Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bộ máy hành chính Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.48 KB, 12 trang )

Câu 1 - BMHC NN
1. Khái niệm, đặc điểm [*] Việc nghiên cứu, tìm hiểu BMHC NN giúp
chúng ta hiểu rõ và có cái nhìn khách quan hơn về cấu trúc, thực trạng tình
hình của BMHC NN để từ đó có những quan điểm đúng đắn nhằm xây dựng
BMHC NN gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khi đề cập đến BMHC NN, chúng ta có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau; nhưng chung quy lại, BMHC NN là hệ thống các cơ quan nhà
nước có tư cách pháp nhân công quyền do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng
cấp lập ra nhằm quản lý các công việc hàng ngày của xã hội, cung cấp các
dịch vụ công thông qua hoạt động của các công sở.
[*] BMHC NN là bộ phận quan trọng trong Bộ máy Nhà nước được thành
lập theo Hiếp phán và Pháp luật, để thực hiện các quyền lực nhà nước, có
chức năng quản lý hành chính Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Do vậy, BMHC Nha nước cũng mang các đặc điểm chung của Bộ máy
Nhà nước , đó là:
Một là, BMHC NN hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, được tổ
chức hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính quyền lực Nhà nước
thể hiện ở chỗ BMHC NN nhân danh Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ
phát luật nhằm thực thi quyền quản lý hành chính Nhà nước. Chính những
biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh Nhà nước, một
bộ phận tạo nên quyền lực Nhà nước.
Hai là, cũng như bộ máy Nhà nước, BMHC NN mang tính chỉnh thể.
Tính chỉnh thể được thể hiện: BMHC NN là hệ thống các cơ quan có mối liên
hệ chặt chẽ, thống nhất, thành lập từ trung ương đến địa phương.
Ba là, BMHC NN thể hiện tính lợi ích, thông qua chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền để bảo vệ, duy trì các lợi ích (lợi ích dân tộc, quốc gia, giai
cấp…)
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, BMHC NN còn có những đặc điểm
riêng như sau:
Một là, BMHC NN được tổ chức thống nhất, tập trung theo cấp hành


chính từ trung ương đến cơ sở, do cơ quan cùng cấp lập ra. BMHC NN được
tổ chức thành một khối thống nhất từ trung ương đến địa phương, đứng đầu là
chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống
nhất , bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra
sức mạnh tổng hợp của cả bộ máy, tránh được sự phân hoá giữa các địa
phương hay vùng miền khác nhau.
Hai là, BMHC NN thực hiện chức năng châp hành và điều hành (quyền
hành pháp); đay là phương diện hoạt động chủ yếu của BMHC NN. Chức
năng chấp hành có nghĩa là BMHC NN chỉ tiến hành các hoạt động để chấp
hành Hiếp pháp, pháp luật, Nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước. Chức
năng điều hành được thể hiện trong việc BMHC NN có thẩm quyền tổ chức
thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá trình đó, bộ máy hành
chính không chỉ tụ mình thực hiện pháp luật mà quan trọng hơn cả là đảm
nhận chức năng chỉ đạo, vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực
thuộc theo một quy trình thống nhất, tổ chức để mọi đối tượng có liên quan
thực hiện PL nhằm hiện thực hoá các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ quản lý. Chức năng chấp hành và điều hành trong BMHC NN luôn
đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, nhờ đó có thể phân biệt với hoạt động lập pháp và tư pháp.
Ba là, BMHC NN được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc song trùng,
thường xuyên liên tục và ổn định. Nguyên tắc song trùng là một giải pháp hữu
hiệu trong việc tổ chức BMHC NN. Theo đó, ngoại trừ chính phủ là cơ quan
đứng đầu BMHC NN thì mỗi cơ quan khác trong bộ máy đều lệ thuộc vào hai
cơ quan: một cơ quan theo chiều dọc (cơ quan hành chính cấp trên) để đảm
bảo sự thống nhất của bộ máy, một cơ quan theo chiều ngang (cơ quan quyền
lực cùng cấp) để đảm bảo sự chủ động của mỗi cáp quản lý. Việc tổ chức
BMHC NN theo nguyen tắc song trùng thể hiện sự hợp lý về thẩm quyền của
mỗi cấp quản lý, vừa đảm bảo điều hành thông suốt, thống nhất trong bộ máy,
vừa tạo sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý. BMHC NN hoạt động
thường xuyên liên tục, hằng ngày nhằm mục tiêu đưa quan điểm, chính sách

