Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xi măng Cẩm Phả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 129 trang )

MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và
phát triển, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc tăng cường hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, trong đó đặc biệt là nâng cao hoạt động quản trị tài chính.
Đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, phân tích báo cáo tài
chính được coi là công cụ đắc lực lực giúp doanh nghiệp nhận thức đúng đắn về
thực trạng hoạt động tài chính, đồng thời dự báo được tiềm năng tài chính trong
tương lai, xác định đầy đủ và đúng đắn nguyên nhân cũng như giải pháp hữu hiệu
để ổn định và củng cố hoạt động tài chính của công ty. Kết quả của công tác phân
tích báo cáo tài chính chính xác, kịp thời và khoa học sẽ là cơ sở quan trọng để
doanh nghiệp đưa ra các quyết định có tính chiến lược trong kinh doanh nhằm đạt
được hiệu quả cao nhất.
Sản xuất xi măng là một ngành kinh tế quan trọng, đã có những đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế nước nhà. Với vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn và rất
nhạy cảm với sự thay đổi của nền kinh tế trong nước cũng như thế giới, đứng trước
những biến động về kinh tế và áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tiếp tục đứng
vững, bảo toàn và phát triển nguồn vốn, các doanh nghiệp sản xuất xi măng nói
chung và công ty cổ phần Xi măng Cẩm Phả nói riêng cần phải tăng cường công tác
quản lý tài chính. Trong đó việc hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại
Công ty Cổ phần Xi măng Cẩm Phả được xem là việc làm cần thiết đảm bảo cho sự
phát triển bền vững lâu dài của công ty.
Tuy nhiên trên thực tế, công tác phân tích báo cáo tài chính vẫn chưa được
quan tâm thích đáng trong quá trình quản lý tại công ty Xi măng Cẩm Phả.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi xin chọn đề tài luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện
công tác phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xi măng Cẩm Phả”
2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
Các vấn đề về phân tích tài chính nói chung và phân tích báo cáo tài chính
nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm, đề cập đến trong các sách báo, tạp chí,
công trình nghiên cứu. Các công trình chuyên về phân tích báo cáo tài chính đã đề
1


cập đến các vấn đề cơ bản của phân tích báo cáo tài chính như hệ thống chỉ tiêu
phân tích, phương pháp, cơ sở dữ liệu và tổ chức công tác phân tích…Một số công
trình nghiên cứu quan trọng trong thời gian qua:
“Hoàn thiện lập và phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản lý tại
các công ty xổ số Kiến thiết khu vực Nam Trung Bộ” (Trần Thị Cẩm Thanh, 2001)
“Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với việc phân tích tình hình tài
chính tại công ty Điện lực I” (Cung Tố Lan, 2004)
“Hoàn thiện công tác phân tích tài chính trong các công ty cổ phần Dược
Việt Nam” (Nguyễn Thị Hằng, 2006)
“Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại tập đoàn Phú Thái” (Phạm Thị
Thanh, 2007)
“Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với việc phân tích tính hình tài
chính tại Tổng công ty Sông Đà” (Lê Thị Hương Lan, 2008)
“Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng
không Việt Nam” (Trần Thị Minh Hương, 2008)
“Hoàn thiện kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản trị
tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” (Phạm Thành Long, 2008)
Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình nghiên cứu trong đó phân tích báo cáo
tài chính chỉ là một phần bên cạnh nhiều chủ đề khác như cuốn giáo trình “Kế toán
kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp” của GS.Ngô Thế Chi, PGS. Đoàn
Xuân Tiên, PGS. Vương Đình Huệ ngoài các nội dung về kế toán, kiểm toán đã đề
cập đến nội dung và các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính. Cuốn “Lập, đọc, kiểm
tra và phân tích báo cáo tài chính” của các tác giả PGS. Nguyễn Văn Công, PGS.
Nguyễn Năng Phúc, TS. Trần Quý Liên bên cạnh các vấn đề về nội dung, cách thức
lập báo cáo tài chính đã đề cập đến nội dung, phương pháp phân tích và các chỉ tiêu
được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính…
Hầu hết những nghiên cứu của các tác giả đã đề cập đến hệ thống báo cáo tài
chính, công tác phân tích báo cáo tài chính và phân tích tình hình tài chính của một
ngành hoặc một doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về công
tác phân tích báo cáo tài chính tại doanh nghiệp sản xuất xi măng, đặc biệt là đối

