Mục lục
M c l cụ ụ ....................................................................................................................1
M c l cụ ụ ....................................................................................................................1
Lời nói đầu
Trong sự phát triển chung của toàn xã hội, các doanh nghiệp phải đối mặt
với sự cạnh tranh mạnh mẽ, doanh nghiệp phải đứng vững trước sự cạnh tranh
của thị trường nội địa và cả sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong xu thế
toàn cầu hoá nền kinh tế mạnh mẽ như hiện nay không một doanh nghiệp nào có
thể đứng ngoài cuộc. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng vấn đề nâng cao chất lượng quản lý đặc biệt là
chất lượng quản lý nhân lực của doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng,
nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp đảm bảo cho doanh
nghiệp thực hiện thành công những kế hoạch những chiến lược trước mắt và cả
lâu dài.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động theo quy luật
cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một bộ máy quản lý hợp lý, có hiệu quả. Công tác quản lý là công tác quan
trọng đối với doanh nghiệp nó quyết định doanh nghiệp thực hiện kinh doanh có
1
hiệu quả hay không, có tồn tại và phát huy được sức mạnh cạnh tranh của mình
hay không. Do đó doanh nghiệp cần phải coi trọng của mình.
Chất lượng của đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp cả về tay nghề, kiến
thức, kinh nghiệm có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải xác định được cho mình quy mô hợp lý, yêu
cầu đòi hỏi về trình độ, tay nghề của người lao động đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
Hiện nay các doanh nghiệp có rất nhiều thuận lợi trong việc tuyển chọn
lao động vì hiện nay đội ngũ lao động được đào tạo chuyên môn lành nghề
chiếm số lượng khá đông là nguồn cung cấp kịp thời cho nhu cầu nhân lực của
các doanh nghiệp.
Chất lượng nhân lực là mức độ đáp ứng, phù hợp của cơ cấu nhân lực
hiện có với cơ cấu nhân lực cần thiết (cần phải có cho hoạt động sản xuất đạt
hiệu quả cao). Đây là lực lượng quyết định sức sáng tạo của doanh nghiệp, quyết
định năng lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xây dựng cho mình một cơ cấu
nhân lực quá cồng kềnh so với nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp thì hiệu
lực quản lý kém, khi cần chuyển đổi hoạt động sẽ gặp rất nhiều khó khăn, chi
phí quản lý cao dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.
PHẦN I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC CỦA DOANH
NGHIỆP.
1.1Hoạt động của doanh nghiệp và nhân lực đối với hoạt động của doanh
nghiệp trong kinh tế thị trường.
1.1.1. Bản chất và mục đích của hoạt động của doanh nghiệp trong kinh tế thị
trường.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh, là tổ chức làm kinh tế. Doanh nghiệp có
thể kinh doanh sản xuất, kinh doanh thương mại, kinh doanh dịch vụ. Doanh
nghiệp kinh doanh sản xuất có thể chế tạo, lắp ráp một số sản phẩm hoàn chỉnh
2
hoặc một số sản phẩm hoàn chỉnh; một hoặc một số cụm chi tiết, một hoặc một
số công đoạn.....Trong kinh tế thị trường Doanh nghiệp hoạt động là vận dụng
các nguồn lực cạnh tranh với các đối thủ, các yếu tố đầu vào, phần nhu cầu thị
trường, lợi nhuận, các lợi ích từ các hoạt động kinh doanh nhằm thoả mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển. nếu cạnh tranh thành công thì doanh nghiệp sẽ có được
chỗ
đứng vững chắc trên thị trường để tồn tại và phát triển, ngược lại thì đổ vỡ
phá sản
bản chất hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là quá
trình tìm hiểu, biết cách đầu tư các nguồn lực cạnh tranh với các đối thủ nhằm
thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như hoạt động bất kỳ nào khác của con người có mục đích đạt được hiệu
quả cao nhất . Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là kết quả tương quan, so
sánh những lợi ích doanh ngiệp thu được từ hoạt động của mình với phần các
nguồn lực huy động, sử dụng (chi phí) để đạt được (có được) những lợi ích đó.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phải ở cả dạng tuyệt đối và tương đối, tức
là phải lấy kết quả (lợi ích) trừ đi chi phí và lấy kết quả lợi ích chia cho chi phí.
