Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

KINH NGHỊÊM SỌAN GIẢNG ĐẠT HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.19 KB, 14 trang )

KINH NGHỊÊM SỌAN GIẢNG
ĐẠT HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY
I- LÝ DO TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ:
a) Lý do:
Lập kế họach bài học hay còn gọi là sọan giáo án, soạn bài lên lớp là công
việc bắt buộc cho tất cả giáo viên trước khi lên lớp phải thực hiện. Sọan bài lên
lớp chuẩn bò cho việc dạy và học của thầy và trò trong một đơn vò thời gian theo
PPCT nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo.
Lập kế họach bài học tuy là công việc bắt buộc phải thực hiện đối với mỗi
giáo viên trước khi lên lớp, nhưng cho đến nay công việc này thường được giáo
viên hiểu rất khác nhau. Có giáo viên cho rằng lập kế hoạch bài học phải nhất
thiết theo một mẫu cố đònh, có giáo viên khác cho rằng đó chẳng qua chỉ là sự
tóm tắt nội dung SGK, thậm chí chép lại SGK cũng được. Một số giáo viên
khác lại photo hoặc chép lại bài soạn đã có sẵn để lên lớp.
Trong khi đó phương pháp dạy học tích cực đã và đang được nhiều giáo viên
áp dụng đòi hỏi phải có sự đổi mới cách lập kế họach bài học theo hướng chỉ ra
một hệ thống các hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm giúp học sinh tự
tìm kiếm, khám phá, giải quyết vấn đề đi đến mục tiêu bài học. Gần đây, có
giáo viên cho rằngviệc sọan giáo án là hình thức, là một việc làm vô bổ, tốn
nhiều thời gian, có người yêu cầu bỏ công đọan này giảm công đọan kia trong
giáo án; thậm chí có ý kiến cho rằng nên bỏ hẳn việc soạn giáo án. Để hiểu sâu
và đúng vấn đề với tinh thần “Đổi mới giáo dục”. Hôm nay trường THCS Nhơn
Mỹ 2 tổ chức hội nghò chuyên đề bàn về “Đổi mới phương pháp sọan giáo án”,
mong rằng qua chuyên đề này, với ý kiến đóng góp xây dựng của quý thầy cô
sẽ góp nhặt những kinh nghiệm quý báu, xây dựng thống nhất “chuẩn” giáo án
chung cho nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho đòa phương
nhà.
b) Bàn về giáo án:
* Về khái niệm giáo án: là bài sọan của giáo viên để lên lớp giảng dạy (từ
điển tiếng Việt-NXBKHXH, Hà Nội 1994), không dùng với nghóa: “kế họach
bài dạy” hoặc “thiết kế bài giảng”


Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
* Về mặt nguyên tắc: giáo án là lọai hồ sơ bắt buộc đối với giáo viên
(Điều lệ trường trung học), Nhằm nhắc nhở nếu không muốn nói là “buộc”
người giáo viên phải chuẩn bò trước khi lên lớp; mặt khác đó là cơ sở căn cứ để
các cấp quản lý giáo dục kiểm tra đánh giá việc chuẩn bò của giáo viên.
* Về chuyên môn: đã là giáo viên được đào tạo bài bản ở trường sư phạm
và được tập huấn bồi dưỡng trong hè.
* Về phương tiện: giáo viên luôn có trong tay SGK do bộ GD_ĐT ban
hành, SGV do những chuyên gia hàng đầu của ngành biên sọan để tham khảo
trong việc sọan giảng.
* Về thực tiễn: có giáo án tốt chưa hẵn đã dạy tốt mà tiết dạy tốt phần lớn
phụ thuộc vào năng lực thực sự của ngøi giáo viên lên lớp; không ít trường
hợp giáo viên chép giáo án của đồng nghiệp hoặc trong sách bài soạn để đối
phó thanh, kiểm tra.
* Về chuẩn bò: để có bài sọan tốt giáo viên thường thực hiện qua các bước:
+ Nghiên cứu bài trong SGK, SGV và các sách tham khảo khác, xác
đònh mục tiêu bài dạy.
+ Lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức dạy học thích hợp, chuẩn bò
đồ dùng dạy học.
+ Chuẩn bò sắp xếp hệ thống câu hỏi một cách logic.
c) Tiêu chí để bình chọn giáo án:
Một giáo án tốt, phải giải đáp được 4 vấn đề sau:
1. Có đề ra được mục tiêu bài học một cách cụ thể, vừa đáp ứng được
yêu cầu của chương trình, vừa phù hợp với trình độ thực tế của học sinh (tính
mục đích)
2. Có tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực 50% thời lượng tiết học trở
lên, theo hướng mục tiêu cuả bài học (tính tích cực)
3. Nhìn từ gốc độ cuả người đứng lớp, giáo án này có thực hiện được
không? Có vận dụng được không? (tính thiết thực)
4. Nếu giáo án được thực hiện suôn sẻ thì có thể đánh giá mục tiêu bài

