Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.4 KB, 32 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN MỸ ĐỨC
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỐC TÍN
- - - - - - - o0o - - - - - - -
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐÚNG
CHO HỌC SINH LỚP 1
TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC
Lĩnh vực: Tiếng Việt
Tên tác giả: Bùi Thị Minh Hương
Chức vụ: Giáo viên - Tổ trưởng tổ 1
NĂM HỌC 2012-2013
PHẦN MỞ ĐẦU
I-/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc
sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để
sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và
đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu
học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn
học khác.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng
đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc
là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân
môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành
và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở
bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh
(lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều
mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt
viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc
chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình


thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học
phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1- lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các
em thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học
các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của
môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1cũng quan trọng bởi từ chỗ các em
còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn
bản là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt
là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức
mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của
ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu
học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng
mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói
chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh
không hiểu đúng văn bản được đọc.
Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách
dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc
thông được văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra
là làm thế nào để giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong
câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng
như văn bản văn xuôi. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề tài:
“Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập
đọc”
2
II-/ MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành
kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc
nhanh. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em
thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống
trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần làm giầu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi

dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy
có hình ảnh.
Đặc điểm của dạy tập đọc lớp 1 chính là ở chỗ đây là bước chuyển
tiếp từ dạy “học vần” sang dạy “tập đọc” (ở lớp 2). Giờ tập đọc ở lớp 1 vận
dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ
tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã đọc (nhất là các vần khó) đọc
đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách
ngắt hơi ở các dấu câu, biết lên giọng và hạ giọng. Để làm tốt được những
nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục đích đưa ra một số biện pháp để giúp
học sinh đọc thông được văn bản và đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt
giọng đúng nói riêng nhằm nâng cao chất lượng của 1 giờ dạy tập đọc ở lớp
1.
III-/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở Trường tiểu
học Đốc Tín.
IV-/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
- Phương pháp thu nhận tài liệu;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
- Dạy thực nghiệm;
- Trao đổi, Toạ đàm với đồng nghiệp.
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I-/ VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí của dạy đọc ở tiểu học
a. Khái niệm đọc:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể
hiện bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói,

đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng
thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức
đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành
các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm)
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và
phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo
đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả
năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã
không hiểu khái niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói
đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm
sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.
b. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa
học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương
thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con
người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một
cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã
hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần,
từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ
tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một
phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong
của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi
đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận
thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi
dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm
hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục
mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn
diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan
trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học,
học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có

ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với
mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học.
4
Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và
học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và
động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh
thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con
người văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn
ngữ cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết
hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết
suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có
một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục
và phát triển.
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành
và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học
sinh. Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có
nhiệm vụ đáp ứng yê cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho
học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhưng mới dạy
đọc ở mức độ sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông
hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng
từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân
môn tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà học cần đạt được,
nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó
là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn
kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh
(đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những

điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này
được hình thành trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm.
Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một
trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác.
Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội
dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể
đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kỹ năng
nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ
hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ
yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình
thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác
thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả
năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là
một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sốn trí tuệ đầy đủ và
phát triển.
5
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giầu kiến
thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển
ngô ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ
cho các em.
II-/ NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình
đọc, nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh
khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là
việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan
thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết

với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá
trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung
thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận
động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ
giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và
hiểu cho được nội dung những gì được đọc.
- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của
các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được
đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau
nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng
hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết
người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt
trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy
nhiêu.
- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều
nghĩa : theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật
đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo
nghĩa rộng, đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu,
cả bài). ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu
tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa
thứ hai - đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành
tố:
1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các
từ theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào
trình độ nắm kỹ thuật đọc.
6
3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc
là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. T.G.Egorop

