Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận về MÔI TRƯỜNG Ở NÔNG THÔN NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.36 KB, 17 trang )

Họ tên: Bùi Ngọc Anh
Lớp:k59
Khoa: Công tác xã hội
MÔN: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI ĐÔ THỊ
CHỦ ĐỀ: “ Môi trường ở nông thôn – Nguyên nhân, thực trạng và
giải pháp”
I. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG
I.1. Một số khái niệm chung
Môi trường: Bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ
mật thiết với nhau bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại của con người và thiên nhiên
Ô nhiễm môi trường: là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa học,
sinh học…gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người, các cơ thể sống khác. Ô
nhiễm môi trường xảy ra là do cách quản lí của con người.
1.2. Các dạng ô nhiễm chính
• Ô nhiễm không khí, việc xả khói chứa bụi và các chất hóa học vào bầu
không khí. Ví dụ về các khí độc là cacbon mônôxít, điôxít lưu huỳnh, các
chất cloroflorocacbon (CFCs), và ôxít nitơ là chất thải của công nghiệp và xe
cộ. Ôzôn quang hóa và khói lẫn sương (smog) được tạo ra khi các ôxít nitơ
phản ứng với nước trong không khí (chính là sương) xúc tác là ánh sáng mặt
trời.
• Ô nhiễm nước xảy ra khi nước bề mặt chảy qua rác thải sinh hoạt, nước rác
công nghiệp, các chất ô nhiễm trên mặt đất, rồi thấm xuống nước ngầm.
• Ô nhiễm đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại (hàm lượng
vượt quá giới hạn thông thường)do các hoạt động chủ động của con người
như khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp, sử dụng phân bón hóa học
hoặc thuốc trừ sâu quá nhiều, hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa ngầm. Phổ
biến nhất trong các loại chất ô nhiễm đất là hydrocacbon, kim loại nặng ,
MTBE, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, và các hydrocacbon clo hóa.
• Ô nhiễm phóng xạ
• Ô nhiễm tiếng ồn , bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng ồn công


nghiệp
• Ô nhiễm sóng , do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình tồn tại
với mật độ lớn.
• Ô nhiễm ánh sáng ,hiện nay con người đã sử dụng các thiết bị chiếu sáng
một cách lãng phí ảnh hưởng lớn tới môi trường như ảnh hưởng tới quá trình
phát triển của động thực vật
* Ô nhiễm môi trường đất
Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các
nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền
móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con
người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp
và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu
hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người.
Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và
nghiêm trọng.
Bên cạnh đó có khoảng 3.600 chợ nông thôn, trung bình mỗi người mỗi ngày thải
ra 0,4 - 0,5 kg chất thải. Việc thu gom rác còn rất thô sơ bằng các xe cải tiến nên
mới thu gom được khoảng 30% chuyên chở về những nơi tập trung rác. Bãi rác tại
các huyện, các chợ nông thôn chưa có cơ quan quản lý và biện pháp xử lý. Chủ yếu
là tập trung để phân huỷ tự nhiên và gây nên những gánh nặng cho công tác bảo vệ
môi trường.
Bảng biểu tình hình phát sinh chất thải rắn:

Các loại chất thải rắn Toàn quốc Đô thị Nông thôn
Tổng lượng phát sinh chất thải sinh
hoạt (tấn/năm)
12.800.000 6.400.000 6.400.00

Chất thải nguy hại từ công nghiệp
(tấn/năm)
128.400 125.000 2.400
Chất thải không nguy hại từ công
nghiệp (tấn/năm)
2.510.000 1.740.000 770.000
Chất thải Y tế lây nhiễm (tấn/năm) 21.000 - -
Tỷ lệ thu gom trung bình (%) - 71 20
Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung
bình theo đầu người (kg/người/ngày)
- 0,8 0,3
(Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 - Chất thải rắn)

