Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận chuyên đề người khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.93 KB, 18 trang )

Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
LỜI MỞ ĐẦU
“ Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn nghề, được có những
điều kiện làm việc thuận lợi, chính đáng và được bảo vệ chống nạn thất nghiệp;
mọi người không có bất kỳ sự phân biệt nào, đều có quyền được trả lương ngang
nhau cho những công việc như nhau; mọi người đi làm đều có quyền được trả
lương hợp lý và thuận lợi cho bản thân và gia đình một cuộc sống có đầy đủ giá trị
nhân phẩm, được phụ cấp, nếu cần thiết và bằng các biện pháp bảo trợ xã hội
khác” – Điều 23 của Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người (1948) đã chỉ rõ như
vậy.
Lao động việc làm là quyền thiêng liêng của mỗi con người. Lao động việc làm
tạo ra giá trị vật chất và các giá trị khác để con người duy trì cuộc sống và thúc đẩy
xã hội phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào con người cũng được
thỏa mãn nhu cầu làm việc, do xã hội loài người bị chi phối bởi quy luật phát triển
không đều, mỗi người lại có một hoàn cảnh khác nhau.
Người khuyết tật là một trong những nhóm người yếu thế trong xã hội, trong đó
chính những khuyết tật của họ làm hạn chế rất nhiều về khả năng tìm kiếm cơ hội
và việc làm. Sự thiếu hụt thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của người
khuyết tật có thể bị giảm sút, đặc biệt là ở người khuyết tật về trí tuệ hoặc cơ quan
thu nhận cảm giác (khiếm thính, khiếm thị) khả năng tiếp thu tri thức là khá khó
khăn. Khó khăn trong học tập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xin việc, trình độ
học vấn chung của người khuyết tật thấp hơn tương đối so với cộng đồng.
Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra cho thấy không phải sự khiếm khuyết một
chức năng nào đó trên cơ thể mà chính những suy nghĩ thương cảm là một trong
những nguyên nhân chính đẩy người khuyết tật (NKT) trở thành gánh nặng của xã
hội. Trong khi Doanh nghiệp Việt Nam đang phải loay hoay đối phó với sự bất ổn
định của nguồn lao động thì sự thiếu lòng tin đối với năng lực làm việc của NKT
đã khiến cho họ lãng phí mất nguồn lao động chăm chỉ và dồi dào này.
Hiện nay tại Việt Nam đang có khoảng 6 triệu lao động là NKT, nhưng con số
tiếp cận được việc làm tại các DN rất ít. Mặc dù thừa nhận chất lượng lao động của
1


Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
NKT không thua kém người bình thường nhưng con số lao động khuyết tật tìm
được việc làm chỉ chiếm khoảng 20%. Nguyên nhân chính là do những rào cản về
thái độ, từ suy nghĩ tiêu cực, và e ngại về chất lượng lao động của Doanh nghiệp.
Nhận thức này hoàn toàn không công bằng với người khuyết tật.
Gần đây Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp nhận người lao động là người khuyết tật, đưa ra nhiều chính sách ưu đãi
cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất của người khuyết tật. Nhiều cơ sở sản
xuất của người khuyết tật được hình thành và nhiều doanh nghiệp mở rộng số
lượng người lao động là người khuyết tật. Tuy nhiên, quá trình này không phải là
không có nhiều khó khăn.
Qua việc tìm hiểu về vấn đề việc làm cho người khuyết tật, em đã chú ý đến
Hải Phòng. Đây là nơi có nhiều mô hình sản xuất kinh doanh của người khuyết tật,
đặc biệt cách làm của Công ty cổ phần phát triển Việc làm và hỗ trợ người khuyết
tật An Tuấn (xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo) là một mô hình tốt, có thể nhân rộng để
giúp nhiều người khuyết tật có công ăn việc làm ổn định.
Vì còn là sinh viên, kiến thức, kinh nghiệm thực tế và cách nhìn nhận vấn đề
còn hạn chế nên trong khuôn khổ bài chuyên đề này, em không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cho chuyên đề của em
được đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Vân – giảng viên trực tiếp giảng dạy
chuyên đề “Người khuyết tật”, sự hướng dẫn của các anh chị khóa trên và sự đóng
góp ý kiến của các bạn; cảm ơn các thầy cô trên Trung tâm thông tin – Thư viện
của trường, sự giúp đỡ của Trung tâm Sống độc lập và anh Phạm Văn Tuấn giám
đốc Công ty cổ phần phát triển Việc làm và hỗ trợ người khuyết tật An Tuấn đã
giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:
ĐỖ THỊ MINH