với công ty CP Xi măng Cẩm Phả. Ngoài ra, với thời điểm kinh tế gặp nhiều khó
khăn trong thời gian qua và dự kiến sẽ tiếp tục khó khăn trong thời gian tới đã đặt ra
nhiều thách thức và yêu cầu cạnh tranh gay gắt hơn, phức tạp hơn. Vì vậy, nghiên
2
cứu này hoàn toàn không trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã được triển khai
từ trước đến nay. Việc nghiên cứu có thể cho phép nhận dạng rõ hơn bối cảnh,
thách thức và các vấn đề mới chưa được đề cập.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tổng hợp và hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về phân tích báo cáo tài
chính doanh nghiệp
- Xem xét và đánh giá thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính của
Công ty CP Xi măng Cẩm Phả
- Đề ra các quan điểm và phương hướng nhằm hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu,
phương pháp phân tích báo cáo tài chính phù hợp với đặc điểm cũng như tình hình
sản xuất kinh doanh của công ty CP Xi măng Cẩm Phả
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động phân
tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần xi
măng Cẩm Phả nói riêng. Luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu nội dung phân tích, hệ
thống các chỉ tiêu, phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại công ty CP Xi măng
Cẩm Phả…
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác phân tích báo
cáo tài chính áp dụng cho công ty cổ phần xi măng Cẩm Phả qua các giai đoạn phát
triển từ trước đến nay
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh…
- Số liệu được trình bày trong luận văn được thu thập từ hai nguồn sơ cấp và
thứ cấp:
Số liệu thứ cấp thu thập từ các nguồn báo chí, internet, tài liệu nội bộ như: Báo
cáo tài chính, báo cáo phân tích giá thành,chi phí của công ty CP Xi măng Cẩm Phả…

Số liệu sơ cấp: phỏng vấn các trưởng phòng và cán bộ của công ty CP Xi
măng Cẩm Phả
6. KHUNG LÝ THUYẾT
Phần bên dưới diễn tả mối quan hệ giữa tổ chức phân tích báo cáo tài chính
với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt quản trị tài chính của doanh
nghiệp nói riêng. Từ đó ta thấy được vai trò, vị trí của công tác phân tích báo cáo tài
chính cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới công tác phân tích báo cáo tài chính như:
chế độ, chính sách kế toán; nội dung và phương pháp phân tích; hệ thống chỉ tiêu
3
phân tích; tổ chức phân tích báo cáo tài chính
định

Các nhân tố tác động tới công tác phân tích báo cáo tài chính của doanh
nghiệp có thế được lượng hóa dưới dạng hàm:
PTBCTC = b0 + b1 * cơ sở dữ liệu và tổ chức phân tích + b2* nội dung và
hệ thống chỉ tiêu phân tích + b3* phương pháp phân tích + R
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Tên của luận văn: “Hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại
Công ty cổ phần Xi măng Cẩm Phả”
Luận văn gồm 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích báo cáo tài chính
trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ
phần Xi măng Cẩm Phả
Chương 3: Hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ
phần Xi măng Cẩm Phả
4
Ra
quyết
định

Đặc thù ngành, DNMôi trường kinh doanh
Quá trình hoạt động SXKD của Doanh nghiệp
Các phương pháp và
chính sách kế toán
BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
BÁO CÁO
PHÂN TÍCH
NHÀ QUẢN TRỊ
KẾ HOẠCH
TÀI CHÍNH
Nội dung, phương pháp, hệ
thổng chỉ tiêu, tổ chức phân tích
BCTC
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Báo cáo tài chính doanh nghiệp
1.1.1.1. Bản chất và vai trò của báo cáo tài chính
Kế toán có thể xem như một quy trình công nghệ về thu thập, phản ánh, xử
lý, kiểm tra, tổng hợp, phân tích và cung cấp thông tin mà sản phẩm hoàn thành của
quy trình công nghệ này chính là các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính được
lập trong giai đoạn cuối của quy trình trên có nhiệm vụ tổng hợp toàn bộ các thông
tin kinh tế- tài chính từ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị hoạch toán trong
một thời kỳ nhất định.
Như vậy, báo cáo tài chính là sản phẩm của kế toán tài chính, tổng hợp và
phản ánh một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản và nguồn vốn của một
doanh nghiệp tại một thời điểm; tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh; tình
hình và kết quả lưu chuyển tiền tệ; tình hình vận động sử dụng vốn của một doanh