của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống của công dân và tổ chức
đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội.
Bốn là, BMHC NN là bộ phận lớn nhất, rất phức tạp nhưng phát triển nhất
trong bộ máy Nhà nước. Mỗi cơ quan trong BMHC NN hoạt động dựa trên
những quy định pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và
có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao, đó là mối
quan hệ trực thuộc trên dưới, trực thuộc ngang dọc…
Năm là, Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp
luật.
2. Cấu trúc của bộ máy HCNN; về chức năng, thẩm quyền;
BMHC NN theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) bao gồm Bộ
máy hành chínhNhà nước trung ương và BMHC NN địa phương. Ở trung
ương bao gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quang ngang bộ, cơ quan trực thuộc
chính phủ. Thành viên của chính phủ có Thủ tướng, các phó thủ tướng, Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và thủ trưởng các cơ quan trực thuộc
chính phủ.
Chính phủ Việt nam là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm
hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ là cơ quan có toàn
quyền giải quyết mọi vấn đề trong các hoạt động điều hành và chấp hành, trừ
những vấn đề thuộc quyền của quốc hội, uỷ ban thường vụ của quốc hội, chủ
tịch nước và của những cơ quan khác. Chính phủ lãnh đạo tập trung, thống
nhất các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc chính phủ, các cơ quan
hành chính Nhà nước địa phương
Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản

lý Nhà nước dối với ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước, quản lý Nhà
nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực. Cơ cấu tổ chức bộ gồmvụ,
thanh tra, văn phòng bộ; cục, tổng cục (không nhất thiết các bộ đều có); các tổ
chức sự nghiệp. Cơ quan trực thuộc Chính phủ là một tổ chức do Chính phủ
thành lập nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn do chính
phủ quy định. Về thẩm quyền ban hành văn bản: Chính phủ ban hành Nghị
quyết, Nghị định; Thủ tướng ban hành Quyết định, Chỉ thị. Bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành Quyết định, thông tư, chỉ thị.
Ở địa phương bao gồm: uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan trực
thuộc. Uỷ ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính Nhà nước ở
địa phương. Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo việc thi hành
hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Thành viên Uỷ ban nhân các cấp bao
gồm: Chủ tịch, các phó chủ tịch, uỷ viên. Uỷ ban nhân dân các cấp có các cơ
quan chuyên môn giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước ở địa phươngvà thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự uỷ quyền
của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và hướng dẫn
về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để HĐND cấp tỉnh quyết định phù
hợp với đặc điểm riêng của địa phương. Các cơ quan chuyên môn của UBND
cấp tỉnh là các đơn vị cấp sở, UBND cấp huyện là các phòng, ban chức năng.
UBND cấp xã không có cơ quan chuyên môn. Tham mưu, tư vấn giứp uỷ ban
nhân xã về chuyên môn do các công chức xã đảm nhận. Về thẩm quyền ban
hành văn bản: UBND cấp tỉnh, huyện ban ahfnh quyết định, chỉ thị; UBND
cấp xã ban hành quyết định.
3. Khái quát thực trạng TC & hoạt động của BM HCNN.
Trong thời gian qua, nền hành chính nước ta đã đạt được những kết quả
cụ thể, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, bảo đảm sự thành công
của công cuộc đổi mới, cụ thể là:

- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và các cơ quan hành chính các
cấp được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn. BMHC NN từ Trung ương
đến cơ sở vận hành, phát huy tác dụng hiệu quả tốt hơn, đã điều chỉnh làm rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong hệ thống hành chính, khắc phục
những chồng chéo, trùng lắp về chức năng nhiệm vụ.
- Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà
nước từ chính phủ, các bộ, ngành trung ương đến UBND các cấp đã có nhiều
thay đổi, tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào qảun lý Nhà nước.
- Từng bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là thể
chế hành chính kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường dịnh
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đội ngũ cán bộ công chức được củng cố kiện toàn một bước, được chăm
lo đào tạo tốt hơn. Việc quản lý, sử dụng cán bộ công chức được đổi mới một
bước từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch khen thưởng, kỷ luật đến
đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ chính sách tiền lương bước đầu đã được cải thiện
theo hướng tiền tệ hoá.
- Một kết quả không kém phần quan trọng trong làm rõ chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan hành chính Nhà nước là bước đầu phân biệt hoạt động cơ
quan hành chính Nhà nước với đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.
Tuy nhiên bên cạnh những kế quả đại được, bộ máy hành chính nước ta
vẫn bộ lộ nhiều hạn chế:
- BMHC NN ở nước ta còn cồng kềnh, nặng nề, nhiều tầng nấc, thiếu tập
trung, thông suốt. Tổ chức bên trong của các bộ ngành trung ương có chiều
hướng chia nhỏ các lĩnh vực công tác để lập thêm tổ chức và có xu hướng tìm
mọi lý do để nâng cấp tổ chức không hợp lý. Tổ chức và hoạt động của
BMHC NN chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Phân cấp, phân quyền còn rất chậm, nhiều bất hợp lý. Chức năng của
từng cơ quan hành chính chưa được phân định rõ và phù hợp, còn chồng chéo
về thẩm quyền và nhiệm vụ quản lý nhà nước. Sự phân công, phân cấp giữa