Thời gian gần đây, vùng nông thôn Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề từ ngồn
rác, nước và khí thải xả ra từ các khu công nghiệp trên cả nước. Chính nguồn rác,
nước và khí thải này cũng đang phá hủy nghiêm trọng sự trong lành của môi
trường nông thôn Việt Nam.
* Ô nhiễm môi trường nước
Nước có thể bị phú dưỡng do ô nhiễm.
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh
học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở
nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước.
Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo
ngại hơn ô nhiễm đất.
Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và
các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các
chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng
hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc
tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên
nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ

các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà
chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào
nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân
cư ven sông gây ô nhiễm trầm trọng,ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân trong
khu vực.
* Ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự
tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi
Ô nhiễm không khí: Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than. Do
đó, lượng bụi và các khí CO; CO2; SO2 và NOx thải ra trong quá trình sản xuất
trong nhiều làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra tại các làng nghề sản xuất
gạch đỏ (Khai Thái - Hà Tây); vôi (Xuân Quan - Hưng Yên) hàng năm sử dụng
khoảng 6.000 tấn than, 100 tấn củi nhóm lò; 250 tấn bùn; 10m3 đá sinh ra nhiều
loại bụi, SO2; CO2, CO; NOx, và nhiều loại chất thải nguy hại khác, gây ảnh
hưởng tới sức khoẻ người dân trong khu vực và làm ảnh hưởng tới hoa màu, sản
lượng cây trồng của nhiều vùng lân cận. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra các vụ xung đột, khiếu kiện như ở Thái Bình, Bắc Ninh và Hưng
Yên…
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ
không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến
đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Ô nhiễm khí đến từ
con người lẫn tự nhiên. [3] Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn
than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn
các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí
nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm từ xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm khí đáng lo ngại.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều
bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và
các cánh đồng.

Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2,
đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng
nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%,,
nitơ5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%
Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong
vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có
nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ
thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình
của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.
Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất
tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí
hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ
tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc
phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là
"kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số
loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.
II. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI NÔNG THÔN
Kinh tế nông nghiệp những năm gần đây duy trì tăng trưởng ổn
định khoảng 4,5%, góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nông thôn. Bên
cạnh những thành tựu đạt được, cũng nảy sinh những bất cập tác động đến môi
trường, đe dọa sự phát triển bền vững. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải tập trung,
kiên trì, giải quyết một cách hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường. .

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường hiện nay.
Một kết quả khảo sát mới đây của Viện Nước, tưới tiêu và môi trường (Bộ
NN&PTNT) cho thấy, với khoảng 70% dân số ở khu vực nông thôn, mỗi năm phát
sinh 13 triệu tấn rác thải sinh hoạt, khoảng 1.300 triệu mét khối nước thải sinh hoạt

và khoảng 7.500 tấn vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật. Trong đó, khoảng 80% khối
lượng rác thải, nước thải sinh hoạt và hầu hết lượng vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật
chưa được thu gom xử lý hợp vệ sinh, xả trực tiếp ra môi trường.
Hà Nội được đánh giá là đạt được những kết quả khả quan trong công tác bảo vệ
môi trường, song kết quả thu gom và xử lý nước thải, rác thải sinh hoạt chưa đáp
ứng được yêu cầu. Hiện, tổng lượng chất thải rắn ra môi trường trên địa bàn Hà
Nội ước 5.371 tấn/ngày, trong đó từ khu vực nông thôn ước khoảng 2.500
tấn/ngày. Qua điều tra, hiện Hà Nội có 355/424 xã thành lập tổ thu gom rác thải.
Có 143 xã đã tổ chức chuyển rác đi xử lý, chôn lấp tại bãi rác tập trung của thành
phố, chiếm tỷ lệ 40,28%, chủ yếu là ở các thị trấn và xã lân cận khu vực nội thành.
Một số thôn, khu dân cư ở vùng sâu, vùng xa vẫn gặp khó khăn trong thu gom rác
thải. Ngoài ra, trung bình mỗi ngày lượng chất thải phát sinh do chăn nuôi khoảng
50.000 tấn, cùng với việc chất thải rắn từ các làng nghề và nước thải sinh hoạt chưa
được xử lý triệt để đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Không riêng Hà Nội, việc quản lý, thu gom, xử lý chất thải rắn ở khu vực nông
thôn tại nhiều tỉnh, thành phố đã nảy sinh những khó khăn, bất cập. PGS.TS Vũ
Thị Hương, Viện Nước, tưới tiêu và môi trường cho biết, tại nhiều vùng nông thôn
đã hình thành các mô hình thu gom rác thải do người dân, xã, thôn tự tổ chức hoặc
mô hình HTX dịch vụ môi trường, công ty dịch vụ môi trường đảm nhiệm. Tuy
nhiên chỉ số ít mô hình thực hiện hiệu quả, phần lớn do hình thành tự phát nên hoạt
động không bền vững. Theo PGS.TS Vũ Thị Hương, kém hiệu quả là do chưa có
chính sách hỗ trợ cho các hoạt động quản lý chất thải nông thôn. Trong khi ở đô
thị, các công ty dịch vụ môi trường đô thị là DN công ích nhà nước, 80% kinh phí
hoạt động từ ngân sách cấp, 20% do dân đóng góp thì các tổ chức dịch vụ môi
trường ở nông thôn kinh phí hoạt động chủ yếu từ nguồn thu phí dịch vụ môi
trường do dân đóng góp Các hoạt động tổ chức cho cộng đồng tham gia quản lý
chất thải vẫn mang nặng tính phong trào, chủ yếu thực hiện trong các dịp lễ, tết mà
chưa được duy trì thường xuyên. Ở nhiều địa phương có hương ước về làng văn
hóa mới, trong đó quy định cụ thể về nếp sống văn hóa trong cưới hỏi, tang lễ
nhưng rất ít hương ước đề cập đến quy định về quản lý chất thải và vệ sinh môi