(dẫn theo 3.101) chia việc hình thành kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn : phân
tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh
thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự
phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì
đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát
âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý nghĩa
của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc
tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá,
nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý
nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu
trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra
đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình
thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là
đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc phân tích nội dung của
bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm
vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biêt đọc khi nó đọc mà hiểu trương
điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được những
từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không có
khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ,
hứng thú cho việc đọc.
Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất
kỹ năng cơ chế đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử
dụng phương pháp cho phù hợp.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ
học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề
chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa
của từ, của câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu

câu, các kiểu câu… Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết
quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên
để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của
đọc không thể tách rời những cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng
mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm
bảo hiệu quả dạy học.
a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu
quả về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề
thời sự, có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác
7
nhau như chuẩn hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục
đích của việc xây dựng chính âm.
b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự
lên cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những
thành phần của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố
tham gia tạo thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các
ngôn ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và
xuống giọng (cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường
độ) và sự chuyển giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố
cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng
âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh
biết làm chủ những yếu tố này.
c. Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc
Việc dạy đọc không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu
chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài
đọc ở tiểu học) nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác

phẩm văn chương nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn
cảm và đọc hiểu cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một
văn bản tốt: tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những
đặc điểm vè các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại văn
bản, các đặc điểm về loại thể của tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu
đọc ở tiểu học. Ví dụ, cách đọc và khai thác để hiểu nội dung một bài thơ,
một đoạn tả cảnh, một câu tục ngữ, một truyền thuyết, một bài sử, một bài
có tính chất khoa học thưởng thức… là khác nhau. Việc hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nội dung bài đọc cũng phải dựa trên những hiểu biết về đề
tài, chủ đề, kết cấu nhân vật, quan hệ giữa nội dung và hình thức, các biện
pháp thể hiện trong tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể chuyện và biểu
hiện các phương tiện và biện pháp tu từ…. Việc luyện đọc cho học sinh
phải dựa trên những hiểu biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình
tượng, tính tổ chức cao và tính hàm súc, đa nghĩa của nó. Tất cả những vấn
đề trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ
dàng nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không dựa trên những
thành tựu nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn
học nói riêng.
8
III-/ TỔ CHỨC DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG Ở TIỂU HỌC
1. Chuẩn bị cho việc đọc
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc
cần phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong
khoảng 30-35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi.
Ở lớp, khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp
tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và
tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao
tiếp, khi đọc thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt
này thường được nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết;

vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến
người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn
bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho
người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình
thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi
trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự tin
cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người nghe. Giáo viên
cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo mà
để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những
người này nghe rõ. Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào
lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các
em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên
nên cho học sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế
đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và
cầm bằng hai tay.
2. Luyện đọc đúng
a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính
xác, không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng.
Đọc đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách
khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm
việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ
điệu).
b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm
vị tiếng Việt.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: TD có ý thức phân biệt để không đọc:
“nàm việc”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “làm việc” ,“khỏe khoắn”.
- Đọc đúng các âm chính: TD có ý thức phân biệt để không đọc “iu
tin, chai riệu” mà phải đọc “ưu tiên, chai rượu”.
- Đọc đúng các âm cuối: TD có ý thức không đọc: “luông luông” mà
phải đọc “luôn luôn”.

9
- Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu.
Ngữ điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có
quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm
điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm
chủ những yếu tố này. Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa
là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội
dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một
từ ra làm hai. TD không ngắt hơi.
“Với em gái bé
Phải người / lớn cơ”
- Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới
từ với danh từ đi sau nó.
Thí dụ không đọc:
“Như con chim chích
Nhảy trên / đường vàng”
Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Thí dụ: không đọc
Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ
lâu hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi,
hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn
đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ
giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
3. Luyện đọc nhanh
a) Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm
chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc

chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy
đọc của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ,
không vừa đọc vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc
tiếp nhận có ý thức bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc
phải xác định tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì
vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của
đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm
thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
b) Biện pháp luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc
mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ,
10
câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc.
Ngoài ra, còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra
của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách
chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút.
Định tốc như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
IV-/ MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1
- Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển
ngôn ngữ cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn: Tập đọc, từ ngữ,
ngữ pháp, chính tả, tập làm văn. Phân môn tập đọc có vị trí quan trọng.
Dạy tốt phân môn này đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ
năng đọc nhanh, chính xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học
sinh có những hiểu biết văn học ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng,
đọc hiểu và đọc diễn cảm là quá trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua
việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được những tri thức văn hoá của dân tộc và
cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát
huy tính sáng tạo, khả năng tư duy cho các em.
Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần

sang tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần,
cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống
âm vần đã học (nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ,
đọc cụm từ và câu: tập ngắt nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ
thông thường, hiểu được ý diễn đạt đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng).
Bên cạnh nhiệm vụ ôn vần cũ, học vần mới học sinh còn được phát triển
vốn từ, tập nói câu đơn giản.
V-/ VÀI NÉT VỀ PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở LỚP 1
- Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5 của
học kỳ II (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết).
- Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia
đình, thiên nhiên đất nước.
- Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phần:
+ Văn bản đọc
+ Những từ khó cần lưu ý
+ Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần
+ Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt.
VI-/ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SINH RÈN ĐỌC
- Quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có 2
phần lớn tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai phần này có thể tiến hành
cùng một lúc, đan xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tuỳ từng bài và
từng giáo viên. Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này luôn có mối
quan hệ tương hỗ, khăng khít. Phần tìm hiểu bài giúp học sinh tìm hiểu kỹ
nội dung nghệ thuật của từng bài, từ đó học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt.
11
Ngược lại đọc diễn cảm để thể hiện nội dung bài, thể hiện những hiểu biết
của mình xunh quanh bài học.
Như vậy phần luyện đọc có vai trò quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ
giúp các em hoàn thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính
bản thân mình. Đọc tốt giúp các em hiểu biết tiếp thu được văn minh của

loài người, bồi đưỡng tâm hồn tình cảm, phát triển tư duy.
Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt
các phương pháp khác nhau để phù hợ với đặc trưng của phân môn và phù
hợp với nội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước
hết giáo viên phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm
mẫu cho học sinh nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phẩi chuẩn, diễn
cảm thể hiện đúng nội dung, ý nghĩa của bài học để học sinh bắt trước đọc
theo. Sau đó giáo viên phải kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu,
luyện đọc đúng, đọc chính xác các phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh.
Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi đúng chỗ, đúng ngữ điệu câu. Từ đó hướng
dẫn học sinh đọc diễn cảm để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả mong
muốn và gửi gắm trong bài tập đọc.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, giáo viên cần đổi mới
phương pháp giảng dạy, luôn lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người
hướng dẫn tổ chức, học sinh tự tìm hiểu, tự phát hiện và luyện đọc đạt kết quả tốt.
- Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố
khác như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên
phải luôn tích cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu
phối hợp các yếu tố trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể
hiện được nội dung của bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống
qua từng bài học.
- Bên cạnh các yếu tố trên trong giảng dạy phân môn tập đọc giáo
viên còn phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai
cũng biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm
được lời miệng. Do vậy khi giảng dạy cần phải bảo đảm nguyên tắc này.
Điều này được thể hiện rõ hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được
rèn luyện về cách phát âm, cách nghĩ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ
điệu.
+ Để giờ tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát

triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phần luyện
đọc giáo viên cần gọi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng
hạ, hạ giọng ở những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay
hơn.
Như vậy để học sinh đọc tốt môn tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc
đúng cho học sinh lớp 1 chúng ta cần đảm bảo tốt các phương pháp và
nguyên tắc trên.
12
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DẠY HỌC
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học Đốc Tín và trao đổi với
đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như
sau:
I-/ TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo
viên ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng
hơn còn ở các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu
bài quan trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định
việc luyện đọc quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện
đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn
20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc
của trường nói chung và của lớp 1 nói riêng tôi nhận thấy phần lớn giáo
viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh song do thời gian bị hạn ché
nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu
giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo
khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của
mình hay nhầm lẫn.
2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử

dụng phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp
luyện đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp
(đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu
dài…) và phương pháp đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1
Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập
đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với
nội dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
13
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu → cá nhân học sinh đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và
đọc mẫu sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em
khác nghe và nhận xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành đoạn sau đó cho học sinh đọc nối
tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc → các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.