nghiệp qua một kỳ kế toán.
Báo cáo tài chính cung cấp thông tin kinh tế, tài chính hữu ích cho việc đánh
giá thực trạng tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong
năm tài chính đã qua và những dự đoán trong tương lai. Thông tin từ báo cáo tài
chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh hoặc các quyết định về đầu tư. Qua các thông tin được trình bày
trên báo cáo tài chính, người sử dụng có thể đánh giá được tình hình tài chính của
5
doanh nghiệp tại một thời điểm cũng như khả năng sinh lời từ các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ, đồng thời đánh giá được khả năng thanh toán của
doanh nghiệp hay dự đoán sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Xét trong mối quan hệ giữa hệ thống thông tin kế toán với việc ra quyết định
thì báo cáo tài chính là sản phẩm đầu ra của một quy trình kế toán nhưng đồng thời
lại là sản phẩm đầu vào quan trọng cho việc ra các quyết định kinh doanh của nhà
quản lý. Có thể thấy được vai trò của các báo cáo tài chính đối với hoạt động quản
trị doanh nghiệp trong mối quan hệ giữa hệ thống thông tin kế toán và việc ra quyết
định thông qua mô hình sau:
Sơ đồ 1.1: Vai trò của Báo cáo tài chính
Từ mô hình trên có thể thấy, để đưa ra được các quyết định quan trọng đối
với hoạt động quản trị của doanh nghiệp, cần phải xây dựng được một hệ thống
thông tin kế toán đầy đủ, kịp thời và chính xác, mà cơ sở dữ liệu quan trọng để đưa
ra được những thông tin tốt nhất cho người sử dụng là hệ thống các báo cáo tài
chính. Hệ thống các báo cáo tài chính với số liệu trung thực, chính xác sẽ là kênh
chuyển tải thông tin hữu ích cho các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như các đối
6
Hệ thống thông tin kế toán
Hệ thống thông tin kế toán
Thông tin tài chính
Thông tin tài chính
Thông tin phi tài chính

Thông tin phi tài chính
Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính
Báo cáo quản trị nội bộ
Báo cáo quản trị nội bộ
Người ra quyết định
bên ngoài
Người ra quyết định
bên ngoài
Người ra quyết định
bên trong
Người ra quyết định
bên trong
tượng bên ngoài doanh nghiệp cân nhắc và đưa ra các quyết định quan trọng phù
hợp với mục tiêu của mình.
1.1.1.2. Các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế, thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Mỗi đối tượng quan tâm
đến báo cáo tài chính trên một giác độ khác nhau, với một mục đích sử dụng khác
nhau song nhìn chung đều nhằm có được những thông tin cần thiết cho việc ra các
quyết định phù hợp với mục tiêu riêng của mình.
Xét trong mối quan hệ kinh doanh với đơn vị kế toán, có thể chia các đối
tượng sử dụng báo cáo tài chính thành 2 nhóm: nhóm đối tượng ra quyết định bên
trong đơn vị và nhóm đối tượng ra quyết định bên ngoài đơn vị.
Nhóm đối tượng ra quyết định bên trong đơn vị chính là các nhà quản trị
doanh nghiệp, những người mà quyết định của họ có liên quan trực tiếp tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với nhóm đối tượng này, báo cáo tài
chính có vai trò cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và có tính dự báo để từ đó các
nhà quản trị có thể đánh giá một cách đúng đắn và toàn diện hoạt động kinh doanh
mà mình đang quản lý, hiệu quả thực tế trong công tác điều hành, khả năng hoàn