học thể hiện ở học sinh không? (tính hiệu quả)
Giải thích:
* Tiêu chí 1:
Thể hiện tính mục đích cuả bài học. Đích là nơi phải đến, học xong bộ môn
này hs phải đạt tới chỗ nào. Trên đường đi tới đích, phải hoàn thành từng
chặng, mỗi chặng cấm một cọc tiêu. Đó chính là chuẩn chương trình cuả từng
lớp, từng cấp. Để đạt chuẩn cuả từng lớp, từng cấp thì mỗi bài học phải cấm
được một cọc tiêu, xác nhận đã đạt đến chỗ ấy. Đó chính là mục tiêu bài học,
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 2
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
hoặc nêu chung chung, hoặc nêu to tát quá đều làm cho tiết lên lớp mất
phương hướng, kém hiệu quả.
* Tiêu chí 2:
Có mục tiêu rồi thì vấn đề quan trọng đạc biệt là cách đạt mục tiêu. Phải
lựa chọn những họat động nào bám sát mục tiêu mà các em thực hiện. Thầy
giáo nói nhiều dàn trãi, tổ chức các họat động thiếu chọn lọc . . .đều dẫn tới bài
học xa rời mục tiêu hoặc đi chệch hướng. Khi nói thời lượng của trò chiếm 50%
trở lên thì không có nghóa có thầy họat động dưới 50% thời lượng. Mà tốt nhất
thầy và trò hoạt động tích cực. Thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe cũng là
thầy trò cùng họat động nhưng không tích cực, bởi vì trò thụ động. Thầy đàm
thọai với trò cùng đàm thọai với trò, đến từng nhóm gợi ý thảo luận . . .như vậy
hoạt động của thầy có thể trên 50% và hoạt động của trò cũng chiếm trên 50%
thời lượng tiết học. Nếu một tiết học mà từ đầu đến cuối, thầy trò cùng trao đổi
bàn luận theo mục tiêu bài học và khi đối chiếu với mục tiêu bài học để đánh
giá, học sinh đạt chuẩn ở cả ba mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ . . . thì đó là tiết
học lý tưởng, thầy họat động 100% thời lượng, trò họat động 100% thời lượng,
không có trò họat động 80% thì thầy chỉ hoạt động 20% thời lượng thôi. Họat
động dạy và họat động học luôn tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và nâng
cao hiệu quả của nhau. Nếu thầy cứ độc diễn, tức là tác động một phía thì giả
dụ nói đâu hiểu đấy, kiến thức trò thụ động tiếp nhận vẫn là kiến thức vai

mượn, không biến thành của riêng và rất khó sử dụng.
* Tiêu chí 3:
Giáo án là kế họach thực hiện bài học ở trên lớp. Một giáo án tốt, phải
được những người trực tiếp đứng lớp thừa nhận có thể vận dụng được. Thật ra
đối các thầy giáo lành nghề, giáo án không cần soạn công phu, chỉ cần mấy cái
gạch đầu dòng, ghi lại những ý tưởng mới, những thủ pháp sư phạm đắt giá, để
phòng lúc lên lớp bò quên. Những suy nghó mới mẻ cần được thể hiện:
- Một là tính sáng tạo. Thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học, tìm ra cách thực hiện tối ưu mục tiêu bài học, không chỉ ở trong lớp mà có
thể ở mọi môi trường giáo dục khác, có thể tự làm ĐDDH hoặc hướng dẫn học
sinh làm ĐDDH thay thế cho những thứ gợi ý trong SGV mà lại dễ kiếm hơn, rẻ
tiền hơn. Hơn thế có thể thay thế nội dung SGK bằng một nội dung giáo viên tự
soạn mà khả năng đạt hiệu quả cao hơn.
- Hai là tính thiết thực: Mọi sự đổi mớùi nội dung, hình thức và phương pháp
sọan giáo án chỉ có ý nghóa khi giáo án thể hiện hoặc vận dụng để tiến hành
một tiết học. Một giáo án được sọan rất công phu, bởi người soạn đầy tâm
huyết, nhưng nếu ứng dụng khó khăn thậm chí không thực hiện được thì chưa
thể coi là một giáo án tốt.
* Tiêu chí 4:
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 3
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
Một giáo án tốt phải thể hiện được tinh thần đổi mới trong kiểm tra
đánh giá, cụ thể với một tiết học là đánh giá xem học sinh có đạt mục tiêu bài
học không. Tuy nhiên không phải đến cuối tiết mới đưa ra mấy bài tập hoặc
câu hỏi mà có thể tiến hành kiểm tra việt thực hiện mục tiêu bài học trong suốt
quá trình tiết học diễn ra. Bởi vì kết quả thực hiện mục tiêu bài học không phải
chỉ là kết quả của bài học hôm ấy mà là kết quả của một quá trình học tập,
không phải chỉ kết quả dạy của thầy mà còn là kết quả tích lũy kinh nghiệm
sống của trò, do đó mới có hiện tượng “chưa dạy các em đã hiểu”. Những bài
tập, những câu hỏi đánh giá việc thực hiện mục tiêu bài học nên có dấu hiệu

riêng (ví dụ viết mực đỏ hoặc gạch chân); nên ra dưới dạng trắc nghiệm để dễ
thống kê, hoặc ra dưới dạng câu hỏi kích thích học sinh tự bộc lộ sự hiểu biết,
kỹ năng và thái độ. Bài tập ấy có thể thực hiện ở giữa tiết học, cuối tiết học
hoặc về nhà. Bởi vì có những bài học đòi hỏi học sinh phải đầu tư thêm thời
gian và công sức ở nhà nữa mới hoàn chỉnh mục tiêu.
II- THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Trong công tác giảng dạy, người giáo viên phải tốn nhiều công sức, tâm
huyết để truyền thụ kiến thức đến người học. Để thực hiện tốt điều này mỗi
giáo viên phải thiết kế cho mình một đề án (gọi là giáo án) thật cụ thể, thật
khoa học trước khi lên lớp. Đây là công việc khá nặng nhọc, tốn nhiều thời
gian. Thực tế, để giảng dạy thành công một tiết lên lớp với thời lượng là 45
phút thì giáo viên phải bỏ ra ít nhất là 120 phút để nghiên cứu và soạn bài
giảng.
Tuy nhiên không phải tiết dạy nào cũng thành công theo ý muốn. Có nhiều
nguyên nhân:
- Chủ quan: Giáo viên phần lớn chưa nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy. Còn
hiện tượng dựa vào sách tham khảo (thiết kế bài giảng), lệ thuộc SGV. Kiến
thức bản thân chưa sâu nên phần đông giáo viên chỉ sọan bài qua loa, hình thức
tóm tắt nội dung SGK. Năng lực sư phạm hạn chế, chưa nắm bắt – hiểu rõ đối
tượng người học; còn quan điểm giáo dục theo kiểu đồng nhất, “đánh đổng”
người học. Chưa xác đònh được yêu cầu người học; chỉ thực hiện cho hết bài hết
giờ. Chưa nắm vững phương pháp đặc trưng của từng môn. Chưa thật chú ý mục
tiêu đề ra trong mỗi chương, mỗi bài; mục đích giáo dục của từng môn, từng tiết
học. Thực tế cho thấy có nhiều giáo viên nếu không có SGV, sách tham khảo
thì không soạn được giáo án hoặc nếu có sọan được thì cũng tóm tắt nội dung
SGK. Công việc này học sinh phần lớn tự làm được. Giáo viên ngoài việc tham
gia công tác giảng dạy, còn phải lo gánh vác việc gia đình với muôn vàn khó
khăn trong thời buổi kinh tế thò trường; một số giáo viên lương tâm nghề nghiệp
chưa cao.
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 4

Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
- Khách quan: Đối tượng người học hiện nay rất phức tạp, mất căn bản từ
các lớp dưới, bò ảnh hưởng nhiều bởi các tện nạn xã hội. Đòa bàn các vùng nông
thôn sâu, người dân chưa thấy được tầm quan trọng việc học tập của con em.
Hòan cảnh kinh tế ảnh hưởng khá lớn đối với việc học tập của học sinh. Điều
kiện cơ sở vật chất, trang thiết bò phục vụ cho cho dạy và học chưa được đâu tư
đúng mức, hợp lý. Học sinh chưa xác đònh đúng đắn thái độ, động cơ học tập.
Học sinh chưa được hướng dẫn cách học. Vai trò của người thầy đôi khi chưa
được quan tâm xem trọng. Các bậc cha mẹ thường giao trách nhiệm gần như
hòan tòan về giáo dục học sinh cho giáo viên.
III- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Thực hiện nghò quyết 40/QH10 của Quốc hội, Chỉ thò số 14/2001/CT-TTg của
thủ tướng chính phủ về Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, chỉ thò 40 của
ban bí thư TW: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bô quản lý giáo
dục . Thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược: Giáo dục là quốc sách, là chiến lược
phát triển con người. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của ngành giáo dục đào
tạo thì việc quan trọng nhất là làm tốt công tác giáo dục, giảng dạy cho học
sinh trong trường phổ thông.
Với thực trạng như trên, một vấn đề bức xúc là làm thế nào để mỗi giáo viên
có điều kiện sọan giảng tốt mọi giáo án, thực hiện thành công 80% tổng số tiết
dạy trong năm học. Thiết nghó phải có một hướng giải quyết khá cụ thể trong
việc sọan giảng nhằm làm thế nào đảm bảo chất lượng tiết dạy, đạt hiệu quả
giáo dục qua tiết dạy, giữa giáo viên và học sinh hình thành sự hứng thú và
niềm đam mê trong học tập.
1. Hình thức giáo án:
Giáo án là công trình nghiên cứu của giáo viên trước giờ lên lớp. Là sản
phẩm trí não, là đứa con tinh thần của giáo viên. Do đó một giáo án tốt trước
tiên phải có hình thức thẩm mỹ. Phải có vò trí, bố cục hợp lý cho từng phần:
Tuần, tiết, tựa bài, các đề mục, cách chia cột, chữ viết , hình vẽ . . .
Tuần phải ghi trước bằng chữ in, tiết theo PPCT ghi hàng tiếp theo bằng chữ

thường, ngày dạy ghi hàng tiếp theo bằng chữ thường (đầu dòng phải viết hoa).
Tất cả ba mục này nên nằm ở vò trí góc trái phía trên của trang giáo án, nên
đònh chừa lề đầu- lề ngoài cho giống nhau trong từng bài soạn.
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 5
TUẦN: 25
Tiết: 50
Ngày dạy: 12/03/2007
Sử dụng bảng
phụ
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
Tựa bài nên dùng mực màu khác, viết to rõ bằng chữ in hoa, canh vào giữa
dòng của trang đầu giáo án. Nên dự kiến số từ của tựa bài để tính toán khỏang
cách hai bên cho đều; hoặc nếu tựa bài quá dài thì phải có tính hợp lý, logic khi
cắt từ ngữ xuống dòng 2, dòng 3. Đóng khung hoặc trang trí tùy khả năng thẩm
mỹ.
Chia cột đường kẻ chia cột phải nagy ngắn, vừa đúng từ đầu dòng đầu đến
dòng cuối, không dư trên thừa dưới, phải có sự cân nhắc khi chia trang giấy
thành nhiều cột. Đề nghò có tính chủ quan, ở đây nên chia hai hoặc ba cột và
nên chia đều trang giấy không cần chừa lề có vạch đỏ đối với án sử dụng tập
học sinh. Giáo viên viết nội dung vào cả phần lề vạch đỏ.
Khi ghi chép nội dung cần chú ý chừa lề phải, trái (gióng biên) tương đối
thẳng. Khi cần vẽ hình, sơ đồ không nên sợ tốn giấy mực, cần vẽ to, rõ, chính
xác, cân xứng, các ký hiệu, phụ chú ghi đúng quy cách, rõ ràng.
Trước các câu hỏi có thể sử dụng ký tự dấu chấm hỏi thay cho từ “giáo
viên hỏi”, trước câu gợi ý, đònh hướng trả lời có thể sử dụng kí tự dấu hoa thò,
dấu sao, dấu gạch ngang thay thế cho từ “trả lời”
Hết bài nên chừa khỏang nửa trang để ghi chép các kinh nghiệm sau tiết
dạy. Tránh trường hợp tận dụng 1/3 trang cuối ghi tiếp tựa bài để sọan bài mới
nhằm tiết kiệm giấy.
Đối với bài 2 tiết nên sọan tách rời từng tiết, vì mỗi tiết đều có kiến thức