trường.
Sản xuất nông nghiệp đang phải chịu áp lực do ô nhiễm môi trường đất, nước và
chất lượng nông sản bị suy giảm do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức. Mặc
dù được giới khoa học cảnh báo, song nông dân vẫn lạm dụng các loại hóa chất
trong quá trình sản xuất và chưa có kế hoạch hành động bảo vệ môi trường. Kết
quả điều tra 30 mô hình thu gom rác thải tại 10 tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng
của Viện Nước, tưới tiêu và môi trường những năm gần đây, chỉ có hai địa phương
có kế hoạch triển khai thu gom vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật, nhưng đều không
thành công do không có kinh phí thực hiện và công tác tuyên truyền chưa sâu sát.
Người dân vẫn nghĩ vỏ thuốc bảo vệ thực vật là loại rác thông thường nên vứt bỏ ở
đâu không quan trọng.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên cho rằng,
nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức suy thoái về môi trường, trở thành
những vấn đề "nóng" và là mối quan tâm của toàn xã hội. Sản xuất nông nghiệp và
phát triển nông thôn đã khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp
khoảng 24% GDP, 30% giá trị xuất khẩu của cả nước, nhưng quá trình phát triển
phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường cần được gắn với trách
nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân và mọi người dân theo nguyên tắc "mình vì mọi
người, mọi người vì mình". Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát nhìn nhận,
với mức độ lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan như hiện nay và
việc tùy tiện xả chất thải chưa qua xử lý thì khó có thể phát triển nền nông nghiệp
ổn định, bền vững. Vì vậy, để phát triển nông nghiệp, nông thôn, phải giải quyết
hàng loạt mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt, lâu dài và đặt trong tổng thể, gắn kết
hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường.
=> Tình trạng ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiemx môi trường nông thôn
ngày một tăng. Tuy nhà nước đã đưa ra những giải pháp bảo vệ môi trường nhưng
vẫn đòi hỏi sự nhiệt huyết của các cơ quan quản lý vệ sinh môi trường, doanh
nghiệp, trường nghề …. Nhưng giải pháp tốt nhất vẫn chính từ ý thức tự giác của
người dân để bảo vệ và gìn giữ môi trường sống
III. NGUYÊN NHÂN TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