thành các mục tiêu đề ra và quan trọng hơn cả là từ các thông tin này các nhà quản
trị sẽ phân tích đánh giá và đề ra được các giải pháp, quyết định quản lý kịp thời
giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy
nhiên với nhóm đối tượng này, bên cạnh các báo cáo tài chính, họ còn quan tâm đến
các báo cáo quản trị nội bộ khác- những báo cáo này cung cấp cho họ đầy đủ cả
thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, mặt khác được lập theo nguyên tắc,
phạm vi và đối tượng hoàn toàn khác so với các báo cáo tài chính.
Nhóm đối tượng ra quyết định bên ngoài đơn vị là những người thường
không có quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, họ bao
gồm các đối tượng chủ yếu sau: các nhà đầu tư, chủ nợ, ngân hàng, các cổ đông
hiện tại, nhà cung cấp, khách hàng, các nhà phân tích tài chính, các cơ quan hữu
quan (thuế, kiểm toán…) hay thậm chí là cả đối thủ cạnh tranh. Đây là nhóm đối
tượng có mối quan tâm đặc biệt tới các báo cáo tài chính của đơn vị, và tùy theo nhu
7
cầu và mục đích khác nhau mà họ có mối quan tâm cũng như cách thức sử dụng
thông tin trên báo cáo tài chính khác nhau.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn,
mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình
hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Đối với các chủ nợ doanh nghiệp, ngân hàng hay các nhà cho vay tín dụng mối
quan tâm chủ yếu của họ lại hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối với các
nhà cung ứng vật tư hàng hóa nhu cầu thông tin về khả năng thanh toán của doanh
nghiệp lại quan trọng hơn cả. Hay đối với các cơ quan hữu quan thì việc tuân thủ đúng
chế độ chính sách và nghĩa vụ với Nhà nước lại mới là mối quan tâm của họ…
Bên cạnh mục tiêu khác nhau, thì trình độ kế toán tài chính của các đối tượng
này cũng không đồng đều, điều đó dẫn đến cách thức sử dụng thông tin tài chính và
yêu cầu của mỗi đối tượng đối với các báo cáo tài chính cũng rất khác nhau. Ví dụ,
đối với các nhà đầu tư cá nhân thì trình độ kế toán tài chính của họ thường hạn chế
do vậy họ quan tâm chủ yếu đến phần diễn giải các chỉ tiêu về lợi nhuận được trình
bày trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ngược lại, đối với các chuyên gia về

phân tích tài chính hay các nhà đầu tư lớn, do trình độ kế toán tài chính cao, mặt
khác lại được sự hỗ trợ của các phần mềm công nghệ nên họ thường xem xét các
báo cáo tài chính rất kỹ lưỡng và thận trọng.
Do có sự khác biệt về mục đích sử dụng, cách thức sử dụng các báo cáo tài
chính cũng như trình độ của các đối tượng khác nhau, vì vậy khi xây dựng hệ thống
báo cáo tài chính cho doanh nghiệp hay trong quá trình lập các báo cáo cụ thể cho
từng kỳ kế toán, kế toán doanh nghiệp cần nghiên cứu đầy đủ về các đối tượng sử
dụng nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin cho các đối tượng quan tâm.
1.1.1.3. Hệ thống các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
 Phân loại báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính có nhiều loại khác nhau, mỗi loại báo cáo có thể được lập
dựa trên các số liệu và phạm vi khác nhau, đối tượng và đặc điểm pháp lý của từng
loại báo cáo cũng khác nhau. Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp có thể được
phân loại theo các tiêu thức sau:
8
 Theo nội dung kinh tế, báo cáo tài chính bao gồm 4 loại sau:
- Bảng cân đối kế toán: phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp
- Báo cáo kết quả kinh doanh: phản ánh doanh thu, chi phí và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: phản ánh thông tin về các luồng tiền vào và
luồng tiền ra của doanh nghiệp
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính: giải thích, bổ sung các thông tin đã được
trình bày hoặc chưa được trình bày trên các báo cáo tài chính khác về tình hình tài
chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Theo mức độ của thông tin trên báo cáo, báo cáo tài chính bao gồm 2
loại :
- Báo cáo tài chính dạng đầy đủ: phản ánh chi tiết về tình hình tài chính và sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống báo cáo tài chính dạng đầy đủ là cơ sở
dữ liệu quan trọng phục vụ cho hoạt động kiểm tra và phân tích tài chính doanh