khác nhau, mục tiêu cần đạt có khác. Trừ một số trường hợp giáo viên dạy kiên
tục hai tiết (chỉ có giáo viên dạy môn văn). Nếu điều kiện cần sọan hai tiết liền
phải có hoạt động củng cố – luyện tậpcho tiết trước và hệ thống lại trước khi
vào tiết sau.
Cấn ghi chú thêm dự kiến thời lượng cho từng phần, từng hoạt động để
giáo viên làm chủ được thời gian, bảo đảm thời lượng 45 phút của một tiết dạy
– học.
Giữa các hoạt động nên trình bày rõ ràng có khỏang cách dễ nhìn thấy
trong quá trình giảng dạy.
Giáo viên có thể sử dụng hệ thống ký tự viết tắt cho nhanh, tuy nhiên
không nên tùy tiện viết tắt quá nhiều dễ gây nhầm lẫn với các ký hiệu trong
tóan, lý, hóa . . . các ký tự viết tắt thế nào mà đồng nghiệp nhìn vào có thể đọc
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 6
KHÁI QUÁT
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
THỜI KỲ TRUNG ĐẠI
Sử dụng bảng
phụ
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
và hiểu được. Chỉ được viết tắt trong giáo án cá nhân, không được tạo thành
thói quen khi viết các văn bản, ghi bảng, nhận xét trong vở học sinh.
Hệ thống chữ viết cần chân phương (một số giáo viên cần rèn luyện nét
chữ “Nét chữ nết người”). Ta yêu cầu học sinh viết đẹp, ngược lại giáo viên
chưa phấn đấu viết đẹp. Ở đây chỉ yêu cầu viết ngay ngắn, rõ nét. Cần lưu ý
tuyệt đối lỗi chính tả căn bản. Là người thầy không thể viết sai lỗi chính ta.
Rèn luyện kỹ năng sử dụng dấu câu, viết đúng ngữ pháp tiếng Việt. Cần biết
khi nào xuống dòng khi hết d0ọan, sử dụng dấu chấm phẩy đối với các câu dài
có nhiều mệnh đề. Sử dụng từ ngữ toàn dân, ngôn ngữ viết chuẩn mực trong
sáng nhất là các từ khoa học – kỹ thuật, không sử dụng ngôn ngữ nói trong văn
viết, không sử dụng các từ ngữ mập mờ, khó hiểu nhất là các câu hỏi trong hệ

thống gợi mở cho học sinh. Bởi vì giáo án là một văn bản khoa học có giá trò
giáo dục tòan diện cho cả người dạy lẫn người học. Một văn bản khoa học trình
bày sai sót, thiếu nghiêm túc, sẽ tự đánh mất sự tự trọng của người viết.
2. Nội dung giáo án:
2.1 Xác đònh mục tiêu bài học:
Xác đònh mục tiêu của từng bài dạy là là một công việc rất quan trọng
của người giáo viên, nếu người thầy dạy mà không biết mục tiêu của bài đó là
gì thì xem như tiết dạy đó đã hỏng . . .Mục tiêu bài dạy trong giáo án là phần
quan trọng cứ không thể bỏ qua, việc chép lại mục tiêu và bổ sung thêm vào
mục tiêu là phần thầy phải làm. Khi dạy xong mỗi tiết người thầy phải đem tiết
dạy đó đối chứng với mục tiêu của bài dạy, để xem mình đã thực hiện được
hoặc không được cái gì. Mục tiêu của bài học bao gồm: về kiến thức, mục tiêu
về kỹ năng, mục tiêu về thái độ. Trong 3 nhiệm vụ này, mục tiêu kiến thức là
nền tảng, là gốc. Giáo dục tư tưởng tinh cảm cũng như hình thành kỹ năng đều
phải dựa trên nền tảng kiến thức cụ thể của bài học. Việc xác đònh mục tiêu bài
học có tầm quan trọng đặc biệt, nó đònh hướng toàn bộ hoạt động dạy và học
của thầy và trò trong một tiết lên lớp. Mục tiêu bài học càng cụ thể bao nhiêu,
càng giúp cho việc đònh hướng rõ bấy nhiêu. Phải lượng hóa mục tiêu thành
những đơn vò kiến thức cụ thể.
Để xác đònh được Mục tiêu, giáo viên phải nghiên cứu chương trình, xác
đònh Mục tiêu từng chương, nghiên cứu SGK. Bởi vì SGK không chỉ có chức
năng là cung cấp kiến thức cho người học, mà còn có nhiều chức năng khác
như: củng cố các hiểu biết, kiểm tra – đánh giá, tra cứu – tham khảo – ứng
dụng; giúp hình thành và phát triển các kỹ năng, phương pháp giáo dục đối với
học sinh, chức năng cung cấp thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, giúp đỡ
việc học tập và xác đònh tiến trình sư phạm đối với giáo viên.
2.2 Chuẩn bò:
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 7
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
Là công việc đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên nhằm làm cho tiết dạy