+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: Ghép từ thành câu
Tiết 2
4. Tìm hiểu bài và luyện nói
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với
nội dung của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)
- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân → đồng thanh)
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những
chủ đề mà bài đọc yêu cầu.
5. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra
một số kết luận sau:
14
- Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
- Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ
chính của dạy đọc.
- Trong giờ tập đọc giáo vien còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em
tự phát hiện ra cách đọc. Giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học
sinh sửa phát âm sai do học sinh nói ngọng hoặc do tiếng địa phương.
- Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít
chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời

gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy.
3. Đối với học sinh
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi
nhẹ môn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy
nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng
chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm
sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em
còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ
tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học
sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự
nhiên.
15
CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc
là nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy
những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập
đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là:
1. Đọc mẫu:
- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ
năng đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ
ràng, trôi chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho
học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm
theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách
mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không
để bài đọc bị gián đoạn.
- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 → 3 bài đầu) giáo
viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng

ở giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo
khoa để tạo cho các em có thói quen làm việc với sách.
2. Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:
- Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
- Dạng văn xuôi
Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có:
- 23 bài dạng văn xuôi
- 19 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1
a. Luyện đọc từ ngữ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước
khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần.
Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó,
hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài
việc cần lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay
nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng
ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này.
Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
16
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã
tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh
thẫm, nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp
nhà…” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần
còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh.
Cụ thể như:
Từ Học sinh đọc nhầm
Xanh thẫm Xăn thấm

Nụ hoa Lụ hoa
Cánh xoè ra duyên dáng Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngát Ngan ngác
Toả khắp vườn, khắp nhà Toả khắc vườn, khắc nhà
Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm
thấy khó đọc trong khi phát âm.
Thí dụ: Bài “Chú công”
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh”
nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó
đọc đó là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “mầu
sắc”, “xoè tròn” với “xèo tròn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích
tiếng để giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta
cần tập trung gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này
đọc được đúng thì việc gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là
một việc làm không thể thiếu bởi vì các êm yếu sẽ bắt chước các bạn để
đọc và như vậy các em sẽ có ý thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng
thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc,
đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học
sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay
cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời.
- Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết
tăng cường Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm
đầu và vấn đề giúp các em phát âm tốt hơn.
Thí dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
….o… ắng , …o…ê , ….í….ẽ , ….áo…ức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
17
… ộn….ã , … ập ….ờn , tháng… iêng

+ Bài tập 3: Điền s, x
…ản …uất , …anh….anh , …o….ánh
…ung phong , ….ừng…ững
+ Bài tập 4: Điền vần ăc, ắt hay ăp
m… trời , m… áo , đôi m……
kh……… nơi , th……. nến
+ Bài tập 5: Điền vần anh hay ăn
ch … len , c…… đẹp , c…… nhà
m…. khoẻ , bức tr…….
.v v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền
xong giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các emđọc. Nếu các em đọc sai
giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm
tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc tròn bài đọc tốt
hơn.
b. Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại
một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể
hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ
để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ,
vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ
thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là
ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không
tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong
bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc
thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt
giọng rồi hướng dẫn
Thí dụ: Bài “Tặng Cháu”
Vở này / ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là
Mong cháu / ra công mà học tập

Mai sau / cháu giúp nước non nhà
Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến
hết bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để
khi đọc không bị quên.
Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh
nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những
bài thơ của lớp 1 thường là ngắn nên công viẹc này cũng không chiếm quá
nhiều thời gian trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhân
18
ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nói sai giáo
viên sửa lại cho học sinh.
Thí dụ 1: Bài “Mẹ và cô”
Học sinh thường ngắt nhịp như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới ôm / cổ cô
Buổi chiều / bé / chào cô
Rồi sào / vào lòng mẹ
Mặt trời / mọc / rồi lặn
Trên đôi chân / lon ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Tôi đã sửa lại những câu học sinh sai và nêu cho các em thấy tại sao
ngắt nhịp như vậy lại là sai.
Thí dụ: Câu “chạy tới ôm cổ cô” ngắt nhịp như trên là sai vì “ôm cổ
cô”là một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “cổ” thì cụm từ đó sẽ
bị tách ra và nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Hay câu “Buổi chiều bé chào
cô” cũng tương tự tôi đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới / ôm cổ cô
Buồi chiều / bé chào cô