2
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Lý luận cơ bản về người khuyết tật
1.1 Khái niệm người khuyết tật, tàn tật
“ Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dưới những dạng khác nhau (không phân biệt nguồn gốc
gây ra tàn tật) làm suy giảm khả năng họat động, khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp nhiều khó khăn.” (Theo Pháp lệnh về người tàn tật 06/1998/PL –
UBNQH10 ngày 30/7/1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 10).
- Người tàn tật nặng là người tàn tật, không còn khả năng lao động; trong sinh
hoạt, nhiều hoạt động họ không phục vụ được bản thân.
1.2 Những nguyên nhân chính gây ra tàn tật và các dạng khuyết tật.
a, Những nguyên nhân:
- Hậu quả chiến tranh: Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài đã đem
đến hậu quả về nhiều mặt trong đó số người bị thương tật do sự tàn phá của
bom đạn và cả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh chiếm tỷ lệ
cao.
- Do môi trường sống: như tình trạng đường giao thông chật hẹp, phương tiện
giao thông nhiều, thiếu an toàn, ý thức của người tham gia giao thông; tình
trạng ô nhiễm môi trường đưa đến tai nạn giao thông, tai nạn rủi ro, thiên tai,
bệnh tật…
- Tai nạn lao động: môi trường lao động thiếu an toàn, ý thức chấp hành pháp luật
về an toàn lao động và ý thức bảo hộ lao động của người lao động chưa cao;
hậu quả của những tai nạn lao động đã để lại những di căn trên cơ thể.
- Do bẩm sinh, chấn thương khi sinh, ngộ độc khi thai nghén.
b, Các dạng khuyết tật:
- Khuyết tật cơ quan vận động
- Khiếm thị ( mù)

- Khiếm thính (câm điếc)
3
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
- Tâm thần
2. Hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật
Hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật: là một hệ thống những cơ chế,
biện pháp, chính sách của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp người khuyết tật
sống, học tập và làm việc trong những điều kiện đặc thù để họ có cơ họi tốt nhất
phát huy khả năng và tạo lập mối quan hệ bình đẳng với cộng đồng.
Để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng thì cùng với việc thực hiện nghiêm
túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, rất cần sự nhận thức đúng đắn
của xã hội, gia đình và ngay cả bản thân người khuyết tật. Thực tiễn hiện nay cho
thấy mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đối với người khuyết
tật nhưng vẫn còn nhiều rào cản trong việc khuyến khích người khuyết tật hòa
nhập cộng đồng.
3 Những khó khăn và ảnh hưởng của khuyết tật đối với việc tiếp cận việc làm ở
người khuyết tật.
Theo những kết quả nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội thì người khuyết tật gặp khó khăn hơn trong tiếp cận cơ hội việc làm bởi vì:
- Học vấn - trình độ chuyên môn thấp: 41% NKT từ 6 tuổi trở lên không biết chữ;
19,5% học hết cấp một; và 2,75% có trình độ trung học chuyên nghiệp hay
chứng chỉ học nghề và ít hơn 0,1% có bằng ĐH hoặc CĐ (theo Bộ LĐTBXH,
2005)
- Có tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
- Không đáp ứng sự thay đổi của thị trường lao động.
- Bị từ chối vì chủ sử dụng lao động không tin vào khả năng của NKT: khoảng
58% NKT tham gia làm việc, 30% chưa có việc làm và mong muốn có việc làm
ổn định
- Không tiếp cận được các cơ hội tự tạo việc làm (thiếu thông tin về vốn, thủ tục,

kỹ năng )
 Họ cần được học văn hóa, học nghề phù hợp với dạng tật. Các công việc thủ
4
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
công đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn có thể phù hợp với họ. Việc làm vừa đem lại cho
họ niềm vui trong lao động, vừa giúp họ có thu nhập, điều này giúp họ giảm bớt
tâm lý bị bỏ đi. Dạy nghề đối với người khuyết tật sẽ làm tăng cơ hội có việc làm
cho họ, nâng cao được trình độ nghề nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi để họ hòa
nhập cộng đồng
I – THỰC TRẠNG CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DẠY NGHỀ, TẠO VIỆC LÀM
CHO NKT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1 Vấn đề việc làm của người khuyết tật ở nước ta hiện nay.
Theo thống kê của Văn phòng điều phối người khuyết tật Việt Nam (NCCD),
hiện nay cả nước có khoảng 5,3 triệu người tàn tật, chiếm 6.3% dân số, tăng 0.29%
trong vòng 6 năm qua. Trong đó NKT đang ở độ tuổi lao động chiếm trên 69%, đa
số sống cùng gia đình và có mức sống nghèo khổ. Trong số hơn 5.3 triệu người
khuyết tật trên phạm vi cả nước, chỉ có 30% có việc làm phù hợp, thu nhập tương
đối ổn định. Con số này đồng nghĩa với việc vẫn còn tới 70% NKT đang phải sống
dựa vào gia đình, đa số không phải vì lười lao động mà nhiều khi không có cơ hội
để được làm việc. Có trên 50% NKT đang tham gia vào các hoạt động với những
việc làm khác nhau nhưng thực chất chỉ có 30% trong số này có việc làm phù hợp,
tạo thu nhập tương đối ổn định cho bản thân và gia đình. Do vậy, vấn đề tạo việc
làm, điều kiện cho NKT vượt qua khó khăn là những hoạt động có ý nghĩa nhân
văn sâu sắc, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là trách nhiệm chung của xã hội.
Theo số liệu thống kê cho thấy, đa số NKT ở nước ta sống ở nông thôn (chiếm
87.3%), với các điều kiện về cơ sở hạ tầng, điều kiện sống, phương tiện sinh hoạt
chuyên dùng còn rất nhiều thiếu thốn. Trình độ văn hóa của NKT rất thấp, gần 36%
không biết chữ, chỉ có 20.7% có trình độ tiểu học và 24.5% người có trình độ
THCS. Phần lớn những NKT không thể sống tự lập, họ phải sống dựa vào gia đình.