nghiệp. Các báo cáo tài chính năm thông thường phải là các báo cáo được trình bày
dưới dạng đầy đủ.
- Báo cáo tài chính dạng tóm lược: là các báo cáo được trình bày dưới dạng rút
gọn với ít các chỉ tiêu hơn, chủ yếu là các chỉ tiêu mang tính chất tổng hợp. Tuy
nhiên, báo cáo tài chính dạng tóm lược vẫn bảo đảm cung cấp cho người sử dụng
những thông tin cơ bản về tình hình tài chính của doanh nghiệp
 Theo kỳ lập báo cáo, báo cáo tài chính được chia thành các loại sau:
- Báo cáo tài chính năm: là báo cáo được lập theo một niên độ kế toán (12
tháng) và có tính chất bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp.
- Báo cáo tài chính giữa niên độ: là báo cáo được lập vào cuối mỗi quý trong
một niên độ kế toán (không bao gồm quý IV). Báo cáo tài chính giữa niên độ được
áp dụng bắt buộc cho các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên sàn chứng khoán,
ngoài ra còn được lập theo nhu cầu quản lý của từng doanh nghiệp cụ thể. Báo cáo
tài chính giữa niên độ phản ánh về tình hình tài chính và kinh doanh của doanh
nghiệp trong từng khoảng thời gian ngắn, đáp ứng thông tin một cách kịp thời cho
việc ra quyết định của các nhà quản lý. Về mặt nội dung, báo cáo tài chính giữa
niên độ có nội dung và nguyên tắc lập giống báo cáo tài chính năm, tuy nhiên tùy
9
thuộc vào nhu cầu thông tin mà báo cáo có thể được trình bày dưới dạng đầy đủ
hoặc dạng tóm lược.
- Báo cáo tài chính được lập theo các kỳ khác: là các báo cáo được lập theo
các kỳ kế toán khác (như tuần, tháng, 6 tháng, 9 tháng…) hoặc được lập tại các thời
điểm đặc biệt theo yêu cầu của pháp luật (như thời điểm chia tách, hợp nhất, sát
nhập hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp…) hoặc theo nhu cầu cụ thể về thông
tin của các nhà quản lý
 Theo tính chất pháp lý của báo cáo, có thể chia báo cáo tài chính thành 2 loại:
- Báo cáo tài chính bắt buộc: là báo cáo mà doanh nghiệp bắt buộc phải lập
theo quy định của pháp luật, phản ánh sự tuân thủ pháp luật và mối quan hệ pháp lý
của doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước. Báo cáo tài chính bắt buộc được lập theo
đúng chuẩn mực kế toán được ban hành và tuân thủ chặt chẽ về trách nhiệm, thời

