Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.17 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Là một nước đông dân thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, và đang được coi là
thời kỳ dân số vàng. Xét một cách tổng quát thì nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay khá là
dồi dào. Tuy nhiên, Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp vì vậy phần đa dân số là
nông dân, trình độ học vấn không cao. Bên cạnh đó, thành phần tầng lớp tri thức, lao
động lành nghề là rất ít.
Xét về hiện tại, nước ta đi theo hướng công nghiệp hóa. Tức là đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp sẽ yêu cầu người lao động phải có trình độ học vấn và
chuyên môn kỹ thuật cao.cũng vì lý do này mà nguồn lực nước ta đang là một vấn đề cấp
bách cần được chú ý và giải quyết.
I.Đặc điểm nguồn nhân lực việt nam.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người.
Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân
lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch
vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu
người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10%
dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu
người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu
người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới
doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai
thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và nhân
lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ
nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không
phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu thống kê năm
2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang
làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất
thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ:
1 1


Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là
0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao
và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy
thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12
nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76;
Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công
nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội
luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa
vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính,
ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo Có thể
thấy, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có các đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa được quy
hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. -
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,…
chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất nhanh nhạy trong
việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực này lại chưa được khai thác
đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.
Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trước mắt và lâu dài cần
phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức dân. Không thể nói đến
phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ còi cọc, ốm yếu. Không thể nói đến
phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không được bồi dưỡng. Vấn đề này liên quan đến
hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương,
chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng…. Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một
cách cơ bản. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học

1 2
còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có từ
30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin kém….
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố năm 2011 dân số Việt Nam là 87 triệu
người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc,
đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế
giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm
(thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh
tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam
hiện nay là 75.
Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn
người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng 113.700 trang trại,
7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các
ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây,
nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác,
chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự
làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ
nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không
nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa
trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và
những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn
nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất
nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất
theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà
nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) hiện đang còn là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở
nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu
hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị.

1 3
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên
một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công
trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề
cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao
động rất thấp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch lao
động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn
chưa đồng bộ, chưa mang tínhkhuyến khích và tính cạnh tranh.
Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công nhân đang làm việc ở nước
ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước ngoài và 2
triệu hộ lao động kinh doanh cá thể). Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt
Nam có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ
thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề.
Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê được,
tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp
nghề; 810 trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề
trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu
cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường
trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy
nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.
Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nhân làm
việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng
số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế
biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.
Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm
nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn
bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là

công nhân.
1 4
Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích cực, tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên từng bước. Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Bên
cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành
nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân
xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai
cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ"
1
.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong quá
trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công
nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội
ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân; những
chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát hợp với tình hình thực
tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, không ít
trường hợp còn vi phạm chính sách đối với công nhân và người lao động.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng
trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng
nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5
nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004:
1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel):
1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131
giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động
khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số
47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200

giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra,
thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí
thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu
Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại
học trên thế giới.
1 5
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học,
đại học, học viện
2
; 178 trường cao đẳng; 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ
sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng
số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại
học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước
đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-2008, cả
nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường trung học cơ
sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên
nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học
2007- 2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong
đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề
là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung học
phổ thông năm học 2007-2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài
nước. Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ
đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức
(cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh:

Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc
tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12).
Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán
bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn
người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị
quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử,
đài phát thanh, truyền hình. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện
1 6
có gần 39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là
13.536 người.
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật của
các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ
khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459
đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa
chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính
ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân).
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung ương và
địa phương cũng tăng nhanh. Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO)
hiện có 52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra
trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công
chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên chức làm việc trong các
cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên chức như
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít đơn
vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc
làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị
trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411
người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước
đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc

làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70
triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng
của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói
tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Từ những đặc điểm trên đây, có thể rút ra những điểm chính về thực trạng của nguồn
nhân lực việt nam hiện nay như sau:
1 7
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, chưa
được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi
đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. -
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,…
chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông, chất
lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có
những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia
giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi;
chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình luận người Việt
Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Có điều lại
chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng
nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
II.Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực việt nam.
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa hết sức
quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo đột phá “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc
dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,

công nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp:
Thứ nhất: Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam
trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên
như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên
nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ
vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức và chất lượng nhân
lực thành lợi thế cạnh tranh trên phương diện toàn cầu. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội,
1 8
mang tính xã hội; là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của
doanh nghiệp, của gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động. "Đây chính là thể
hiện quan điểm phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội vì con người và do con
người, là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững"
3
.