sinh động, làm tăng tính tích cực của học sinh. Giáo viên phải cân nhắc sử dụng
ĐDDH gì, thiết bò nào, sử dụng lúc nào, thời lượng sử dụng, có tính giáo dục
không và phải dựa vào các mục tiêu kiến thức cụ thể ở trên. Xác đònh các thiết
bò này trong nhà trường có hay không, có thể tận dụng các thiết bò, ĐDDH nào
để phục vụ tiết dạy. Nếu không có phải tự làm và đòi hỏi khi làm phải có chất
lượng không, có đạt được hiệu quả không. Đối với môn toán thì thước thẳng và
compa là ĐDDH phải có tất nhiên trước khi lên lớp, không phải ghi vào phần
chuẩn bò. Đối với các môn sinh, sử đòa . . . phóng to các hình trong SGK, nhưng
phóng to có chất lượng không, kích thước như thế nào, nếu bằng khổ giấy A4,
màu sắc nhòe thì chẳng có hiệu quả gì đối với không gian của lớp học. Nên
phóng to ở khổ giấy A3. Không thể ghi chung chung: Sử dụng các thiết bò, sơ
đồ . . . nếu có. Không thể ghi: giáo án, SGK, SGV . . . Chỉ nên ghi các thiết bò,
ĐDDH thật sự có tác dụng hỗ trợ tốt cho tiết dạy, ghi rõ tên thiết bò. Phải tính
được thời lượng sử dụng thiết bò, ĐDDH đó bao lâu. Thực tế vẫn còn tình trạng
giáo viên đem thiết bò ra sử dụng qua loa sơ sài, học sinh chưa nhận ra chi tiết
trên hình vẽ thì giáo viên đã cất qua một bên hoặc có trường hợp giáo viên treo
tranh giảng dạy xong nhưng quên lấy xuống treo mãi suốt tiết học.
2.3 Về các bước lên lớp:
Nhiều giáo viên hiện nay vẫn còn tình trạng vận dụng máy móc các bước
lên lớp, mặc dù đã chia giáo án thành nhiều hoạt động. Như vậy vô tình tạo cho
học sinh thói quen biết trước ý đồ của giáo viên và mất hết yếu tố bất ngờ trong
các tình huống sư phạm. Ví dụ như thường thì giáo viên dành khoảng 5 -7 phút
đầu giờ là ổn đònh, hỏi sỉ số, kiểm tra bài cũ; khi gọi một em học sinh lên trả lời
câu hỏi thì những học sinh còn lại tranh thủ mở vở ra học lại các câu tiếp theo
mà giáo viên sẽ hỏi. Như vậy điểm đánh giá chắc chắn không đánh giá đúng
trình độ học sinh. Chưa kể đến việc các học sinh tiết trước đã được kiểm tra
miệng và có điểm rồi thì cứ thỏai mái nói chuyện hay làm việc riêng . . .
Khâu ổn đònh lớp: Có ý kiến cho rằng ổn đònh lớp chỉ là hình thức. Nếu nói
rằng “ổn đònh lớp là một hình thức” thì đó không phải là một nhà sư phạm. Chỉ
cần 1-3 phút thôi nhưng nó mang tính giáo dục rất cao nhất là vấn đề giáo dục

nhân cách cho học sinh mà trước tiên là tính kỹ luật, tính quan tâm lẫn nhau
(qua điểm danh học sinh) , thứ đến trước khi vào bài dạy giáo viên phải nhìn
bao quát xem lớp, bảng đen có sạch hay không? Bàn ghế thầy cô giáo như thế
nào? Chính vì quan niệm chưa đúng mục này nên trong thực tế cũng đã có một
ít thầy, cô khi vào lớp chỉ biết truyền thụ cho xong kiến thức của bài học, còn
học sinh vắng, bảng đen thế nào cũng được. Thực tế đây không phải là công
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 8
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
việc chỉ diễn ra trong đầu tiết học mà là việc làm thường xuyên trong cả tiết
học,
Khâu kiểm tra bài cũ: không nhất thíêt cứ phải tiến hành vào đầu giờ học
và tại sao giáo viên cứ lại quan trọng hóa là phải kiểm tra kiến thức bài cũ.
Thực tế làm như vậy chưa thật phù hợp. Bởi vì những bài có nội dung kiến thức
khó, khối lượng kiến thức nhiều, sử dụng nhiều phương tiện trực quan mới cho
nên có thể không cần kiểm tra bài cũ ngay đầu giờ. Việc kiểm tra và cho điểm
học sinh có thể diễn ra trong suốt tiết học và kết hợp cả kiến thức bài cũ với
kiến thức học sinh đang học. Làm thế thì học sinh năng động hơn, tập trung hơn
trong giờ học.
Khâu giới thiệu bài: Họat động dạy học nói chung và hoạt động dạy học
từng môn nói riêng là cả một nghệ thuật, nên có khi cùng một nội dung bài học,
cùng một lượng kiến thức tương đương nhau, nhưng trong quá trình thực hiện
các thao tác lên lớp, có nhiều giáo viên thực hiện khá thành công, trong khi đó
có nhiều người lại thực hiện chưa được tốt. Để tạo hứng thú cho học sinh trước
khi vào bài học, để dẫn dắt vấn đe cần tìm hiểu, thì thao tác giới thiệu bài mới
là một khâu khá quan trọng trong các tiết lên lớp cụ thể. Mỗi môn học có một
đặc trưng riêng và có những cách mở bài-vào bài khác nhau. Thực tế vẫn còn
giáo viên sau khi kiểm tra bài cũ, viết đề bài, đề mục vào ngay bài mới mà
chưa có cách giới thiệu tại sao học sinh phải học bài này, học bài này nhằm
mục đích gì . . . Giới thiệu bài là khởi động bộ máy nhận thức của học sinh.
Phải chuyển các em từ môn học này sang môn học khác, dứt các em ra khỏi suy