Một số NKT tuy có việc làm nhưng công việc thường không ổn định và thu nhập
cũng thấp. Như vậy vấn đề việc làm và tạo việc làm cho NKT đang là vấn đề cấp
thiết, đòi hỏi sự quan tâm thích đáng của Nhà nước và của mỗi người dân.
Hiện nay, đa số NKT thường làm các nghề thủ công truyền thống như đan lát,
mây tre, bện thừng, làm chổi, dệt đay…Tại nhiều làng nghề truyền thống, họ thực
hiện nhiều công việc không đòi hỏi nhiều sức lực và vận động. Ở nhiều nơi khác,
5
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
NKT còn làm việc theo tổ, nhóm trong các hợp tác xã. Ngoài ra, cũng có nhiều
người làm việc tại nhà. Hợp tác xã giao nguyên liệu và thu nhận sản phẩm. Việc
làm của NKT ở nông thôn đã góp phần nhất định vào thu nhập của gia đình và tạo
cho họ một cuộc sống độc lập, tạo vị thế bình đẳng và hòa nhập nhất định.
Trên cả nước hiện có hơn 400 cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ của NKT,
quy mô khác nhau, có doanh nghiệp hơn 350 công nhân như Cty Chân – Thiện –
Mỹ (trụ sở tại Hải Dương và Bắc Ninh), song cũng có doanh nghiệp chỉ vỏn vẹn 5
– 6 người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu không được đào tạo thì NKT không thể tìm
được việc làm phù hợp để có thu nhập ổn định, dẫn tới không thể có cơ hội bình
đẳng thực sự và hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, năm 2005, lần đầu tiên Nhà
nước đã cấp 11.5 tỷ đồng từ Ngân sách vào lĩnh vực dạy nghề ngắn hạn (6 – 11
tháng) dành cho NKT. Năm 2006 nâng lên 20 tỷ đồng và năm 2007 cũng khoảng
20 tỷ đồng. Theo quy định, mỗi NKT học nghề ngắn hạn được hỗ trợ 540.000
đồng/tháng (gồm 300.000 đồng học nghề và 240.000 đồng hỗ trợ chi phí đi lại, ăn
ở). Tuy nhiên, số tiền ngân sách cấp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đào tạo – việc
làm của tất cả những người khuyết tật. Ước tính mới có 3% NKT thuộc diện “may
mắn”, 97% còn lại vẫn đang tiếp tục chờ đợi, hi vọng.
2. Các chính sách của Nhà nước về việc làm và dạy nghề cho NKT.
Hệ thống chính sách về việc làm và dạy nghề cho NKT của nước ta khá hoàn
chỉnh: Đó là những quy định cho NKT vay vốn tạo việc làm; quy định về việc các

doanh nghiệp phải nhận NKT vào làm việc, nếu không phải nộp một khoản tiền
vào Quỹ việc làm để giải quyết việc làm cho NKT; Quy định về chế độ ưu đãi đối
với cơ sở dạy nghề là NKT; Quy định trong giai đoạn 2006 – 2010 có 80.000 NKT
được dạy nghề và có việc lam v.v. Cụ thể là:
Bộ luật Lao động và Nghị định 81/CP, Nghị định 116/2004 quy định, tất cả các
DN phải nhận từ 2- 3% số lao động là NKT (2% với các DN điện năng, luyện kim,
hóa chất, dầu khí ; 3% đối với các DN còn lại). Nếu không, DN phải đóng vào
Quỹ việc làm cho NKT (mức lương tối thiểu nhân với số người lao động tàn tật
phải nhận). Nhưng thực tế chỉ có 2,5% NKT được DN thu nhận là có nghề nghiệp
chuyên môn, 4% có công việc ổn định. Chỉ có 9,3% DN thực hiện nghĩa vụ tuyển
dụng NKT.
6
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
Nhà nước khuyến khích thành lập các doanh nghiệp và đơn vị sản xuất đặc biệt
dành cho NKT. Các doanh nghiệp tuyển ít nhất 51% NKT trong tổng số công nhân
của mình có thể đăng ký như một doanh nghiệp dành cho NKT, được hưởng những
chính sách miễn giảm thuế và các chính sách ưu đãi như được tiếp cận thuê đất và
vay vốn.
Ngày 24/10 năm 2006 Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã thay mặt Thủ
tướng Chính phủ ký quyết định 239/2006/QĐ - TTg phê duyệt đề án trợ giúp NKT
giai đoạn 2006 - 2010. Mục tiêu của đề án là từng bước tạo điều kiện cho NKT
tham gia đầy đủ và bình đẳng vào các hoạt động của xã hội; cải thiện chất lượng
cuộc sống của NKT; xây dựng một xã hội không rào cản và vì quyền của NKT.
Trong đó:
● Chỉ tiêu cần đạt tới vào cuối năm 2010 về việc dạy nghề và tạo việc làm cho
NKT là 80.000 NKT được hỗ trợ học nghề và tạo việc làm phù hợp.
● Các hoạt động chính của Đề án bao gồm: Nâng cao nhận thức về vấn đề
khuyết tật; Hỗ trợ thành lập các tổ chức tự lực và hội phụ huynh và gia đình
NKT; Phát hiện và can thiệp sớm, phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng;