Thứ hai: xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày
19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg Phê duyệt
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ,
ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến
lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến
lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi
trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định
tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển nguồn
nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời
đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và
năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng.
Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được tiếp

tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI đã đề cập tới
việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu
cầu cường độ lao động cao.
Thứ năm, cải thiện và tăng cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi
và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta và trên thế giới.
Thứ sáu, cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt Nam.
1 9
Thứ bảy, cần đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực Việt Nam.
Thứ tám: Mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội về nhân lực Việt Nam phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát động phong trào thi đua yêu nước
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần giúp cho
mọi người hiểu rõ về các chính sách phát triển nhân lực. Vận động các doanh nghiệp
tham gia đào tạo nhân lực để sử dụng với chất lượng ngày càng cao.
Thứ chín: Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực, việc làm, giáo
dục, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, đãi ngộ; chính sách trọng dụng chuyên
gia, tham mưu, kỹ sư, tổng công trình sư, nhà thiết kế, phát minh, gọi chung là nhân tài,
chính sách về môi trường, điều kiện, phương tiện làm việc; chính sách việc làm, thu nhập,
bảo hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách cho các cơ quan khoa học NGO. Tổ chức tốt việc
việc thực hiện các chính sách đó.
Cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, có chế độ ưu đãi cho người
học. Thứ mười: Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nhân lực nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhân lực;
đổi mới phương pháp giáo dục, quản lý nhân lực, thấu tình đạt lý, nhìn rõ đúng sai, kịp
thời rút kinh nghiệm về quản lý nhân lực. Tổ chức bộ máy quản lý nhân lực từ trung ương
đến địa phương. Nhân sự cho bộ máy này phải là những chuyên gia giỏi về nghiên cứu

nhân tài, nhân lực trong và ngoài biên chế nhà nước. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ của bộ
máy này là tư vấn, tham mưu, đề xuất; thu thập, phân tích các số liệu về nguồn nhân lực ở
tất cả các ngành, các cấp.
Thứ mười một: Tiến hành điều tra, khảo sát thường xuyên về nhân lực và chất lượng
nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp, địa phương và cả nước;bảo đảm cân đối cung - cầu
nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước và trong từng ngành, từng
cấp.
Thứ mười hai: Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp với hoàn cảnh
Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, chủ yếu là hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ mười ba: Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo và dạy nghề từ trung ương đến địa
phương; tổ chức hợp lý hệ thống cấp bậc đào tạo; thực hiện phân cấp quản lý đào tạo giữa
1 10
bộ, ngành, địa phương; quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
nghề, trung tâm dạy nghề. Khuyến khích thành lập các trường đại học, cao đẳng tư thục
tại các nơi có điều kiện, góp phần đẩy nhanh số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được
đào tạo.
Thứ mười bốn: Đổi mới cách xây dựng nền giáo dục, đào tạo phục vụ nhu cầu xã hội;
thực hiện đúng yêu cầu học để làm việc, giúp nước, giúp dân; xây dựng cơ sở đào tạo
theo hướng đào tạo đến đâu sử dụng đến đó.
Thứ mười năm: Xây dựng hệ thống quốc gia để kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục
và đào tạo; xử lý việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực trên phạm vi cả nước, bảo
đảm phát triển hài hòa, cân đối.
Thứ mười sáu: Bảo đảm và huy động nguồn vốn cho phát triển nhân lực; đẩy mạnh xã
hội hóa để tăng cường các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Thứ mười bảy: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực và chuyên giao
công nghệ hiện đại về Việt Nam.
Thứ mười tám: Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống.
Chất lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế
phải có những quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính

di truyền và vợ chồng quan hệ để sinh con,…, trước khi chính quyền cấp giấy đăng ký
giá thú. Hiện nay, tại Việt Nam, đang có tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân
nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho những đứa con sinh ra bị còi cọc, không phát triển
được trí tuệ. Thậm chí có những người bị nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa
con dị tật. Có người tính rằng, tại Việt Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 người bị dị tật
bẩm sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng.Khi
có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi dưỡng
về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào, trí tuệ
minh mẫn. Về vấn đề này, Việt Nam còn kém xa so với nhiều nước.
Thứ mười chín: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xác định thật rõ xây dựng
nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện
chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
1 11
Thứ hai mươi: Để xây dựng chất lượng con người phải có sự gắn kết với chất lượng cuộc
sống xã hội; có sự gắn kết chặt chẽ giữa xã hội - nhà trường - gia đình để tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao trong tương lai.
Thứ hai mốt: Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực
ở Việt
Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ
sở đó mà phát huy mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt.
Tóm lại thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều yếu kém về chất
lượng. Chúng ta đang trong tình trạng lao động đủ về lượng, yếu về chất. Đó là vấn đề
đáng lưu tâm đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam. Mặc dù nguồn nhân lực ở nước ta rất
dồi dào nhưng lại thiếu và yếu nguồn nhân lực có trình độ cao, tay nghề cao. Một thực
trạng hiện nay là sự nhận thức về việc làm của nguồn nhân lực cũng còn yếu kém. Từ
thực trạng trên, đòi hỏi các nhà quản trị phải biết cách nhìn người, có tầm nhìn xa trông
rộng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo cho nhân viên, phân công sắp xếp công việc
một cách hợp lý sao cho nhân viên có thể thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất./.
1 12

×