- Do người dân không biết xử lí nguồn rác thái sinh hoạt hợp lí
- Nguyên nhân liên quan đến tập quán và thay đổi trong thâm canh nông
nghiệp.
- Chuyển đổi cơ cấu đất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tăng sử
dụng phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, mở rộng tưới
tiêu dẫn, vấn đề cung cấp nước sạch, vấn đề vệ sinh môi trường,
- Các hoạt động sản xuất hàng hóa trong các làng nghề dẫn đến các ảnh
hưởng tới môi trường khu vực gây o nhiễm môi trường nước và không khí
- Do một lượng lớn chất thải chăn nuôi, vệ sinh môi trường không được cải
thiện và việc không đủ nguồn nước sạch tác động đến sức khoẻ của người dân khu
vực nông thôn qua các con đường nước uống, thực phẩm, qua đường hô hấp.
- Do các lò đốt gạch gây ô nhiễm môi trường không khí
- Do rác thải sinh hoạt của người dân
- Các nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường đất chủ yếu là do nông dược,
phân hóa học tích lũy dần trong đất qua các mùa vụ, ngoài ra còn do các chất thải
trong hoạt động của con người (nước thải, khí thải, chất thải rắn). Mặt khác đất
cũng là một yếu tố của môi trường nên nó tiếp nhận những chất ô nhiễm từ các yếu
tố khác (không khí, nước, vành đai sinh vật) ở mọi lúc, mọi nơi.
Theo khảo sát mới đây của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường (Bộ NN&PTNT)
với khoảng 70% dân số ở khu vực nông thôn, mỗi năm phát sinh 13 triệu tấn rác
thải sinh hoạt, khoảng 1.300 triệu mét khối nước thải sinh hoạt và khoảng 7.500
tấn vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật. Trong đó, khoảng 80% khối lượng rác thải, nước
thải sinh hoạt và hầu hết lượng vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật chưa được thu gom
xử lý hợp vệ sinh, xả trực tiếp ra môi trường.
Còn tại các vùng phía Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi
được coi là nguồn thức ăn cho cá, gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi
trường đất. Ô nhiễm đất làm mất khả năng tự điều chỉnh của hệ sinh thái đất, đất
trở nên cằn cỗi. Sự tích tụ của các hóa chất độc hại, kim loại nặng trong đất làm
tăng khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại cho cây trồng, vật nuôi và gián tiếp gây
ảnh hưởng tới sức khỏe con người.

IV.HẬU QUẢ CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Bên cạnh những bệnh dịch thường xuyên gặp như ỉa chảy, tả, kiết lỵ, một số
năm gần đây, xuất hiện các dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm như viêm não Nhật Bản,
viêm não cấp có căn nguyên từ nguồn nước bẩn, lan truyền qua đường tiêu hoá,
ngộ độc thực phẩm, ngộ độc do thuốc trừ sâu, bệnh tật do các chất độc tích luỹ.
Các bệnh dịch cúm A, dịch cúm gà lan tràn từ Nam ra Bắc, trên nhiều tỉnh thuộc
vùng đồng bằng, nông thôn gây thiệt hại lớn về kinh tế và đe doạ tới sức khoẻ dân
cư nông thôn. Đợt dịch cúm gà lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam đã diễn ra từ
cuối tháng 12-2003 tới cuối tháng 3-2004 do vi rút H5N1 đã gây ra thiệt hại lớn tới
ngành chăn nuôi gia cầm và làm cho các gia đình chăn nuôi gia cầm ở nông thôn
điêu đứng. Dịch cúm này đã lan rộng trên 57 tỉnh thành, 38 triệu con gà và gia cầm
trong tổng số 250 triệu gia cầm cả nước bị thiêu huỷ. Toàn bộ số gia cầm bị tiêu
huỷ được đổ xuống hố sâu ít nhất 2 - 3m, và chôn lấp theo đúng kỹ thuật vệ sinh
được hướng dẫn "lót nilông to trước khi thả gia cầm bị dịch bệnh, tránh chất thải
thẩm thấu vào đất gây ô nhiễm nguồn nước. Sau khi đã thả gia cầm xuống hố phải
phủ đất, phun hóa chất nồng độ cao hoặc vôi bột để khử khuẩn". Nhưng ở một số
địa phương do không tuân thủ đúng hướng dẫn trên nên có những hố chôn gia cầm
đã có hiện tượng bốc mùi hôi thối, thẩm thấu nước ra ngoài, đe dọa gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng tại khu vực dân cư lân cận.
Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn còn nhiều hộ gia đình nông thôn chưa có
nước sạch để dùng. Nước mặt ở các sông, hồ, suối, ao đã nhiễm bẩn, nhiễm mặn.
Tình hình khô hạn, thiếu nước sản xuất đang diễn ra gay gắt. Tại các vùng núi,
vùng thưa dân, tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch chỉ đạt con số rất thấp.
Tại Việt Nam có gần 80% loại bệnh tật có liên quan đến chất lượng nước và
vệ sinh môi trường mà chủ yếu là do chất lượng nước, nhất là các bệnh về đường
ruột, bệnh tả, bệnh thương hàn, ". Mục tiêu tiếp tục nâng cao tuổi thọ của người
dân Việt Nam, hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ sẽ khó đạt được, khi chúng ta chưa
thể giải quyết được "vấn nạn" ô nhiễm nguồn nước và môi trường. Tình hình càng
trở nên cấp bách hơn, khi các loại bệnh xảy ra, đặc biệt là ỉa chảy, lỵ ngày càng có
xu hướng gia tăng.

Khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ có mật độ dân cư cao so với các
khu vực khác trong cả nước. Đây cũng chính là những nơi cung cấp nguồn lương
thực, thực phẩm, sản phẩm tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp cho các đô thị của cả
nước, nhưng cũng chính là nơi tiếp nhận các loại nguồn thải thải từ khu vực đô thị.
Ô nhiễm nổi bật của khu vực là ô nhiễm do các bãi rác, ô nhiễm từ các nghĩa trang,
ô nhiễm từ các khu vực giết mổ gia súc, ô nhiễm từ làng nghề. Cần phải kể ở đây
truớc hết là ô nhiễm do chất thải phát triển chăn nuôi - hướng mũi nhọn tăng
trưởng kinh tế của khu vực này.
- Ảnh hưởng:
* Đối với sức khỏe con người:
Tổng quan các ảnh hưởng sức khỏe con người từ các loại ô nhiễm.
Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô
nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực,
tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi ngày, chủ yếu do ăn uống
bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong
thức ăn nước uống có thể gây ung thư không thể chữa trị.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khoẻ, là nguyên
nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán Các bệnh này gây suy
dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt, kém phát triển gây tử vong nhất là ở trẻ em. Có
đến 88% trường hợp bệnh tiêu chảy là do thiếu nước sạch, VSMT kém . Có thể
thấy, nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường và nguồn nước ở nông
thôn do các nguyên nhân cơ bản sau:
Đầu tiên phải kể đến tình trạng sử dụng hóa chất trong nông nghiệp như phân bón
hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan và không có kiểm soát.
* Đối với hệ sinh thái
• Lưu huỳnh điôxít và các ôxít của nitơ có thể gây mưa axít làm giảm độ Ph
của đất.
• Đất bị ô nhiễm có thể trở nên cằn cỗi, không thích hợp cho cây trồng. Điều
này sẽ ảnh hưởng đến các cơ thể sống khác trong lưới thức ăn.
• Khói lẫn sương làm giảm ánh sáng mặt trời mà thực vật nhận được để thực

hiện quá trình quang hợp.
• Các loài động vật có thể xâm lấn,cạnh tranh chiếm môi trường sống và làm
nguy hại cho các loài địa phương, từ đó làm giảm đa dạng sinh học.
Khí CO2 sinh ra từ các nhà máy và các phương tiện qua lại còn làm tăng hiệu ứng
nhà kính, làm Trái Đất ngày một nóng dần lên, các khu sinh thái sẵn có dần bị phá
hủy.
V. GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
1.1. Về phía nhà nước
- Ban hành luật chính sách bảo vệ môi truòng
- Rà soát, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về môi trường; hướng dẫn các
quy định về quan trắc môi trường, đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá
tác động môi trường nông nghiệp; kiểm soát ô nhiễm và cảnh báo dịch bệnh
trong các lĩnh vực sản xuất của ngành nông nghiệp; hoàn thiện hệ thống pháp
luật về quản lý tài nguyên rừng, tài nguyên biển; phục hồi, cải thiện môi trường
nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao công nghệ, sử
dụng công nghệ…
- Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông
nghiệp tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống đó
hướng tới. Đồng thời, tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc tăng cường sử
dụng các kiểu gen có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích ứng các điều
kiện khó khăn, duy trì độ phì của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân
canh cây trồng, sử dụng hệ thống cây hàng năm, cây lâu năm, nghề cá, chăn nuôi
tổng hợp. Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người và các sinh vật khác
như chống ô nhiễm nguồn nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu bệnh,
giảm sử dụng phân khoáng. Tăng cường các hoạt động phi nông nghiệp khác, tạo
thêm công ăn việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng … nhằm nâng cao dần đời sống
người dân. Phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững…
- Phối hợp cùng với các cơ quan chức năng để thuyên truyền thực hiện gìn giữ bảo
vệ môi truòng
- Có cơ chế hỗ trợ kinh phí cho các hộ gia đình xây dựng và sử dụng hầm