Trợ giúp học văn hóa, trợ giúp dạy nghề, tạo việc làm v.v
Chính sách việc làm đối với NKT được nhìn nhận toàn diện từ ba góc độ: Việc
làm phù hợp; sự hỗ trợ của Nhà nước đối với DN sử dụng LĐKT; và trách nhiệm,
nghĩa vụ của các tổ chức, DN đối với NKT.
Tuy nhiên, chính sách thì rất ưu việt, nhưng thực tế thì lại chưa được như mong
muốn. Chỉ có khoảng 3% NKT được học nghề và 3.4% NKT có việc làm. 8/64 tỉnh
có Quỹ việc làm dành cho NKT
Nguyên nhân bao trùm của tình trạng trên là do đất nước ta còn nghèo, nền kinh
tế đang đi những bước đầu của cơ chế thị trường. Nguyên nhân cụ thể là do hệ
thống chính sách chưa thật sát thực tế, công tác tuyên truyền về các chủ trương
chính.
III – MÔ HÌNH DẠY NGHỀ, TẠO VIỆC LÀM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
PHÁT TRIỂN VIỆC LÀM VÀ HỖ TRỢ NKT AN TUẤN.
● Hải Phòng có 15 quận, huyện, với gần 1,8 triệu người, trong đó có
7
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
34.380 người tàn tật, chiếm khoảng 1,9%. Nhìn chung, người tàn tật gặp rất nhiều
khó khăn trong cuộc sống và sinh hoạt, do trình độ học vấn thấp (chỉ 32% có
trình độ cấp 2 trở lên, còn lại là không biết chữ: 32,7% và cấp 1: 35,2%), 94%
không có trình độ chuyên môn, 68% không có khả năng lao động, số người có
việc làm chỉ chiếm 21%, số có bệnh tật chiếm 66%. Những người tàn tật là
thương bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam do được hưởng chế độ ưu đãi
của Nhà nước nên đỡ phần nào nhưng hầu như người tàn tật là những người
nghèo nhất, khó khăn nhất trong thành phố.
Trong những năm qua, Hải Phòng đã nghiêm túc thực hiện Pháp lệnh về
Người tàn tật và đã xác định việc chăm lo, trợ giúp người tàn tật là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Hàng
năm, trên cơ sở điều tra rà soát, phân loại các đối tượng người tàn tật, địa phương
đã chỉ đạo các ngành, các cấp, đặc biệt quán triệt, hướng dẫn đội ngũ cán bộ làm

công tác thương binh xã hội ở cơ sở thực hiện các chương trình, chế độ chính
sách, chăm lo cho người tàn tật, cả về đời sống vật chất và tinh thần.
Để giúp người tàn tật có cơ hội tìm và tự tạo việc làm, các quận, huyện, các
tổ chức xã hội, trường dạy nghề cho người tàn tật, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tổ
chức nhiều lớp dạy nghề miễn phí, đào tạo nghề vừa học vừa làm cho 2.684
người tàn tật. Thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc làm, trong 5 năm
qua đã có 5.065 người được tạo việc làm, trong đó có 2.050 lượt người được hỗ
trợ vay tổng số vốn quay vòng là 3.862.600.000đ. Tỉnh đã hình thành 70 cơ sở
sản xuất kinh doanh của người tàn tật, thu hút gần 2.000 người vào làm việc.
Trong số đó, mô hình sản xuất kinh doanh của người khuyết tật như Công ty cổ
phần phát triển Việc làm và Hỗ trợ người khuyết tật An Tuấn là một mô hình tiêu
biểu cần được nhân rộng.
1. Giới thiệu chung về sự hình thành của Công ty Cổ phần phát triển việc
8
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
làm và hỗ trợ người khuyết tật An Tuấn.
Anh Phạm Văn Tuấn
Phạm Văn Tuấn - Giám đốc Công ty
Cổ phần phát triển việc làm và hỗ trợ người
khuyết tật An Tuấn là 1 trong 3 người
khuyết tật tiêu biểu của Tp.Hải Phòng tham
dự Hội nghị biểu dương người tàn tật tiêu
biểu toàn quốc diễn ra ngày 17, 18/4 tại Hà
Nội. Anh Tuấn sinh năm 1980, khi còn là
học sinh trường trung học, cậu học trò giỏi Phạm Văn Tuấn bất ngờ gặp tai nạn
(1996), anh phải cưa bỏ 1/3 chân trái. Là con một trong một gia đình có hoàn cảnh
khó khăn (bố là thương binh hạng 3/4, mẹ làm ruộng) nên sau khi gặp tai nạn,
tưởng chừng như sự bi quan đã quật ngã chàng trai mới lớn, nhưng Tuấn đã vượt
qua và lấy lại niềm tin vào cuộc sống.Sau khi học xong cấp 3, anh tự liên hệ với