Về mặt kinh tế hiệu quả tuyệt đối là lãi; hiệu quả về mặt tương đối là lãi trên
tổng vốn kinh doanh (tổng tài sản), lãi trên chi phí. Hiệu quả kinh doanh hàng
năm phải được đánh giá kết hợp cả ba mặt: kinh tế, chính trị - xã hội và môi
trường.
trong kinh tế thị trường m ọi doanh nghiệp đều bình đăng được tự do kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, nó hoạt động chủ yếu theo quy luật cạnh tranh đáp
ứng nhu cầu hàng hoá. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường
phải luôn chấp nhận sự cạnh tranh đó chính là sự giành giật thị trường, khách
hàng, đối tác trên cơ sở các ưu thế về chất lượng hàng hoá, giá hàng hoá, thời
hạn, sự thuận tiện và uy tín lâu dài. Trong kinh tế thị trường phương pháp quản
lý hiện đại và tiến bộ khoa học công nghệ là hai vũ khí cạnh tranh sắc bén.
Doanh nghiệp nào tụt hậu trong hai lĩnh vực đó là có nguy cơ thất bại trong cạnh
tranh và điều tất yếu là dẫn đến phá sản . Do vậy, trong kinh tế thị trường các
doanh nghiệp thường chủ động trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ,
phương pháp quản lý hiện đại cũng như việc đầu tư cho nghiên cứu, triển khai
để tạo ra các lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
3
1.1.2. Bản chất, các loại và vị trí vai trò của nhân lực đối với hoạt động của
doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ khả năng lao động mà doanh nghiệp
cần huy động được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài của doanh nghiệp.
Nhân lực của doanh nghiệp chính là sức mạnh của lực lượng lao động; sức
mạnh của độ ngũ cán bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp. Sức mạnh đó là
sức mạnh hợp thành của sức người và khả năng lao động của từng người lao
động. Khả năng lao động của một người là khả năng đảm nhiệm, thực hiện, hoàn
thành công việc bao gồm các nhóm yếu tố: sức khỏe (nhân trắc, độ lớn và sức
bền...), trình độ (kiến thức và kỹ năng kinh nghiệm), tâm lý, mức độ cố gắng...
Hay nói cách khác nhân lực của một con người gồm thể lực và trí lực. Về mặt
thể lực, nó phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của con người, mức sống, thu
nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ y tế chăm sóc sức
khoẻ...thể lực của con người còn phụ thuộc vào tuổi tác, thời gian công tác, giới
tính...; Nguồn trí lực tăng nhanh cùng với sự phá của con người còn có mặt tiềm
tàng to lớn đó là trí tuệ, tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, nhân cách,
lòng tin...ngày nay tiềm năng về trí lực của con người đã được chú ý khai thác
nhưng vẫn đang ở một mức độ giới hạn.
Nhân lực của doanh nghiệp là yếu tố đầu vào độc lập, quyết định chất lượng,
chi phí, thời hạn của các sản phẩm trung gian, sản phẩm bộ phận và sản phẩm
đầu ra của doanh nghiệp. Điều đó hoàn toàn được khẳng định bởi: tất cả các hoạt
động của doanh nghiệp do con người thực hiện và quay trở lại phục vụ cho con
người.Con ngươid phân tích, dự báo nhu cầu thị trường, các đối thủ cạnh tranh
quyết định chiến lược, kế hoạch, phương án kinh doanh: sản phẩm - khách hàng
với chất lượng và số lượng xác định; con người sáng tạo, chuyển giao công
nghệ, vận hành máy móc, thiết bị và không ngừng cải tiến, hiện đại hoá máy
móc thiết bị; con người xác định nhu cầu vốn, nhu cầu vật tư, nhu cầu lao động
và đảm bảo các đầu vào quan trọng đó.