Rồi / sà vào lòng mẹ
Mặt trời mọc / rồi lặn
Trên đôi chân lo ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Thí dụ 2: Bài “Kể cho bé nghe”
Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen
nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối
dòng 1 đọc vắt luôn sang dòng 2, cuối dùng 3 đọc vắt luôn sang dòng 4 .
Cứ như thế cho đến hết bài.
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong
các tiết tăng cường tiếng Việt tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc
bài thơ ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là
những câu ứng dụng hay bài ứng dụng đã có ở phần học vần.
19
Thí dụ:
“Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Hay
“Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra”
c. Đọc đúng: dạng văn xuôi
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết
ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt
hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không
ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít
ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần

hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm
những câu văn dài đó hoặc do chính giáo viên đưa ra. Sau đó yêu cầu học
sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng sai. Đối với học
sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại
ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn
nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác
định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh
cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn,
đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào
các tiếng, từ, dấu câu.
Thí dụ: Bài “Trường em”
Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là:
“Ở trường/ có cô giáo hiền như mẹ/ có nhiều bè bạn thân thiết như anh em/”
Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên
(vì đây là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn
cách đọc).
Thí dụ 2: Bài “Đầm sen”
Học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng như sau:
“Suốt mùa sen/ sáng sáng lại có những người ngồi trên thuyền nan/ rẽ
lá/ hái hoa”
Tôi đã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau:
“Suốt mùa sen , / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền
nan / rẽ lá / hái hoa //”
20
Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về
thời gian mà con người đi thăm đầm sen.
Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh
cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời)
Thí dụ 3: Bài “Vì bây giờ mẹ mới về”
Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con.

Những câu hỏi của mẹ:
Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu)
Những câu trả lời của cậu bé.
Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối câu)
Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo
viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn
đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc
đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc
đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt.
Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện
đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc
cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn
giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong
lớp.
- Luyện đọc diễn cảm sẽ được thể hiện trong tiết 2, trong phạm vi đề
tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề đọc đúng. Vì vậy mà cách hướng dẫn đọc
diễn cảm sẽ không được nêu lên trong đề tài.
d. Luyện đọc củng cố và nâng cao
Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành
thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho
học sinh luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em
đó được tham gia đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong
quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho
các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối
phân vai. Đối với bài thơ cần cho các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc
chỉ có 35 – 40 phút vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học
sinh phải đọc trước văn bản ở nhà. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo,
phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho
đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay
đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong

giờ học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh tự tìm ra
kiến thức.
21
CHƯƠNG IV
DẠY THỰC NGHIỆM
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối lớp 1 của mình. Sau đây là 2
bài tập đọc mà tôi xin trình bày giáo án trong đề tài đó là bài “Mẹ và cô” và
bài “Sau cơn mưa” khi dạy hai bài này tôi đã áp dụng những biện pháp nêu
trên để rèn đọc cho học sinh đạt kết quả tốt.
Dưới đây là nội dung hai giáo án đó
Tiết số 1 - Tuần: 4
Tên bài dạy

: Mẹ và cô
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:
+ Đọc đúng, phát âm đúng các tiếng có phụ âm đầu l, s, ch, tr
+ Biết nghỉ hơi đúng trong mỗi dòng thơ
+ ôn vần uôi, uơi
+ Hiểu nghĩa từ lon ton, chân trời
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh vẽ như SGK.
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
dự
kiến
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
5’
A. Bài cũ
Đọc bài: Mưu chú Sẻ và trả lời câu hỏi

+ Khi bị Mèo chộp được Sẻ đã nói gì với
mèo?
+ Sẻ đã làm gì khi Mèo đặt nó xuống
đất?
- 2 học sinh đọc và trả
lời câu hỏi (mỗi em trả
lời một câu). Lớp nhận
xét
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài:
Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền
Mẹ và cô là những người chăm sóc dạy
dỗ chúng ta nên người. Bài tập đọc “Mẹ
22
T.gian
dự
kiến
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
và Cô” hôm nay sẽ cho chúng ta thấy
được tình cảm của em bé đối với mẹ và
cô → Ghi bảng tên đầu bài
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
- Giọng đọc dịu dàng tình cảm
Học sinh theo dõi bài
đọc ở bảng
b. Hướng dẫn học sinh đọc
5’
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm những từ

(tiếng) có chứa l, s, ch có trong bài →
Giáo viên ghi lên bảng những từ đó:
+ Buổi sáng, chào mẹ, chạy tới, buổi
chiều, sà vào lòng mẹ
Cá nhân học sinh tìm từ
(tiếng) và đọc theo yêu
cầu của giáo viên
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần
lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp
phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn
khi đọc và viết: buổi, chạy, lặn.
Lưu ý