tỉnh Hà Tây và xin vào học hệ trung cấp điện tử tại Trường dạy nghề cho người
khuyết tật Trung ương 1 (Sơn Tây). Sau khi ra trường năm 2003, Tuấn đã trở về và
mở cửa hàng điện tử. Đã có thời gian cửa hàng điện tử của anh Tuấn nổi tiếng là
nơi có uy tín, vừa rẻ, vừa đảm bảo chất lượng. Người dân tìm đến sửa chữa ngày
một đông, tạo cho anh Tuấn nguồn thu nhập khá cao và ổn định. Vốn là người có
nhiều suy tư, trăn trở và có óc tổ chức, anh Tuấn đã vận động những người cùng
cảnh ngộ trong huyện thành lập CLB thanh niên khuyết tật và được tín nhiệm bầu
làm Chủ nhiệm khóa 2003 – 2005.
Cuối năm 2005, với mong muốn tạo thêm công ăn việc làm cho những
người khuyết tật khác, anh quyết định giải tán cửa hàng sửa chữa điện tử đang
đông khách để mở cơ sở may. Cơ sở may của anh Tuấn đi vào hoạt động trên khu
đất rộng 200m2 ( tại khu vực cầu Nghìn, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải
Phòng) với cái tên Trung tâm phát triển việc làm và hỗ trợ người khuyết tật An
Tuấn bằng số vốn hơn 200 triệu đồng vay mượn được, với hơn 30 người khuyết tật
làm việc.
2. Quá trình thành lập và phát triển
Sau khi chạy vạy vay mượn được hơn 200 triệu đồng, anh Tuấn đi tìm mua
9
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
máy may, rồi liên hệ với các hiệu may quanh vùng gia công lại. Nhưng theo như
anh Tuấn kể: khó nhất vẫn là việc vận động và dạy nghề cho NKT đến làm việc.
Hơn một tháng liền, anh Tuấn đến Hội bảo trợ NKT của huyện Vĩnh Bảo xin địa
chỉ của NKT sau đó đến từng nhà để vận động họ tham gia làm việc tại cơ sở may
của mình. Tuyển được người, anh Tuấn lại thuê thầy về hướng dẫn từng đường
kim, mũi chỉ, cách cắt may Trong số đó, không ít thầy hướng dẫn được vài buổi
lại bỏ vì lý do không "giao tiếp" được với học trò.
Ban đầu cơ sở may của anh Tuấn đi vào hoạt động với cái tên " Trung tâm
phát triển việc làm và hỗ trợ NKT An Tuấn" với hơn 30 người làm việc. Những
ngày đầu thành lập, ngày nào anh Tuấn cũng đạp xe đi khắp các xí nghiệp may,

hiệu may trong vùng để liên hệ nhận hàng về làm. Người làm đông, nguồn hàng
tìm được không đủ, anh Tuấn lại tìm đến các trường học để nhận may đồng phục
cho học sinh Đến nay,Công ty của anh Tuấn không chỉ cung cấp cho 31 trường
THCS ở Vĩnh Bảo mà đang tìm hướng vươn sang thị trường Thái Bình nữa, đây là
thị trường khá tiềm năng. Năm 2006, gần 30.000 bộ quần áo đồng phục học sinh
đã được "ra lò'' từ cơ sở may An Tuấn.
"Khách hàng tìm đến cơ sở không phải vì đây là một cơ sở nhân đạo" - anh Tuấn
tự hào nói.
Bản thân anh Tuấn cũng là người khuyết tật nên anh đặc biệt thông cảm và
thường chia sẻ tâm tư tình cảm với những con người này, nhất là những người
khuyết tật nặng, có hoàn cảnh gia đình éo le, kinh tế khó khăn. Phải nói rằng, đây
là điểm đặc biệt và nổi bật của mô hình người khuyết tật tự mở cơ sở sản xuất, dạy
nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Chính vì thế, mô hình này có những ưu
điểm hơn hẳn các mô hình khác.
Anh Tuấn cũng chia sẻ "Người bình thường mất khoảng 2 tháng thì có thể làm
được việc, nhưng NKT phải mất gấp 3 lần như thế. Không những vậy, thầy cô giáo
bắt buộc phải có lòng vị tha và tính kiên nhẫn cao độ mới mong có được kết quả
như ý. tuy nhiên "ông trời" lại phú cho họ một số cá tính rất phù hợp với nghề may
như chăm chỉ, khéo tay và muốn thể hiện năng lực của mình”.
Song song với việc sản xuất kinh doanh, An Tuấn còn mở thêm được 2 khóa
10
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
dạy nghề may mặc và mây tre đan cho những đối tượng là con em chính sách,
người tàn tật và trẻ em mồ côi. Học viên sau khi ra trường đều đạt tay nghề khá,
giỏi và được tiếp nhận vào làm việc tại những cơ sở sản xuất tại địa phương.
Xưởng may
Đến cuối năm 2005, khi tình hình hoạt động của cơ sở may và Câu lạc bộ người
khuyết tật khá hiệu quả, để phát triển và thu hút thêm nhiều người khuyết tật tham
gia, câu lạc bộ đã chuyển lên thành Hội người khuyết tật huyện Vĩnh Bảo. Anh