hạn gửi, nơi gửi…
- Báo cáo tài chính hướng dẫn: là báo cáo được lập theo nhu cầu thông tin của
nhà quản lý, không mang tính chất bắt buộc.
 Theo phạm vi thông tin phản ánh, báo cáo tài chính được chia làm 2
loại:
- Báo cáo tài chính doanh nghiệp độc lập: là báo cáo được lập cho từng doanh
nghiệp, đơn vị riêng lẻ, phản ánh tình hình tài chính của một thực thể kinh doanh
riêng biệt, không bao gồm các đơn vị kinh doanh phụ thuộc.
- Báo cáo tài chính hợp nhất: là báo cáo tài chính được lập cho một tập đoàn
hoặc các tổng công ty, các trường hợp hợp nhất hoặc sát nhập. Báo cáo tài chính
hợp nhất được lập trên cơ sở hợp nhất các báo cáo của công ty mẹ với các đơn vị
thành viên trực thuộc.
 Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp
Theo quyết định số 167/ 2000/ QĐ-BTC ngày 25/10/2000 và sửa đổi bổ
sung theo thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 của Bộ trưởng Bộ Tài
Chính hiện có 4 biểu mẫu BCTC quy định cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi
lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế như sau:
- Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B 01 – DN)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu số B 02 – DN)
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B 03 – DN)
- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B 09 – DN)
10
Mỗi báo cáo tài chính phản ánh các nghiệp vụ, sự kiện kinh tế ở các phạm vi
và góc độ khác nhau, do vậy giữa chúng có sự tương hỗ lẫn nhau trong việc thể hiện
tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không có báo
cáo tài chính nào chỉ phục vụ cho một mục đích hoặc có thể cung cấp mọi thông tin
cần thiết làm thoả mãn mọi nhu cầu sử dụng. Điều này nói lên tính hệ thống của báo
cáo tài chính trong việc cung cấp thông tin cho người sử dụng.
Nội dung, phương pháp tính toán, hình thức trình bày trong từng báo cáo tài
chính quy định trong chế độ này được áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, tùy vào nhu cầu và trình độ quản lý, các doanh nghiệp có thể căn cứ vào
đặc thù của mình để nghiên cứu, cụ thể hóa và xây dựng thêm các báo cáo tài chính
chi tiết khác cho phù hợp.
Bảng cân đối kế toán
 Bản chất và mục đích của Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một bảng báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng
quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp
vào một thời điểm nhất định (thường là cuối kỳ kinh doanh)
Bảng cân đối kế toán dùng tiền để biểu hiện giá trị tài sản dưới hai góc độ:
hình thái tồn tại của tài sản và nguồn hình thành tài sản đó. Thông qua số liệu trên
bảng cân đối kế toán, người sử dụng báo cáo tài chính có thể nhận xét đánh giá về
thực trạng tài chính của doanh nghiệp vào thời điểm báo cáo.
 Nội dung và kết cấu của Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần: tài sản và nguồn vốn
- Phần tài sản: các chỉ tiêu ở phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện
có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại
của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản được chia thành:
• A: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
• B: Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
- Phần nguồn vốn (nguồn hình thành tài sản): Phản ánh nguồn hình thành tài
sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện
trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản mà mình đang quản lý và sử
dụng. Nguồn vốn được chia thành 2 loại:
• A: Nợ phải trả
• B: Vốn chủ sở hữu
Ngoài ra, bảng cân đối kế toán còn có phần “Các chỉ tiêu ngoài bảng” phản
11
ánh các tài khoản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng đang thuộc
quyền quản lý hoặc sử dụng của doanh nghiệp, hoặc một số chỉ tiêu không thể phản
ánh trong bảng cân đối kế toán.

- Mối quan hệ chủ yếu giữa các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán được thể
hiện qua đẳng thức sau:
• Tài sản = Nguồn vốn = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
• Vốn chủ sở hữu = Tài sản – Nợ phải trả
• Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
 Bản chất và mục đích của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng
quát về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác trong một
kỳ kế toán của doanh nghiệp, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước
về thuế và các khoản phải nộp khác.
Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh cho phép người sử dụng đánh giá
một cách khái quát về khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Nó
cho biết quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã mang lại lợi
nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn, đồng thời thấy được xu hướng phát triển của
doanh nghiệp…
Các yếu tố cơ bản của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
- Doanh thu
- Trừ Giá vốn hàng bán
- Lãi gộp
- Chi phí kinh doanh
• Chi phí bán hàng
• Chi phí quản lý
- Cộng chi phí kinh doanh
- Lãi từ hoạt động kinh doanh
- Lợi tức và chi phí không kinh doanh
- Lãi (lỗ) trước thuế
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Lãi ròng
 Nội dung và kết cấu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:

