiên Luật 2010 mở rộng thẩm quyền thanh tra giám sát của NHNN trong việc
xử lý rủi ro của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, Luật quy định theo hướng khẳng định thẩm

quyền của NHNN trong toàn bộ quá trình giám sát an toàn hoạt động của TCTD từ khâu
cấp phép, xây dựng quy chế an toàn, theo dõi, giám sát hoạt động, can thiệp khi phát sinh
khó khăn và chủ động xử lý khi có nguy cơ đổ vỡ. Bên cạnh đó, các quy định của Luật
NHNN khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh tra, giám sát an toàn hoạt động
ngân hàng với thanh tra hành chính thông thường thông qua việc đưa ra nguyên tắc cho
hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng như sau: Thanh tra, giám sát
ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật NHNN và các quy định khác của pháp
luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân
hàng của Luật NHNN với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật
NHNN; trong đó Thống đốc NHNN quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân
hàng.
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 24
Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Thứ hai, về nguyên tắc thực hiện thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng:
Luật 2010 quy định việc thanh tra, giám sát ngân hàng là sự kết hợp thanh tra, giám sát
việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro
trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng. Luật mở rộng phạm vi giám
sát đối với toàn bộ hoạt động của một TCTD, kể cả các hoạt động thông qua các công ty
con của các TCTD. Thông qua đó, giúp các đối tượng thanh tra làm đúng nguyên tắc,
kiểm soát được hoạt động kiểm soát của NHNN, giảm thiểu trường hợp lạm quyền, gây
cản trở hoạt động cho các đối tượng thanh tra.
Thứ ba thẩm quyền của NHNN trong việc can thiệp, xử lý sớm các TCTD đã được
quy định cụ thể hơn nhằm ngăn chặn kịp thời những khả năng đổ vỡ, cụ thể: NHNN có
thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với TCTD vi phạm nghiêm
trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có
nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của TCTD; đình chỉ,
tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của TCTD; quyết định
sáp nhập, hợp nhất, giải thể TCTD; đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với
TCTD. Ngoài ra, để đảm bảo kỷ luật trong hoạt động ngân hàng, các thể chế và thẩm

quyền của NHNN đối với các TCTD đã được cụ thể hoá rất rõ trong Luật NHNN 2010
7. Một số nhiệm vụ quyền hạn mới đáng chú ý của NHNN
Ngoài những quy định mới cụ thể trong từng lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng nhà nước
thì ở Phần Những quy định chung Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 còn quy
định mở rộng và quy định thêm nhiều ở phần nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng nhà
nước Việt Nam (điều 4) như chức năng tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và
ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng (khoản 7), chức năng đại diện chủ
sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp (khoản 10), quyền quyết định áp dụng biện
pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm quy định pháp luật về tiền tệ và
ngân hàng (khoản 12), phối hợp với các cơ quan hữu quan chống rửa tiền (khoản 13),
Chương III: Những điểm mới của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 25

×