: Tập trung gọi những em còn đọc
yếu
Trong khi học sinh đọc, giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ
Lon ton: dáng đi nhanh nhẹn của em bé
* Luyện đọc câu:
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi bài
viết ở SGK và cho biết xem bài thơ có
mấy dòng thơ?
- Giáo viên gọi 1 nhóm đọc nối tiếp nhau
từng dòng cho đến hết hài
- Giáo viên hướng dẫn cách ngắt giọng ở
từng dòng thơ
7’
Buổi sáng / bé chào mẹ //
Chạy tới / ôm cổ cô //
Buổi chiều / bé chào cô //

Rồi / sà vào lòng mẹ //
Mặt trời mọc / rồi lặn //
Trên đôi chân / lon ton //
Hai chân trời / của con //
Là mẹ / và cô giáo //
Cá nhân học sinh đọc
nối tiếp từng dòng cho
đến hết bài. Khi bạn
đọc những học sinh
khác nhận xét bạn đọc
đúng hay chưa
23
T.gian
dự
kiến
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
* Luyện đọc đoạn:
- Chia bàn làm 2 đoạn, mỗi khổ thơ là 1
đoạn
Cá nhân (nhóm) học
sinh đọc nối tiếp đoạn
5’
- Tổ chức cho học sinh đọc theo nhóm
hoặc cá nhân, đọc nối tiếp
* Luyện đọc cả bài:
Tổ chức cho học sinh đọc theo cá nhân
(nhóm) → cuối cùng cho cả lớp đọc đồng
thanh toàn bài
Cá nhân (nhóm) học
sinh đọc toàn bài

→ Cả lớp đồng thanh
toàn bài
3’ Nghỉ giữa giờ
3. Ôn vần: uôi, ươi
- Yêu cầu học sinh đọc bài tập 1, 2, 3 và
giải từng bài
+ Bài 1

: Tìm tiếng trong bài có vần uôi Cá nhân học sinh tìm
từng bài
+ Bài 2

: Tìm tiéng ngoài bài có vần uôi,
ươi
Cá nhân học sinh tìm và
ghép trên bộ chữ
+ Bài 3

: Nói câu chứa tiếng có vần uôi
hoặc ươi
Cá nhân học sinh nói
câu, các bạn khác nhận
xét
Giáo viên sửa chữa cho học sinh nếu các
em nói sai
3’ 4. Củng cố: đọc lại bài “Mẹ và Cô” Thi đọc giữa các tổ
Tiết số 1 - Tuần: 31
Tên bài dạy: Sau cơn mưa
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:

+ Đọc trơn cả bài “Sau cơn mưa”
+ Luyện đọc các từ ngữ “mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn
nhơ, sáng tựa, quay quanh, giội rửa”
+ ôn vần ây, uây
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh hoa râm bụt và tranh vẽ như SGK
24
- Học sinh : Sách giáo khoa
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
dự
kiến
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
5’
A. Bài cũ : Bài Luỹ tre
+ Đọc khổ thơ 1 của bài và trả lời câu hỏi:
Khổ thơ này tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích
hình ảnh nào của luỹ tre vào buổi sớm?
+ Đọc khổ thơ 2 của bài và trả lời câu hỏi:
Khổ thơ tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích
hình ảnh nào trong khổ thơ này?
- Mỗi khổ thơ một
học sinh đọc và trả
lời câu hỏi
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài :
2’
Giáo viên dùng lời:
Mùa hè thường có các trận mưa rất to
nhưng mau tạnh, gọi là mưa rào. Hôm nay

các em sẽ học một bài văn tả cảnh vật sau
một cơn mưa rào → Giáo viên ghi bảng
tên đầu bài.
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
- Giọng chậm, đều, tươi vui
Học sinh theo dõi bài
đọc ở bảng
b. Hướng dẫn học sinh đọc
* Luyện đọc từ ngữ
Giáo viên gọi 1 học sinh giỏi đọc to những
từ ngữ mà SGK yêu cầu luyện đọc → cô
ghi bảng các từ đó: mưa rào, đoá râm bụt,
xanh bóng nhởn nhơ, sáng rực, mặt trời
quây quanh, vườn
5’
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần
lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp
phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn
khi đọc và viết: rào, đoá, xanh, quây,
quanh
Cá nhân học sinh đọc
lần lượt từng từ và
cho đến hết kết hợp
phân tích tiếng theo
yêu cầu của giáo viên
- Lưu ý

: Tập trung gọi những em đọc còn
yếu

- Trong khi học sinh đọc giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ:
+ Đoá râm bụt: Sử dụng tranh hoa râm bụt
25

×