các ngành, các cấp và các ngành chưa thật sự rành mạch. Chính phủ, thủ
tướng chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều
việc, trong khi đó chức năng chính là tập trung quản lý vĩ mô không được
thực hiện tốt.
- Đội ngũ cán bộ công chức còn rất bất cập, yếu kém về phẩm chất, tinh
thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm
việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dan tiếp tục
diễn ra nghiêm trọng trong một bộ phận CBCC; bất cập về nhiều phương
diện.
- BMHC cơ sở còn xa dân, yếu năng lực, không nắm chứac địa bàn, lúng
túng bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
- Hiện đại hoá công sở, đổi mới phương thức, phong cách làm việc còn
chậm, kém hiệu quả. Chưa có những cơ chế chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiỆp, tổ chức làm dịch vụ
công.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên là do:
- Nhận thức của CBCC về vai trò, chức năng quản lý, về xây dựng
BMHC NN trong tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa
thống nhất, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiến chưa được làm sáng tỏ, còn
nhiều chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế.
- Mặc dù chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm các cơ quan
hành chính nhà nước đã được điều chỉnh, nhưng nhìn chung vẫn chưa phù
hợp với yêu cầu của quản lý xã hội và quản lý nhà nước đối với nền kinh tế
thị trưuường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu là tư duy
kinh tế và hành chính chậm được đổi mới.
- Cải cách bộ máy hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích
cục bộ của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ công chức trong bộ máy
nhà nước trung ương và địa phương, ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp vẫn còn đè nặng nếp nghĩa, cách làm của không ít CBCC, công

cuộc cải cách BMHC NN có nơi, có lúc chưa được chuẩn bị tốt về mật tư
tưởng.
- Các chế độ, chính sách về tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều
điều chưa phù hợ[, chưa tạo động lực thúc đẩy công cuộc cải cách BMHC
NN.
- Những thiếu sót trong công tác chỉ đạo của chính phủ, các bộ, ngành
trung ương và UBND các địa phương trong tiến trình CCHC, sự chỉ đạo thực
hiện các chủ trương đã đề ra thiếu cương quyết và chưa thống nhất
4. Quan điểm, Phương hướng hoàn thiện bộ máy HCNN
Bỡi vậy, việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính ở nước ta hiện
nay để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động là tất yếu, cần thiết và phải được
thực hiện với những định hướng, quan điểm phù hợp với thực tiễn của đất
nước, phù hợp với những mục tiêu và nội dung của Đảng và Nhà nước đề ra
trong từng giai đoạn.
- Cải cách BMHC NN phải đặt trong tổng thể cải cách Bộ máy nhà nước
và đổi mới hệ thống chính trị. Không thể tiến hành xây dựng và hoàn thiện bộ
máy hành chính tách rời với công cuộc đổi mới, chỉnh đốn đảng, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Bộ máy hành hành chính và bộ máy
nhà nước. Cũng không thể xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính một
cách biệt lập mà không đồng thời đổ mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các
cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của các đoàn thể nhân dân. Cải cách BMHC NN phải gắn liền với đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội để thực hiện
tốt chức năng phản biện xã hội và giám sát quá trình cải cách hành chính.
- Cải cách BMHC phải gắn với cải cách kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành và hoàn thiện các yếu tố của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cải cách BMHC phải hướng vào tăng cường năng lực của cơ quan
hành chính và quản lý xã hội bằng pháp luật. Thường xuyên rà soát điều