Trong giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay của đất nước ta, việc
nghiên cứu đánh giá đầy đủ nguồn lực con người Việt Nam, nghiên cứu các yếu
tố để tạo điều kiện để con nguời tích cực đào luyện và thể hiện năng lực sáng tạo
là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiến lược. nhân lực đóng vai trò quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến các kế hoạch trước mắt và các nhiệm vụ lâu dài của doanh
nghiệp.
4
Theo tính chất của lao động, hoạt động của doanh nghiệp được tánh lập, phân
định thành: loại lao động trực tiếp kinh doanh (sản xuất hoặc mua bán hàng
hoá), quản lý kinh doanh và phục vụ cho những người quản lý và cho những
người trực tiếp kinh doanh. Khả năng lao động của doanh nghiệp theo cách phân
loại này phải có lượng và chất đáp ứng, phù hợp với yêu cầu thực tế hiện tại,
tương lai. Ba loại người này phải có quan hệ tỷ lệ (cơ cấu) hợp lý,có sức mạnh
hợp thành lớn nhất.
Theo giai đoạn của quá trình hoạt động của doanh nghiệp được tách lập, phân
định thành: loại nghiên cứu đưa ra các ý tưởng, thiết kế và thi công. Khả năng
lao động của doanh nghiệp theo cách phân loại này phải có lượng và chất đáp
ứng, phù hợp với yêu cầu thực tế hiện tại, tương lai. Ba loại người này phải có
quan hệ tỷ lệ (cơ cấu) hợp lý,có sức mạnh hợp thành lớn nhất.
bên cạnh cách phân loại như trên người ta còn phân loại khả năng lao động
của doanh nghiệp theo giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn...
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp cần chú trọng đặc biệt vào các
chính sách nhằm thu hút nhân lực đồng thời có hướng sử dụng nguồn nhân lực
một cách hiệu quả và hấp dẫn hơn các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay các doanh
nghiệp có rất nhiều thuận lợi trong việc tuyển chọn lao động vì hiện nay đội ngũ
lao động được đào tạo chuyên môn lành nghề chiếm số lượng khá đông là nguồn
cung cấp kịp thời cho nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp.
Qua những phân tích trên ta thấy nhân lực có vị trí và vai trò quan trọng đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty TNHH Tân Sinh trong những năm vừa qua cho
thấy người lao động trong doanh nghiệp được coi là tài nguyên nhân sự, là yếu
tố quan trọng nhất, là động lực của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy,
công tác hoạch định giúp doanh nghiệp thấy được nhu cầu nguồn nhân lực phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó bảo đảm sắp xếp
đúng người cho đúng việc, vào đúng thời điểm cần thiết và linh hoạt đối phó với
những thay đổi trên thị trường. Thừa nhân viên sẽ làm tăng chi phí, thiếu nhân
viên hoặc chất lượng nhân viên không đáp ứng yêu cầu sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng thực hiện công việc và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Có thể kể ra các nguyên
nhân đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành công tác để đảm bảo nguồn nhân lực:
5
Thứ nhất, lập kế hoạch gắn nguồn nhân lực và tổ chức lại với nhau. Trong
điều kiện kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp sản
xuất hàng may mặc phải đưa ra những quyết định cạnh tranh theo những cách
khác nhau như: giảm giá hàng hoá và dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ,
tăng cường khuyến mãi... Tuy nhiên lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp giành
được ở đây hoàn toàn phụ thuộc vào con người trong tổ chức đó. Doanh nghiệp
cần phải tin rằng con người là chìa khoá dẫn đến mọi thành công. Việc lập kế
hoạch chính là tạo ra sự liên kết giữa việc tuyển chọn kỹ hơn, đào tạo nhiều hơn
cho người lao động, trả lương cao hơn để họ có thu nhập ổn định hơn... từ đó,
giúp doanh nghiệp đạt được năng suất lao động cao hơn bằng cách làm cho mọi
người đều tham gia và hứng thú với các công việc của mình.
Thứ hai, lập kế hoạch để liên kết các hành động với các kết quả của nhân lực.