nghó cũng như cách tư duy của môn học trước. Giáo viên nên tạo ra các tình
huống có vấn đề, các mâu thuẫn trong nhận thức học sinh; khai thác các kiến
thức mà học sinh đã hiểu ít nhiều nhưng chưa sâu có liên quan đến nội dung bài
học, từ đó làm cầu nối dẫn học sinh vào bài mới. Trước hết, theo tôi để thự hiện
tốt thao tác giới thiệu bài mới trước khi đi vào hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội
dung bài học, giáo viên giảng dạy cần có sự chuẩn bò kỹ càng, chu đáo phần
giới thiệu bài mới ở nhà, nội dung – cách thức giới thiệu bài phải được cụ thể
trong giáo án, để tránh được nhiều trường hợp, giáo viên bò động, hay lời giới
thiệu lan man do giáo viên “sáng tác” theo cảm hứng trên lớp.
Khâu củng cố bài: Giáo viên thường đưa ra vào cuối tiết. Điều này cũng
còn máy móc. Thực chất chỉ là việc giáo viên đưa ra các câu hỏi mà mình vừa
hỏi ở trên và bắt học sinh trả lời lại. Nếu học sinh trả lời lại được thì đánh giá là
học sinh hiểu bài. Nên dành thời gian 4-5 phút này cho học sinh nêu thắc mắc
để trên cơ sở đó giáo viên củng cố bài.
Khâu hướng dẫn học ở nhà (dặn dò): Giáo viên dặn dò là phải hướng dẫn
cho học sinh cách học bài vừa học, cách chuẩn bò bài sắp học một cách cụ thể
khoa học. Giáo viên vẫn máy móc xem đây là một trình tự không thể thay đổi
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 9
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
được. Vì vậy có tình trạng chuông (kẻng) báo hết giờ, giáo viên vẫn nói vớt vát
vài câu dặn dò để cho đủ trình tự, thực tế những điều giáo viên nói lúc đó làm
sao học sinh ghi nhớ được.
3. Hệ thống câu hỏi:
Sọan giảng là một công việc lao động đầy vất vả, cực nhọc. Để có một
giờ dạy thành công, giáo viên phải nghiền ngẫm, hiểu thấu nội dung các bài
học trong SGK. Từ cơ sở đó, người thầy sẽ truyền thụ, hướng dẫn học sinh cùng
tìm hiểu, cùng giải quyết các vấn đề của bài học. Thời lượng 1 tiết học 45 phút
chưa đủ mức cho việc lónh hội đầy đủ kiến thức, tri thức của bài học mà mức độ
yêu cầu phải mang tính vừa sức đối với đối tượng tiếp nhận. Vì vậy hệ thống
câu hỏi là một yếu tố không thể thiếu được trong bài giảng. Đây là sự sắp xếp

khoa học các câu hỏi nhằm phát huy cá tính sáng tạo chủ thể của học sinh. Nhìn
vào hệ thống câu hỏi chúng ta thấy nổi bật lên giá trò nội dung và trình độ tư
duy của giáo viên. Có thể xem hệ thống câu hỏi là xương sống, là động mạch
chủ trong cơ thể bài giảng. Nhờ hệ thống câu hỏi, giáo viên sẽ đònh hướng đúng
và phân bố thời gian hợp lý giữa các phần. Tránh tình trạng câu hỏi quá khó,
hoặc chuẩn bò chưa chu đáo nên gặp đâu, nhớ đến đâu hỏi đến đó làm cho vỡ
vụn bài giảng hoặc gây lúng túng cho học sinh, làm mất thời giờ; hoặc câu hỏi
dạng có-không quá dễ làm học sinh nhàm chán.
Không nên phụ thuộc hoàn toàn vào SGV, sách thiết kế bài giảng mẫu,
giáo viên thường đưa nguyên xi các câu hỏi vào giờ dạy và có nhiều câu hỏi,
nhiều cách diễn đạt xa lạ đối với học sinh vùng sâu. Cần nhớ rằng SGV, các
lọai sách thiết kế bài giảng chỉ mang tính chất tham khảo, đònh hướng những ý
cơ bản, không thể thay thế bài sọan của giáo viên.
Để có hệ thống câu hỏi tốt, giáo viên cần nghiên cứu tình hình học tập
của học sinh (tình hình tiếp thu bài học, kết quả cuối năm, ý thức học tập,
nguyện vọng về bộ môn . . .) có nắm chắc như vậy giáo viên mới vận dụng
phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức. Giáo viên dành thời gian đọc kỹ
các bài học trong SGK, nghiên cứu các bài tập, các câu hỏi . .nhằm xem xét
mức độ nội dung cần chuyển tải, cách diễn đạt, trình tự các câu hỏi. Nếu thấy
câu hỏi nào phù hợp thì giữ nguyên, câu hỏi nào chưa thật sự phù hợp thì giáo
viên cần chế biến lại tạo ra câu hỏi mới nhưng vẫn là nội dung đó. Các câu hỏi
được xếp thành một hệ thống, mang tính liên tục, nối liền nhau.
Song cũng có những tình huống ngoài dự kiến. Giáo viên phải nhạy bén,
sáng tạo xử lý. Vì trong quá trình phân tích, lý giải vấn đề, sẽ có những câu hỏi
bất chợt nảy sinh. Câu hỏi thường được nêu ra ở những tình huống có vấn đề
buộc học sinh phải suy nghó, phải động não; như vậy mới khắc sâu kiến thức
trọng tâm. Hệ thống câu hỏi cần được cập nhật hàng năm, giáo viên luôn tìm
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 10
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
cách diễn đạt phù hợp với trình độ học sinh, vì đối tượng tiếp nhận luôn luôn