Nguyễn Văn Tuấn một lần nữa được hơn 100 thành viên bầu làm chủ tịch Hội.
Cuối năm 2006, do điều kiện thực tế và uy tín của cơ sở lên mạnh, cộng với lực
lượng lao động dồi dào, thị trường được mở rộng, anh Tuấn đã mạnh dạn chuyển
đổi từ cơ sở thành Công ty cổ phần phát triển việc làm và hỗ trợ người khuyết tật
An Tuấn với hơn 50 người làm việc và thu nhập từ 400, 500 nghìn đồng trở lên cho
tới 700, 800 nghìn đồng.
Đầu năm 2006, Cty may An Tuấn đã mở thêm một cơ sở nữa cho NKT, tạo
việc làm thêm cho gần 20 NKT có việc làm, có thu nhập. Hiện tại Công ty đang
hoạt động với trên 40 đầu máy khâu công nghiệp và hơn 50 lao động, trong đó
65% là người khuyết tật, 35% là con em gia đình chính sách. Mức thu nhập bình
quân cho công nhân hiện tại ở mức 600 - 700 nghìn đồng/tháng.
Trong năm 2007 và 2008, Công ty đã đầu tư thêm 60 máy may, đồng thời
làm thêm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và in lưới, cắt chữ quảng cáo…thu hút
thêm
khoảng 150 lao động. Mục tiêu của công ty hướng tới sau này, trong tương lai
không xa, mức lương của công nhân sẽ là 1 triệu đồng.
● Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc làm của người khuyết tật, trong đó có
các yếu tố chính như cách nhìn nhận của xã hội đối với người khuyết tật và
việc làm, sự tự ti của người khuyết tật vào chính bản thân mình đồng thời
còn có cả những chính sách, môi trường làm việc v.v.v Tuy nhiên, chúng ta
có thể thấy rằng mô hình các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp của người khuyết
tật có thể hạn chế rất nhiều những ảnh hưởng tiêu cực đó. Cụ thể như: chủ
doanh nghiệp cũng là người khuyết tật nên có thể hiểu và thông cảm cho
những đặc điểm hạn chế của người khuyết tật cùng cảnh. Người lao động
11
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
khuyết tật cũng không còn tự ti vào bản thân mình nữa mà sẽ biết cố gắng
vươn lên.
Vì thế, hi vọng rằng những cơ sở kinh doanh của người khuyết tật như Công

ty Cổ phần phát triển việc làm và hỗ trợ người khuyết tật An Tuấn sẽ được
mở rộng và nhân rộng hơn nữa cùng với sự tham gia tạo điều kiện giúp đỡ
của chính quyền các cấp và các nhà tài trợ.
III – MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ DẠY NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT.
● Trong vấn đề tạo việc làm
- Thống nhất nhận thức NKT cần được bình đẳng về cơ hội và đối xử trong việc
tìm kiếm, trụ lâu dài với việc làm và thăng tiến ở những ngành nghề (khi có
điều kiện cho phép) phù hợp với lựa chọn của bản thân đồng thời có xét đến
mức độ cá nhân đáp ứng với công việc.
- Cần có các biện pháp chính sách phù hợp để tạo cơ hội việc làm cho người lao
động khuyết tật bao gồm những ưu đãi về tài chính đối với người sử dụng lao
động nhằm khuyến khích họ tổ chức đào tạo và sử dụng lao động khuyết tật
cũng như điều chỉnh hợp lý điều kiện làm việc, yêu cầu công việc, công cụ làm
việc, máy móc, và tổ chức công việc sao cho thuận lợi nhất cho công tác đào tạo
và sử dụng lao động khuyết tật.
- Chính phủ cần hỗ trợ thích đáng cho việc thành lập dưới nhiều hình thức khác
12
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
nhau các cơ sở việc làm bảo trợ giành cho người khuyết tật, cho các dịch vụ đào
tạo nghề, định hướng nghề nghiệp, tạo việc làm và sắp xếp việc làm cho người
khuyết tật.
- Cần loại bỏ theo một lộ trình cần thiết các rào cản của môi trường vật thể, các
rào cản trong giao tiếp, truyền thông, và kiến trúc cũng như những cản trở gây
khó khăn cho việc giao thông, tiếp cận và di chuyển tự do trong các cơ sở tạo
nghề và nơi làm việc của NKT; khi xây dựng các kiến trúc và cơ sở hạ tầng
công cộng mới, cần lưu ý xem xét các quy chuẩn phù hợp trong lĩnh vực này.
- Các dịch vụ tạo việc làm ở cả khu vực thành thị, nông thôn cần được tổ chức
vận hành với sự tham gia ở mức độ cao nhất của cộng đồng, đặc biệt là sự tham