Nếu không có kế hoạch, doanh nghiệp sẽ không thể biết được có đi đúng hướng
hay không. Các hoạt động về lập kế hoạch nhân sự có thể được đánh giá bằng
việc sử dụng chính các mô hình như các trường hợp đầu tư vào các cơ sở sản
xuất mới, những chiến dịch marketing hay những công cụ tài chính. Cũng giống
như những trường hợp đầu tư này, các hoạt động nhân sự tiêu hao đầu vào như
thời gian, tiền bạc, vật tư và sự tham gia của người lao động. Các chi phí của
những hoạt động nhân sự là nguồn tài nguyên cần thiết để tiến hành hạot động
đó. Những chi phí này có thể là chi phí đào tạo, chi phí điều hành và quản lý...
Thứ ba, lập kế hoạch nhân lực cho phép nhìn nhận rõ các bộ phận hoạt động
có ăn khớp với nhau không, đồng thời giải đáp cho doanh nghiệp những vấn đề
như: nguồn nhân lực có phù hợp với chiến lược không, nguồn nhân lực có đảm
bảo lợi thế cạnh tranh và duy trì được lâu dài lợi thế cạnh tranh đó hay không...
Nhìn chung, các doanh nghiệp nên quan tâm vào các nội dung chủ yếu như
tuyển dụng, đào tạo và trả lương cho người lao động sao cho họ có thể sáng tạo ra
những sản phẩm hoàn hảo nhất, cạnh tranh được với các sản phẩm của đối thủ,
bất kể các điều kiện tương lai như thế nào. Để làm được như vậy doanh nghiệp
cần phải chú trọng tới các đặc điểm chung của con người như khả năng sáng tạo,
trí thông thông minh, tính ham hiểu biết, có thể tin cậy được và tận tuỵ với tổ
chức. Điều này sẽ dẫn đến những chiến lược sáng suốt và hiện thực trong tương
lai. Mặt khác, việc tìm ra cách thức tốt nhất để đánh giá đúng năng lực hoàn thành
6
công việc của nhân viên để thực hiện trả công và đãi ngộ xứng đáng, để nhân viên
gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, tích cực tích luỹ kinh nghiệm, phát huy sáng
kiến trong công việc để cống hiến cho doanh nghiệp và cũng chính là để nâng cao
lợi ích của chính bản thân họ.
1.2. Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp
1.2.1. Bản chất, cần thiết phải đảm bảo và phương pháp nhận biết đánh giá chất
lượng nhân lực của doanh nghiệp.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ đáp ứng, phù hợp về chất
lượng nhân lực theo các loại cơ cấu mà doanh nghiệp thu hút, huy động được
với chất lượng nhân lực theo các cơ cấu nhân lực đó mà hoạt động của doanh
nghiệp yêu cầu. Như vậy cần làm rõ chất lượng nhân lực theo các cơ cấu mà
hoạt động của doanh nghiệp yêu cầu cũng như chất lượng nhân lực theo các cơ
cấu mà doanh nghiệp thu hút, huy động được và chỉ ra mức độ chênh lệch giữa
chúng.
Thực tế luôn chỉ rõ rằng, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp cao đến đâu
thì hoạt động của doanh nghiệp trôi chảy đến đó; năng lực cạnh tranh của sản
phẩm cao đến đó...
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tiến hành một loạt các hoạt
động một cách khoa học nhất. Công việc nào cũng do con người đảm nhiệm,
hoạt động nào của doanh nghiệp cũng do con người tiến hành. Sản phẩm đầu ra
của doanh nghiệp do một đội ngũ người lao động lo liệu tạo ra. Đa số người lao
động ở doanh nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách say mê, sáng
tạo khi họ có trình độ cao và được tạo động cơ, tức là khi có cơ chế, chính sách
sử dụng hấp dẫn, đảm bảo hài hoà lợi ích. Khi đông đảo người lao động làm việc
say mê, sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp mới có vị thế cạnh tranh tốt về chất
lượng, giá, thời hạn, thuận tiện so với các đối thủ cạnh tranh. Khi sản phẩm đầu
ra có vị thế cạnh tranh tốt doanh nghiệp có doanh thu bằng các đối thủ nhưng có
tổng chi phí của doanh thu đó thấp hơn hoặc với cùng chi phí doanh nghiệp có
doanh thu cao hơn, tức là hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong kinh tế thị trường tập
thể doanh nghiệp cần có hiệu quả kinh tế cao bền vững, nghĩa là doanh nghiệp
phải đầu tư thoả đáng cho việc đảm bảo môi trường và mặt chính trị - xã hội.