thay đổi.
Công việc này hiện nay giáo viên cho là vất vả, có nhiều nguyên nhân:
- Giáo viên chưa chưa đảm bảo về năng lực chuyên môn của bộ môn nên
thực hiện chưa tốt.
- Giáo viên chưa dành thời gian nghiên cứu bài trước khi sọan giáo án.
- Giáo viên có đủ năng lực nhưng nhận thức chưa cao, tinh thần trách
nhiệm còn hạn chế, ngại khó, ngại khổ mà không thật sự cố gắng đầu tư đầy
đủ. Thực hiện chương trình SGK mới, phương pháp, giáo viên phải tập trung
nghiên cứu với nhiều gian khổ. Gian khổ năm đầu sẽ là cơ sở vững chắc cho
những năm tiếp theo; ngược lại ngại khó, ngại khổ thì sẽ rơi vào tình trạng ngày
càng xa rời về chuyên môn và dần dần không còn đủ sức để giảng dạy.
 Cần chú ý kỹ năng sử dụng câu hỏi:
- Câu hỏi là đảm bảo học sinh trả lời được.
- Giáo viên có cho học sinh đủ thờii gian suy nghó để trả lời.
- Giáo viên có sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ để khuyến khích học sinh trả
lời.
- Giáo viên có khen ngợi, ghi nhận câu trả lời đúng của học sinh.
- Giáo viên có tránh làm cho học sinh mắc cỡ với câu trả lời sai của
mình
- Nếu không ai trả lời được, giáo viên có đặt ra các câu hỏi gợi mở để
học sinh có thể trả lời câu hỏi đã nêu ra.
- Câu hỏi có ngắn gọn, rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu.
- Giáo viên có tránh được việc chuyên dùng loại câu hỏi ghi nhớ sự
kiện.
- Câu hỏi có được phân phối đều cho cả lớp.
- Trong khi kiểm tra bài cũ, giáo viên có dùng những câu hỏi kích thích
suy nghó hay chỉ dùng loại câu hỏi nhớ sự kiện.
- Giáo viên có thường sử dụng những câu hỏi nhằm đánh đố bắt bí học
sinh.
- Câu hỏi giáo viên đạt ra có chú ý các đối tượng học sinh hay theo

quan điểm giáo dục đồng nhất.
 Cần chú ý trình độ chất lượng câu hỏi:
- Biết (Ai? Cái gì? đâu)
- Hiểu (so sánh những điềm giống nhau và khác nhau, giải thích mô tả
bằng lời nói của mình . . )
- Áp dụng (vào tình huống tương tự hoặc đổi khác, giải quyết vấn đề
đặc ra)
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 11
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
- Phân tích (nghó gì? Vì sao như vậy? làm sao biết như thế)
- Tổng hợp (đặt ra vấn đề mới, đề xuất giả thiết, dự đoán kết luận)
- Đánh giá (vì sao điều đó là đúng – sai? kiến riêng về vấn đề đó?
Bảo vệ quan niệm riêng của mình, vì lý do gì? . . .)
4. Nội dung các hoạt động (tiến trình dạy bài mới)
- Từng hoạt động nên chia từng thời lượng cụ thể để giáo viên làm chủ
được thời gian vốn là co hẹp cho từng bài dạy.
- Phần nội dung cần đạt cần ghi rõ trong giáo án cũng chính là phần ghi
vào vở của học sinh và ghi bảng của giáo viên.
- Nội dung ghi bảng cần có đề mục rõ ràng, đôi khi giáo viên tự tạo đề
mục dựa theo nội dung bài để học sinh nắm kiến thức có hệ thống. Đề mục
phải có phân cấp (đề mục con phải lùi vào). Chữ viết ghi bảng phải rõ ràng,
chuẩn mực, không viết tắt, viết tháo, cần chuẩn về chính tả (viết hoa đầu dòng,
viết hoa danh từ riêng. . .) sử dụng câu hòan chỉnh với từ ngữ dễ hiểu. Không sử
dụng các từ đòa phương, khẩu ngữ. Chú ý các thuật ngữ chuyên môn, các thuật
ngữ khoa học và các ký hiệu.
- Hình vẽ, sơ đồ . . . chính xác, cẩn thận về đường nét, ĐDHD hoặc các
thiết bò phục vụ dạy học cần nêu rõ thời gian và độ dài sử dụng.
- Bảng nháp nên xóa ngay sau khi xong nội dung và chuyển sang nội
dung khác.
- Họat động thảo luận nhóm: giáo viên phảo nêu vấn đề, tình huống đưa

ra thảo luận, sau đó nêu yêu cầu, thời gian. Hết thời gian thảo luận đại diện
nhóm trả lời và phải có sự phản biện, thắc mắc của các nhóm khác. Khi học
sinh trả lời xong phải có nhận xét, đánh giá tế nhò và khắc sâu kiến thức trọng
tâm.
5. Phương pháp:
6.1- Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học. Bởi vì người học
là chủ thể của họat động học. Nếu người học không biết cách học thì hiệu quả
dạy bò hạn chế. Phải dạy cho học sinh biết cách tiếp nhận thông tin, xử lý thông
tin và lưu trữ thông tin. Dạy cho học sinh biết cách đònh hướng thu thập thông
tin phù hợp mục tiêu học trong nguồn thông tin đa dạng. Nâng cao năng lực
sàng lọc thông tin, chỉ giữ lại cái cần cho mục tiêu học tập. Có khả năng phân
biệt các thông tin chính, phụ.
5.2- Sử dụng các họat động:
- Trả lời câu hỏi, điền từ , điền tranh câm
- Lập bảng, biểu, sơ đồ, đồ thò, bàn đồ, làm thí nghiệm.
- Đề xuất giả thuyết, phân tích nguyên nhân, thảo luận tranh cãi một vấn
đề.
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 12
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
- Giải bài tóan nhận thức, bài tập tình huống.
5.3- Sử dụng các hình thức hoạt động: Cá nhân; nhóm 2; nhóm 3; nhóm
nhỏ 4-6 người; làm việc chung cả lớp . . .
5.4- Dạy cách thu nhận thông tin:
- Dạy cách tiếp cận nguồn thông tin từ trong SGK, trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
- Dạy cách đọc trước bài trong SGK: hướng dẫn yêu cầu và cách đọc, hưy
động kết quả đọc để xây dựng bài học, trao đổi kinh nghiệm trong học sinh về
đọc SGK trước giờ lên lớp.
- Dạy cách tìm ý chính: Tạo điều kiện cho học sinh nhận ra ý chính trong
lời giảng của giáo viên (thay đổi âm lượng, nhòp độ, lời nói, nhắc lại . . .)