gia của đại diện các chủ doanh nghiệp, tổ chức của người lao động và tổ chức
của NKT. Các dịch vụ phục hồi chức năng lao động và việc làm của NKT cần
được lồng ghép vào chương trình hoạt động chung của cộng đồng.
- Cần ghi nhận công lao đóng góp của các tổ chức tình nguyện có thành tích đặc
biệt trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ phục hồi chức năng lao động và việc
làm, tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập, tái hòa nhập vào cuộc sống lao
động và cộng đồng.
- Trong quá trình cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phục hồi chức năng lao động và
việc làm cho NKT, người lao động nữ giới và nam giới cần được đối xử và tiếp
cận các cơ hội một cách công bằng.
- Khuyến khích phổ biến, tuyên truyền thông tin về các gương điển hình về hòa
nhập nghề nghiệp thành công của NKT.
- Tổ chức nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu cho từng loại dạng tật
nhằm tăng cường sự tham gia của NKT vào cuộc sống lao động bình thường.
- Một số công việc có những yêu cầu mà người khuyết tật khó thực hiện tốt được,
điều này có thể được giảm thiểu bằng cách tránh những việc liên quan đến hạn
chế của mình, chẳng hạn khuyết tật ở chân thì không nên tìm những việc phải đi
lại quá nhiều. Một số khác thì yêu cầu ngoại hình và sức khỏe tốt, đây cũng là
những công việc mà họ khó có thể tiếp cận.
13
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
- Các biện pháp tạo việc làm cho NKT cần được theo dõi và đánh giá kết quả
thực hiện
● Trong công tác đào tạo:
- Ngoài các cán bộ tư vấn, chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp về phục hồi
chức năng lao động việc làm cho người khuyết tật, tất cả những người khác có
liên quan tới công tác phục hồi chức năng lao động và thúc đẩy cơ hội việc làm
cho người khuyết tật cần được tập huấn hoặc định hướng trong lĩnh vực này.
- Những người làm việc trong các lĩnh vực định hướng nghề nghiệp, đào tạo

nghề và sắp xếp việc làm nói chung cần có kiến thức đầy đủ về NKT và những
hạn chế mà khuyết tật mang lại, đồng thời cần biết về các dịch vụ hỗ trợ hiện có
dành cho NKT để giúp họ tích cực hòa nhập vào đời sống kinh tế và xã hội. Cần
tạo cơ hội cho các cán bộ này cập nhật kiến thức và tăng cường kinh nghiệm
trong các lĩnh vực này.
- Việc đào tạo, yêu cầu chất lượng và chế độ đãi ngộ đối với những nhân viên
làm việc trong lĩnh vực phục hồi chức năng lao động và đào tạo nghề cho NKT
phải ngang bằng với mức của nhân viên có nghĩa vụ, trách nhiệm tương đương
làm việc trong lĩnh vực đào tạo nghề nói chung; cần đảm bảo bình đẳng về cơ
hội nghề nghiệp giữa hai nhóm nhân viên này và khuyến khích luân chuyển
nhân viên giữa hai khối phục hồi chức năng lao động cho NKT và đào tạo nghề
nói chung.
- Trong điều kiện không có đủ nhân viên phục hồi chức năng được đào tạo chính
quy, cần có chính sách tuyển dụng và đào tạo đội ngũ phụ tá và nhân viên hỗ trợ
về phục hồi chức năng lao động. Khi điều kiện cho phép, cần tạo điều kiện để
những nhân viên này được tập huấn thêm để họ có thể trở thành cán bộ được
đào tạo chính quy. Đồng thời, khi xét thấy phù hợp, cần có chính sách khuyến
khích người khuyết tật tham gia các khóa đào tạo nhân viên phục hồi chức năng
lao động và tạo điều kiện để họ trở thành nhân viên làm việc trong chính lĩnh
vực này.
14
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân

KẾT LUẬN
Khuyết tật không phải chỉ là do số phận mà còn là hệ quả của các quyết định,
các tình huống mà theo đó người khuyết tật cũng như những người khác phải gánh
chịu ví dụ như vệ sinh dịch tễ kém, điều kiện chăm sóc sức khỏe hạn chế, chiến
tranh v.v…Người khuyết tật cũng thường xuyên là những người phải chịu thiệt
thòi trong xã hội. Vì vậy nên trách nhiệm đặt ra cho toàn thể xã hội là xóa bỏ các

rào cản để giúp người khuyết tật tuy “tàn nhưng không phế”.
Việc nhận người khuyết tật làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh đã được Nhà nước khuyến khích thông qua các chương trình, chính
sách cụ thể. Số lượng NKT vó việc làm đã ngày càng tăng lên, tuy nhiên bên cạnh
đó vẫn cớ không ít cá nhân, doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng lao động
là NKT. Họ có nhiều nỗi băn khoăn riêng ví dụ như chi phí cải tạo môi trường,
thiết bị làm việc cho người lao động có thể hoàn thành tốt công việc một cách bình
thường nhất Tuy nhiên, để giải đáp cho hầu hết những lo ngại của những người
chủ doanh nghiệp đó. Một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng thực tế chi phí cải
tạo nơi làm việc phù hợp với người khuyết tật thấp hơn nhiều so với ước tính sơ bộ
15
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
của doanh nghiệp, chi phí mua sắm thêm thiết bị để người khuyết tật có thể làm
việc như những lao động bình thường khác không đáng kể trong khi sự thiếu hụt
nhân công có thể gây cho doanh nghiệp nhiều tổn thất hơn.
Ngoài ra, bên cạnh những lợi ích về năng suất lao động cao, sự ổn định thì
những lợi ích từ các chính sách ưu đãi nhà nước và nâng cao hình ảnh thương hiệu
cũng mang lại cho DN nguồn lợi không hề nhỏ. Mặt khác, tạo việc làm cho NKT
còn góp phần xóa đói giảm nghèo cho đất nước, giảm gánh nặng phúc lợi xã hội,
đồng thời lại trực tiếp nộp thuế, tăng nguồn thu. Hơn nữa, khi NKT đi làm, họ sẽ
có tiền chi tiêu, thúc đẩy tiêu dùng. Đặc biệt khi có việc làm, tâm lý họ sẽ tự tin
hơn, không còn mặc cảm và vui vẻ sống.
Tuy nhiên, để mở đường NKT hòa nhập vào xã hội, trong đó có cả việc tham
gia quá trình sản xuất, kinh doanh và điều hành trong DN thì bên cạnh những chính
sách ưu đãi vẫn còn có sự hỗ trợ đồng bộ từ nhiều phía.
Có thể nói, những cơ sở kinh doanh của người khuyết tật có thể vượt ra khỏi
những rào cản về quan điểm xã hội, những hạn chế về cơ hội, và đóng một vai trò
quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của xã hội về người khuyết tật. mạng lưới
những người khuyết tật hay các cơ sở kinh doanh như thế này tạo điều kiện cho

người khuyết tật hòa nhập công đồng. Tuy nhiên, việc xóa bỏ các rào cản về mặt
quan điểm và thể chế để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng là một vấn đề chung
của toàn xã hội, chứ không chỉ phụ thuộc vào bản thân người khuyết tật.
Trên đây là những nhận định của em sau khi nghiên cứu vấn đề dạy nghề và tạo
việc làm cho người khuyết tật, cũng như tham khảo mô hình củ a Công ty Cổ phần
Phát triển việc làm và hỗ trợ người khuyết tật An Tuấn. Do kiến thức và cách đánh
giá vấn đề của sinh viên còn hạn chế, nên kính mong sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô về nội dung đề tài để bài tiểu luận của em được đầy đủ hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
16
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2
Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình cứu trợ xã hội - Nxb. Lao động xã hội - Hà nội 2005
2. "Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật" (2008) - Văn phòng điều
phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD).
3. "Đề án hỗ trợ người tàn tật giai đoạn 2006 - 2010" (2006) - Thủ tướng Chính
phủ.
4. "Công ước (số 159) và Khuyến nghị (số 168) về phục hồi chức năng Lao động
và Việc làm ( Người khuyết tật)", (2009) - Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
5. "Cẩm nang thông tin các dịch vụ cho người khuyết tật Việt Nam" (2006) – Hội
chữ thập đỏ Tây Ban Nha, Cộng đồng Châu Âu.
6. Website của Người khuyết tật Việt Nam (Viet Nam People With Disability):

7. Website Kênh thông tin của người khuyết tật:
8. Website Chương trình khuyết tật và phát triển (DRD): www.drdvietnam.com
9. Diễn đàn Người khuyết tật:
10. Diễn đàn Trái tim hồng:
17
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2

Chuyên đề: Người khuyết tật GVHD: Nguyễn Thị Vân
18
Sinh viên: Đỗ Thị Minh Lớp: D4CT2

×