7
Chỉ khi có môi trường chính trị - xã hội , môi trường tự nhiên, môi trường lao
động ổn định tốt lành doanh nghiệp mới duy trì, phát triển được hoạt động kinh
doanh, đạt hiệu quả kinh tế cao, bền vững. Để đạt hiệu quả kinh tế cao bền lâu
doanh nghiệp lại càng phải có đội ngũ cán bộ công nhân viên mạnh đồng bộ.
Như vậy, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp quyết định chất lượng của các
yếu tố đầu vào, chất lượng của sản phẩm trung gian, chất lượng của sản phẩm
đầu ra, khả năng cạnh tranh của sản phẩm đầu ra và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Càng chuyển sang kinh tế thị trường cạnh tranh giành giật người
tài: chuyên gia quản lý gồm quản lý chiến lược và quản lý điều hành; chuyên gia
công nghệ, thợ lành nghề càng quyết liệt.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá bằng cách
xem xét phối hợp kết quả đánh giá từ ba phía: mức độ đạt chuẩn, chất lượng
công việc và hiệu quả hoạt động của cả tập thể:
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp bằng cách đo
lường theo các tiêu chuẩn và so với mức chuẩn của từng tiêu
chuẩn;
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp bằng cách điều
tra, phân tích chất lượng các công việc được phân công đảm
nhiệm;
- Đánh giá chất lượng nhân lực của doanh nghiệp dựa vào hiệu quả
hoạt động của cả tập thể.
Đánh giá mức độ đạt chuẩn chất lượng bằng nhiều cách tiếp cận sau:
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu giới tính;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu khoảng tuổi;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu trực tiếp - quản lý - phục vụ;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu ba lực lượng chủ chốt: nghiên
cứu đưa ra ý tưởng - thiết kế - thi công;
- Chất lượng nhân lực theo cơ cấu trình độ chuyên môn trong từng
ngành nghề ...
8
Để có dữ liệu cho việc tính toán các chỉ tiêu phân tích, so sánh. đánh giá
chất lượng nhân lực của doanh nghiệp cần thống kê toàn bộ nhân lực, tức là tập
hợp từng người của doanh nghiệp về: họ và tên - năm sinh - giới tính - quá trình
đào tạo, bồi dưỡng - Quá trình đảm nhiệm từng công việc chuyên môn và thành
tích đáng kể - công việc chuyên môn chính, chức vụ hiện nay .
1.2.2. Các yếu tố tạo nên, ảnh hưởng (nhân tố) đến chất lượng nhân lực của
doanh nghiệp.
- Một là :Chính sách thu hút và sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Thực chất chính sách này là phương án phân chia lợi ích giữa sử dụng lao
động, người lao động và các bên có liên quan nhằm có đủ nhân lực đảm
bảo chất lượng để sử dụng và sử dụng tốt nhất, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các mục tiêu, chủ trương hoạt động của cả doanh nghiệp.
- Hai là :Chính sách và tổ chức trả công cho những người có công với
doanh nghiệp. Thực tế ở tất cả các doanh nghiệp người ta chỉ làm việc
(lao động) tích cực sáng tạo khi được đảm bảo đồng thời: công việc có nội
dung phù hợp và thu nhập (đem lại lợi ích) hấp dẫn. Đồng thời việc tổ
chức chi trả cho những người có công với doanh nghiệp phải đảm bảo
tương đối công bằng, hài hoà lợi ích, theo tỷ lệ tham gia đóng góp. Khi
doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu nêu trên có sức thu phục người lao
động to lớn, làm cho họ tích cực sáng tạo, thực hiện tốt các nhiệm vụ
được giao, góp phần quan trọng tạo nên ưu thế cạnh tranh của sản phẩm
đầu ra, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phòng ngừa các xung
đột.... người lao động sẽ yên tâm công tác và cống hiến cho doanh nghiệp.