5.5- Dạy cách ghi chép: Hướng dẫn cách ghi chép chủ đđộng. Xây dựng
thói quen bổ sung bài ngay sau buổi học. Cần kiểm tra một số vở ghi của học
sinh.
5.6- Dạy cách đặt câu hỏi: Giảm câu hỏi gợi nhớ sự kiện, tăng câu hỏi kích
thích suy nghó tích cực. Tạo cơ hội cho học sinh suy nghó sau câu hỏi và câu trả
lời. Cho học sinh trao đổi tạo thói quen suy nghó từ nhiều góc độ trước một vấn
đề. Tập cho học sinh nêu được nhiều câu hỏi càng tốt về một vấn đề được nêu
ra.
5.7- Dạy cách thảo luận: Giúp đỡ học sinh bài tỏ ý kiến cá nhân về vấn đề
cần đang giải quyết. Tập cho học sinh biết lắng nghe ý kiến của bạn, có ý kiến
phản hồi về những gì nghe được. Tổ chức luân phiên thay đổi chức năng nhiệm
vụ trong nhóm (người trình bày, người nghe, nhận xét). Cuối chương cần trao
cho học sinh một số vấn đề cần giải thích, trao đổi, bổ sung . . .
5.8- Dạy cách hệ thống hóa kiến thức.
5.9- Kỹ năng lời nói và điệu bộ của giáo viên:
- Cần phát âm chuẩn, dùng từ chuẩn, âm lượng vừa đủ nghe thay đổi
theo yêu cầu sư phạm, nhòp độ vừa phải, lời diễn cảm gọn, rõ ràng. Tránh lập
lại các từ vô nghóa, tránh tạo điều kiện cho học sinh nói vuốt đuôi.
- Khi học sinh phát biểu xong, dù đúng – sai cũng nên được giáo viên
khích lệ, động viên kòp thòi để khuyến khích tinh thần, ý thức xây dựng bài của
học sinh.
- Phải biết những gì học sinh muốn và những gì giáo viên muốn là khác
nhau, do đó giáo viên phải bỏ công sức để cư xử tích cực với những học sinh mà
ta cho rằng không thích học. Học sinh sẽ thích học nếu có được cơ hội thành
công.
IV- KẾT LUẬN:
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 13
Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2
1. Giáo án là một sản phẩm lao động tâm não của người thầy làm ra; đó là
sự đúc kết của những ngày lao tâm khổ tứ để thực hiện tốt nhiệm vụ

khai tâm, mở trí cho thế hệ mai sau mà xã hội giao cho người thầy. Nên
có soạn tốt mới có dạy tốt, soạn là quá trình tư duy để dạy.
2. Để có tiết dạy tốt, khơi gợi sự hưng thú học tập, giúp học sinh chiếm lóng
kiến thức bài học một cách nhẹ nhàng, thoải mái, điều trước tiên là giáo
viên phải chuẩn bò bài (minh chứng là giáo án) đó là điều không thể
thiếu. Song xét cho cùng giáo án cũng chỉ là phương tiện giúp giáo viên
lên lớp, nên việc chuẩn bò giáo án sao cho vừ đảm bảo nguyên tắc đồng
thời với việc hổ trợ tích cực bài giảng trên lớp đạt hiệu quả cao, đó là
cái cần đòi hỏi sự sáng tạo linh họat của người giáo viên
3. Để có được một tiết dạy tốt buộc giáo viên phải sọan giáo án. Giáo án
phải được đầu tư công sức với các khâu chuẩn bò cụ thể. Giáo án thể hiện trình
độ, năng lực sư phạm của giáo viên.
4. Giáo án là sản phẩm trí tuệ của giáo viên, là văn bản khoa học nên phải
có hình thức thẩm mỹ, nội dung phong phú. Tránh tình trạng tóm tắt SGK hoặc
chép từ các tài liệu tham khảo. Nếu sử dụng giáo án cũ của năm trước thì phải
có cập nhật bổ sung cho phù hợp với thực tế, trình độ học sinh.
5. Một giáo án phải có nhiều phương án đối với giáo viên dạy nhiều lớp
cùng môn. Vì không phải học sinh ở lớp nào cũng có trình độ tiếp thu như nhau.
6. Phải tự cập nhật và rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy để kòp thời điều
chỉnh giáo án cho những tiết sau dạy tốt hơn.
7. Thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm soạn giảng ở đồng nghiệp
để có phương pháp soạn giảng đạt hiệu quả trong giảng dạy. Các SGV, sách
thiết kế bài giảng chỉ là những đònh hướng chung, không nê lệ thuộc vào các
lọai sách này.
8. Phải thấy được vai trò của giáo viên là người đưa học sinh đến với kiến
thức, chứ không phải là đưa kiến thức đến với học sinh. Nói cách nôm na là dẫn
học sinh qua cầu chứ không phải cõng học sinh qua cầu.
9. Giáo viên phải thực sự là cầu nối giữa nền văn minh nhân loại-dân tộc
với học sinh. Và điều quan trọng hơn hết là lương tâm nghề nghiệp, lòng yêu
mến học sinh.

Nhơn Mỹ, tháng 3 năm 2007

Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 14

×