Biogas, công trình xử lý nước sinh hoạt quy mô hộ gia đình…nhằm xử lý chất
thải chăn nuôi và cấp nước sinh hoạt
- Xây dựng đề án “Hỗ trợ đầu tư thí điểm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở
nông thôn tỉnh nhằm hình thành cơ chế chính sách, kiện toàn cán bộ làm chuyên
trách về tham mưu quản lý môi trường cấp xã
- Hỗ trợ xử lý rác thải, xử lý nước thải ở khu vực nông thôn
- Tham mưu xây dựng chương trình hành động bảo vệ môi trường ở các khu
cụm công nghiệp và nông thôn trên địa bàn
- xây dựng đề án bảo vệ môi trường. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cấp,
ngành tích cực kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường huyện, xã. Hoạt động thanh, kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của
công dân về lĩnh vực môi trường cũng được Sở Tài nguyên& Môi trường chú
trọng thực hiện.
1.2 Về phía người dân
- Thực hiện dúng các quy định của nhà nước về vệ sinh và bảo vệ môi truòng
- Không vứt rác thải sinh hoạt và làm nghề bừa bãi
- Ý thức, trách nhiệm trong việc gìn giữ bảo vệ môi trường
- Thành lập đội thu gom rác thải tại địa phương
- Tiến hành phân loại rác thải hữu cơ và vô cơ trước khi đem vứt
VI. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, PHƯƠNG PHÁP CỦA CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỚNG NÔNG THÔN
1. Chức năng của công tác xã hội
- Chức năng phòng ngừa:
Tư vấn định hướng cho người dân về việc bảo vệ gìn giữ môi trường sống của
bản thân và xã hội
Tuyên truyền về tác hại của ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí đối với
sức khỏe con người
- Chức năng trị liệu:
Hỗ trợ người dân về việc xử lí rác thải trong sinh hoạt và trong công tác làm
nghề . Cung cấp các kiến thức kĩ năng giúp cho người dân xử lí rác thải hiệu

quả
- Chức năng dự doán:
Dự đoán tình hình môi trướng sắp tới và hiện tại, mức đọ hậu quả nghiêm trọng
của vấn đề ô nhiễm môi trường đối với người dân và xã hội
2. Vai trò của công tác xã hội
Công tác xã hội có nhiều vai trò trong việc bảo vệ môi trường tại nông thôn
như: vai trò phân tích, vai trò tạo điều kiện, vai trò biện hộ ngoài ra con sử
dụng các phương pháp công tác xã hội như công tác xã hội nhóm vào để giải
quyết vấn đề môi trường như tập trung người dân để xử lí rác thải, cung cấp
kiến thức kĩ năng cho một nhóm đới tượng để có thể tuyên truyền cho mọi
người về cách thức bảo vệ môi trường đúng cách. Công tác xã hội cá nhân có
vai trò tư vấn cho người dân về các vấn đề môi trường như tác hại của ô nhiễm
môi trường, cách xử lí rác thải, kĩ năng và kiến thức cần thiết để bảo vệ môi
trường sống của chính bản thân mình và cộng đồng. Vận dụng phát triển cộng
đồng để tuyên truyền các chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường do nhà
nước quy định và ban hành, cung cấp những thông tin cơ bản để người dân tự
bảo vệ môi trường một cách hiệu quả nhất thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng, tờ rơi, pano áp phích Xây dựng các dự án xử lí rác thải hợp lí và
hiệu quả, phù hợp đối với từng khu vực.

×