Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nguyên tắc xây dựng Đảng CSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.49 KB, 10 trang )

Câu 1: Nguyên tắc xây dựng Đảng CSVN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng XHchủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống văn hoá, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh
hoa văn hoá nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Tư tưởng về Đảng cộng sản Việt Nam là một trong những tư tưởng chủ
yếu của hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và
rèn luyện Đảng cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng
suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, để lãnh đạo nhân
dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người
về Đảng cộng sản, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính
quyền, là một phần cực kỳ quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng
của Người nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch
vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn XH, là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự là vấn đề then chốt
đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đang được triển khai rộng khắp trên cả
nước ta hiện nay.
1
Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam là:
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi; Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng cộng sản Việt Nam
- “Đảng của giái cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”; Đảng


cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”; Đảng cộng sản Việt
Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp
vô sản; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với dân; và Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Đảng cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của
Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản là một trong những luận điểm chủ yếu của Hồ
Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam. Đây chính là những nguyên tắc mà Lênin đã
đề ra, để phân biệt với những đảng cơ hội của quốc tế II, những đảng đó đã biến
thành tôi tớ của giái cấp tư sản, phản bội chủ nghĩa Mác và quyền lợi của giái cấp
vô sản. Nếu khái quát những luận điểm của Hồ Chí Minh, có thể thấy Người đã đề
cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau:
Tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức
chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh
của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức. Vì vậy, Hồ
Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Hồ Chí
Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
trong một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ
không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập
trung trên cơ sở dân chủ,chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán,
chuyên quyền.
2
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành
động. Do đó thiêủ số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng
viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho "Đảng ta tuy nhiều người,
nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người". Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc
thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm
cho nội bộ của Đảng âm u. Hơn nữa có dân chủ trong Đảng, mới có thể nói đến dân
chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần

hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách:
Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm
Sửa đổi lối làm việc, Người đã phân tích rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài
giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy
hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người
cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này,
người thấy mặt kia, do đó hiều được mọi mặt, mọi vấn đề.
Về cá nhân phụ trách, Người đã chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ
lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao
cho một nhóm người thì cũng cần có một người phụ trách chính. Như thế công việc
mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ vào
tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “ nhiều sãi không ai
đóng cửa chùa”.
Đối với nguyên tắc nầy Người đã kết luận: Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi
đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do
cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng
việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau. Tư tưởng
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
Tự phê bình và phê bình:
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc sinh
hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Mỗi đảng viên trước hết tự mình phải
thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa, nếu biết tự
phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được.
3
Tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ thường xuyên chứ không phải là giải
pháp nhất thời, là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn,
tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Đó cũng chính là vũ khí để nâng cao
trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm
tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.

Thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng đắn, nghiêm túc không phải là
việc dễ dàng. Người đã thẳng thắn vạch rõ một đảng mà dấu diếm khuyết điểm của
mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
khuyết điểm, nguyên nhân và hoàn cảnh đưa đến khuyết điểm rồi tìm cách sữa
chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn chắc chắn và
chân chính.
Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách
mạng, mà còn là nghệ thuật của cách mạng; cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn,
càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này,
đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với
người khác. Phải phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong phê
bình và tự phê bình như thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê
bình, không dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng
phê bình để nói xấu, bêu nhọ, vùi dập, đả kích người khác
Kỷ luật nghiêm minh và tự giác:
Cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và
tự giác làm cho Đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi
cho sự nghiệp độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ,
đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay
đảng viên thường, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
4
Tự giác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của
những người tự nguyện đứng trong một hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Nếu việc vào Đảng không phải là việc ép buộc đối với
bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỷ luật của Đảng cũng như vậy.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết

của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một khối thống nhất về tư
tưởng và hành động. nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành
động, “Đảng sẽ xệch xoặc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”.
Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi
cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật củaa các đoàn thể,
pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm
chí đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức của giai cấp công nhân, ý thức của
Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đó đối với mọi cán bộ,
đảng viên từ trên xuống dưới chỉ làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại, ý thức
kỷ luật đó càng thấp, nếu cán bộ, đảng viên càng có nhiều vi phạm kỷ cương phép
nước, tự cho mình là người lãnh đạo, coi thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân,
thì uy tín của Đảng càng giảm thấp, càng đưa đến những nguy cơ cho Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng:
Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, toàn đảng phải đoàn
kết thành một khối vững chắc, toàn Đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi
đảng viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của
mắt mình-Đâylà một nguyên tắc quan trong của Đảng kiếu mới của Lênin.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây dựng sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong
nhân dân. Tư tưởng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân là một tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh. Quán triệt tư tưởng này trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và
nhân dân ta đã xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành
được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
5
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa
đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành

hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất thật sự,
lành mạnh, chân chính trong Đảng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này.
Tình hình càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, càng đòi hỏi phải củng cố
và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh
đạo; bởi lẽ sự đoàn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến sự
đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam thực sự là một đảng mácxít-lêninnít chân chính, là
Đảng của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng
nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào P.trào cách mạng thế
giới.
Trong nhiều thời kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản đã được quán
triệt trên cả 03 mặt xây dựng Đảng: chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng
trở thành bộ tham mưu sáng suốt lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Từ đó Đảng lãnh
đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc giành thắng lợi ngày càng
to lớn hơn cho độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặc hiểm nghèo, mọi giai đoạn cách
mạng khác nhau. Trên cơ sở kiên định mục tiêu lâu dài là độc lập dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của cách
mạng.
6
Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến
công, luôn đề phòng và kịp thời khắc phục những lệch lạc “ tả- hữu”, chống cơ hội,
xét lại, chống giáo điều bảo thủ, đồng thời dự báo các chiều hướng có thể xảy ra.
Đó là tư tưởng cách mạng khao học lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, lấy
thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo hiện thực Việt Nam làm việc
tiêu, để vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời
làm giàu thêm trí tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, thâu hóa những tinh hoa văn hóa nhân loại, để giành thắng lợi

cho cách mạng.
Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch vững mạnh; một tổ chức
chiến đấu kiên cường, khi tiến đánh thì trăm người như một; một tổ chức với một
đội ngũ cán bộ, đảng viên coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, nâng cao năng lực, luôn gắn bó máu thịt với dân, dám hy sinh xả
thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đó là một tổ chức trọng chất
lượng hơn số lượng, lấy việc nâg cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng làm nhiệm
vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn Đảng.
Sau các phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX, năm 1930 Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặc của cách mạng Việt Nam. Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của cách mạng Tháng
Tám năm 1945, thành lập NNước VNDCCH; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
từng bước đưa đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng đã phạm khuyết điểm sai lầm, một bộ phận cán
bộ, đảng viên đã thoái hóa biến chất, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của
Đảng. Với tinh thần cách mạng của một Đảng cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, dám
công khai thừa nhận khuyết điểm sai lầm trong công tác lãnh đạo, công khai vạch
rõ những tệ nạn đã có ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra những biện
pháp cần thiết để sửa chữa, khắc phục.
Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải trưởng thành hơn, vượt lên chính bản
thân mình, đồng thời cũng làm bộc lộ rõ những điều bất cập. Những thành tựu và
yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách
nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng.
7
Từ Đại hội VIII đến nay, Đảng ta đã có nhiều cố gắng tiến hành nhiệm vụ
then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển Kinh
tế . Hội nghị TW 6 (lần 2) đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách

trong công tác xây dựng Đảng; mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến
hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng.
Qua gần 2 năm thực hiện, cuộc vận động đã thu được một số kết quả và kinh
nghiệm bước đầu nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Trong công tác xây dựng
Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm,
nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên,
chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối
sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỷ
luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết. Công tác tư tưởng, công tác lý luận
còn yếu kém, bất cập. Công tác tổ chức, cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Tổ
chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng và pháp luật của nhà nước còn yếu.
Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu của những tồn tại trên là do nhiều cấp ủy
và tổ chức Đảng, kể cả BCHTW và BCT chưa chỉ đạo tập trung và kiên quyết công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ trương, biện pháp thiếu đồng bộ; chưa chỉ đạo
kết hợp tiến hành tự phê bình và phê bình với kiện toàn tổ chức, đổi mới cơ chế,
chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lý ktế tài chính và tăng cường công tác giáo
dục cán bộ, đảng viên.
Trong những năm tới toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây
dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6(lần 2) khóa VIII, tập trung làm tốt
những công tác quan trọng sau đây:
Trên cơ sở tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng, tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức Đảng
từ Trung ương đến cơ sở thành nề nếp thường xuyên và theo định kỳ.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu làm trong sạch đội
ngũ đảng viên. Cán bộ đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của đảng và pháp luật của Nhà nước. Thi
hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
8
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp,

vững vàng về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiển, gắn bó với nhân dân. Đến hết năm 2005,
phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao
cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành nhất định.
Tất cả các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức
năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh
tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính
chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lõng vai trò lãnh đạo.
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy
ở cơ sở đến Ban chấp hành Trung ương. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực
đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.
Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối
với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh
đạo độc đoán, chuyên quyền, léo bè, kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp
trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết
điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì
giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Tăng cường
chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm cá nhân.
Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp,
tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính
sách của đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế
làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
Nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu(lần hai) và cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng đã quán triệt những tư tưởng lớn của Hồ chủ tịch về Đảng
cộng sản. Xây dựng chỉnh đốn đảng là nhằm thực hiện câu nói của chủ tịch Hồ chí
Minh: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh". Đảng phải là đảng của trí tuệ tiên phong
ngang tầm thời đại thì mới đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI, mới giữ
được định hướng xã hội chủ nghĩa, mới giành được thắng lợi cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
9
Tư tưởng HCM vẫn soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay và lâu
dài về sau.
10

×