chỉnh linh hoạt tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhằm
thực hiện có hiệu quả chiến lược kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát
triển. Nang cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của BMHC NN. Xây dựng nền
hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, quản lý có hiệu quả các mặt đời sống xã
hội bằng pháp luật.
- Cải cách BMHC phải được tiến hành tích cực, từng bước, khẩn trương,
thận trọng và vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá
trong từng giai đoạn cụ thể. Cải cách bộ máy hành chính là nhiệm vụ rộng
lớn, phức tạp đòi hỏi phải có tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ.
- Đề cao trách nhiệm pháp lý hành chính và đạo đức công vụ. Thực hiện
việc phân công, phân cấp gắn liền với trách nhiệm pháp lý hành chính của
CBCC; hoàn htiện và thực hiện nghiêm túc các quy định về tuyển dụng, tiếp
nhận, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động … nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán cộ, công chức; tăng cường giáo dục liêm chính, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức. Đảy mạnh việc xây dựng quy tắc
ứng xử, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của CBCC và tăng cường
giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về công vụ, công chức.
- Xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu thực hiện các
chứng năng, nhiệm vụ của hệ thống hành chính nhà nước được cơ cấu lại gọn
nhẹ, quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực. Cần phải thực hiện các giải
pháp.
- Có chương trình hành động tầm chiến lược trong xây dựng và hoàn
thiện bộ máy hành chính để tránh nguy cơ nhỏ giọt, cục bộ, manh mún, không
có hệ thống và không đồng bộ. Muốn vậy, cần thẩm định kỹ càng các điểm
mạnh và điểm yếu của mô hình tổ chức bộ máy hành chính truyền thống và
mô hình cải cách tổ chức bộ máy hành chính kiểu mới và xây dựng chiến lược
thay đổi, điều chỉnh phù hợp với nền văn hoá chính trị và các điều kiện,
chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng và hoàn thiện BMHC NN phải xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam; đồng thời tham khảo, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm của các nước về

tổ chức và hoạt động quản lý để vận dụng thích hợp. Trong những thập kỷ
qua, nền hành chính các nước phát triển đã tiến được những bước khá xa và
có nhiều kinh nghiệm. Đó chính là tài sản tri thức mà nhân loại tích lũy được
trong quá trình phát triển. Chúng ta cần nghiên cứu, tham khảo những kinh
nghiệm này và có trách nhiệm sàng lọc, đúc rút ra những bài học kinh nghiệm
có thể áp dụng vào điều kiện nước ta, phù hợp với đặc điểm, truyền thống,
bản sắc Việt Nam, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nhĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
[*] Phương hướng
- Tổng rà soát để điều chỉnh vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ
cấu tổ chức, biên chế của các cơ quan hành chính các cấp, chuyển giao những
công việc cơ quan Nhà nước không nên làm cho xã hội. Khắc phục sự chồng
chéo về chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan HCNN. Đơn giản hóa cơ
cấu tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan HCNN.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính bên trong của các bộ theo hướng đa đối
tượng quản lý, tách tổ chức hành chính với sự nghiệp công để hoạt động theo
cơ chế thích hợp.
- Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương nhằm điều chỉnh cho phù hợp với từng loại hình địa phương. Ổn định
các đơn vị hành chính, hạn chế tình trạng sáp nhập, chia tách; sắp xếp các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, TP, tăng cường tính chuyên nghiệp,
bảo đảm kỹ năng hành chính trong việc giải quyết các công việc của công dân
và tổ chức.
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp Tiếp tục phân cấp quản lý hành chính giữa
TW và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương. Tăng cường kiểm
tra giám sát đề cao vai trò chủ động của các cấp các ngành
- Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính. Thực
hiện thống nhất và nâng cao chất lượng cơ chế một cửa liên thông, đảm bảo
sự hài lòng của cá nhân, tổ chức về dịch vụ hành chính.
- Cải cách các đơn vị dịch vụ công, phân định hành chính với sự nghiệp.

Mở rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao chất lượng của đơn
vị sự nghiệp dịch vụ công.
[*] Đối với Đăk nông, trong những năm qua, tổ chức bộ máy các cơ quan
đơn vị hành chính các cấp được xây dựng hợp lý, chức năng , nhiệm vụ được
phân định rõ ràng giữa cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công, công
tác quản lý, sử dụng biên chế thực hiện theo đúng quy định hiện hành của
Nhà nước. Vai trò kiểm tra, giám sát của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân
cấp trên với cấp dưới được nâng cao.
Tuy nhiên, hiệu lực quản lý Nhà nước của BMHC các cấp còn thấp, công
tác phối hợp giải quyết các công việc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành
còn lúng túng. Mối quan hệ giữa các tổ chức trong bộ máy hành chính còn
thiếu chặt chẽ. Một bộ phận CBCC ý thức trách nhiệm kém, trách nhiệm của
người đứng đầu chưa được đề cao đúng mức. Công tác cải cách hành chính
chưa được thực sự coi trọng . Thủ tục hành chính, quy trình giải quyết các
công việc trên một số lĩnh vực, nhất là lĩnh vực liên quan đến đất đai, đầu tư
xây dựng cơ bản còn rất phức tạo, trì trệ, hiệu quả thấp.
Tóm lại, BMHC NN là một hệ thốngphức hợp về cơ cấu, chức năng, thẩm
quyền nhằm thực thi quyền hành pháp. Bên cạnh những thành tựu, nỗ lực, bộ
may hành chính còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập về tổ chức và hoạt động so
với yêu cầu. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nưước
là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta.

×