- Ba là: Chính sách và tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho người lao
động ở doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn có chất lượng nhân lực cao cần
phải đầu tư cho để nâng cao chất lượng đào tạo. Đào tạo một cách bài bản,
khoa học, theo cơ cấu kiến thức và cách thức thích hợp. Cần lựa chọn đào
tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên quản lý một cách đồng bộ về
cả số lượng và chất lượng. Hơn thế nữa, đào tạo nâng cao trình độ cho
công nhân trong điều kiện sản xuất công nghệp phát triển là một việc làm
vô cùng quan trọng và phức tạp. người công nhân có trình độ cao là người
lao động theo phương pháp tiên tiến; giỏi nghề chính, biết thêm nhiều
nghề khác; thâm nhập nhanh để vận hành được máy mới; tích cực tham
gia cải tiến, sáng kiến kỹ thuật, phương pháp công tác; không làm hỏng
máy móc; không gây ra hỏng hóc máy móc, sản phẩm, chất lượng lao
động đạt được cao, tiết kiệm chi phí vật tư.
9
- Bèn là:Môi trường lao động là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên
chất lượng lao động. Môi trường lao động gồm các nhiều nhóm yếu tố
hợp thành như: vi khí hậu, vệ sinh – y tế, thẩm mỹ, không khí tập
thể...Trong qá trình lao động, khi bị tác động bởi những yếu tố không
thuận lợi, con người phải chịu những tổn thất sinh lực to lớn, bị mệt mỏi
nhiều... dẫn đến khả năng lao động và kết quả lao động giảm và ngược lại
một môi trường lao động thoải mái sẽ mang lại hứng khởi cho người lao
động, dẫn đến kết quả kinh tế của công việc cao.
- Năm là :Sự phân công lao động một cách khoa học phù hợp cũng sẽ làm
chất lượng nhân lực của doanh nghiệp tăng. Ngày nay, trong sản xuất kinh
doanh điều rất trọng yếu là phải xác định được yêu cầu về sự tham gia của
con người vào từng công việc cụ thể và trong toàn bộ. Giải quyết tốt vấn
đề đó không chỉ cung cấp dữ kiện quan trọng cho việc chuẩn bị và sử
dụng lực lượng lao động, mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn
thành từng công việc và toàn bộ công việc với chi phí ít nhất, để đảm bảo
chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng.
- Sáu là:Tổ chức luân đổi lao động với nghỉ ngơi nhằm ngăn ngừa mệt mỏi
quá mức, đảm bảo cho người lao động đạt kết quả cao bền lâu. Trong thực
tế có trường hợp người lao động nhằm có cái để sống, nhưng lại huỷ hoại
sự sống ngay khi lao động. Lao động không hợp lý, không có sự luân đổi
nghỉ ngơi một cách khoa học đem lại hiệu quả lao động và chất lượng lao
động thấp. Nghỉ ngơi nên được xen kẽ hợp lý với lao động là sự cần thiết
khách quan. Do vậy doanh nghiệp cần xây dựng và áp dụng chế độ luân
đổi giữa lao động và nghỉ ngơi hợp lý, khoa học góp phần nâng cao chất
lượng nhân lực của toàn doanh nghiệp.
ngoài ra ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực của doanh nghiệp gồm cả những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác như:
- Do thiếu kiến thức, kinh nghiệm về kinh tế thị trường; chậm tổ chức đào tạo,
đào tạo lại về chuyên môn, kiến thức kinh tế và quản lý cả về nội dung, chương
trình, thời gian.
- Cơ chế, chính sách về nguồn nhân lực còn thiếu đồng bộ chưa tạo động lực
mạnh mẽ để chuyển biến, cải thiện chất lượng nhân lực của doanh nghiệp.
- Nguồn nhân lực mới bổ sung, phần lớn từ nông thôn bị sự chi phối, tác động
của tâm lý sản xuất nhỏ, của thói quen tiểu nông.
- Ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ công nhân viên có nhiều mặt mạnh, nhưng
đồng thời còn không ít những mặt yếu kém. Nhiều doanh nghiệp sản xuất công
10