Bảng báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm các khoản mục chủ yếu sau:
- Phần 1: Lãi lỗ trong kinh doanh được phản ánh theo kỳ trước, của kỳ này và
được lũy kế từ đầu năm theo 3 chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận
- Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
12
- Phần 3: Thuế giá trị gia tăng
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (báo cáo ngân lưu) là báo cáo tài chính tổng hợp,
phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính cần thiết không những đối với
nhà quản trị hoặc giám đốc tài chính mà còn là mối quan tâm của nhiều đối tượng
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện lượng
tiền vào và lượng tiền ra của doanh nghiệp. Kết quả phân tích ngân lưu của doanh
nghiệp điều phối lượng tiền mặt một cách cân đối giữa các lĩnh vực: hoạt động kinh
doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư. Nói cách khác, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ chỉ ra các lĩnh vực nào tạo ra nguồn tiền, lĩnh vực nào sử dụng tiền, khả năng
thanh toán, lượng tiền thừa, thiếu và thời điểm cần sử dụng để có hiệu quả cao nhất
đồng thời dự đoán được luồng tiền cần sử dụng trong kỳ tiếp theo.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được tổng hợp từ 3 dòng ngân lưu ròng tương
ứng với 3 hoạt động của doanh nghiệp là:
- Hoạt động kinh doanh: là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh
nghiệp và các hoạt động khác không phải là hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính
- Hoạt động đầu tư: là các hoạt động mua bán, xây dựng, thanh lý, nhượng bán
các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không nằm trong các khoản tương
đương tiền
- Hoạt động tài chính: là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và cơ
cấu tài chính: thay đổi trong vốn chủ sở hữu và nợ vay của doanh nghiệp
Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành của hệ thống báo
cáo tài chính doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình

hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo
cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết.
 Nội dung của Thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính thường gồm những nội dung chính sau:
- Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp,
- Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp
- Tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn
13
quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu
- Các kiến nghị của doanh nghiệp.
- Ngoài ra nó có thể giải thích chi tiết về tình hình và kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh, phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới của doanh nghiệp
1.1.2. Phân tích báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là một chủ đề được rất nhiều nhà khoa học quan
tâm và nghiên cứu, đã có rất nhiều khái niệm được đưa ra, tuy khác nhau về hình
thức nhưng nhìn chung đều có chung một bản chất. Theo đó, có thể xem phân tích
báo cáo tài chính như là một nghệ thuật về phân tích và giải thích các báo cáo tài
chính, đó là nghệ thuật xử lý các số liệu có trong báo cáo tài chính thành những
thông tin hữu ích cho việc ra quyết định.
Phân tích báo cáo tài chính cũng có thể xem là một quá trình kết hợp của
cùng một lúc nhiều nghiệp vụ khác nhau như kiểm tra, xem xét, đối chiếu, so
sánh…các số liệu có trong báo cáo tài chính, trên cơ sở đó đánh giá được vị thế,
tình trạng và "sức khỏe” tài chính của doanh nghiệp, đồng thời dự báo được xu
hướng phát triển của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định kinh doanh phù hợp
với mục tiêu của từng đối tượng.
1.1.2.2. Vai trò của phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong
thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp mới đánh giá được đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong

trạng thái thực của chúng. Từ đó, giúp các nhà quản lý đưa ra được các quyết định
quản lý chuẩn xác và đánh giá được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đồng thời giúp cho các đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán
chính xác về mặt tài chính của doanh nghiệp, qua đó có các quyết định phù hợp với
lợi ích của chính họ.
Phân tích báo cáo tài chính là một trong những nội dung quan trọng của
phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính là quá trình kiểm tra,
đối chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá
khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro
trong tương lai của doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh, đây là công cụ quản lý
14
hiệu quả nhất được các nhà quản lý sử dụng một cách rộng rãi. Đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường, khi mà mục tiêu về lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh
được đặt lên hàng đầu, thì phân tích báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng giúp cho
các nhà quản trị có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó
thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính và đánh giá chính xác thực
trạng cũng như tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở đưa ra các quyết
định đúng đắn trong kinh doanh.
Bên cạnh vai trò là công cụ hữu ích đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp,
phân tích báo cáo tài chính còn là nguồn thông tin chủ yếu đối với những người bên
ngoài doanh nghiệp, là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như: các nhà
đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ
quan chính phủ, người lao động…. Mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính
của doanh nghiệp ở một góc độ khác nhau, với những mục đích khác nhau. Song tất
cả đều muốn đánh giá và phân tích xu thế của doanh nghiệp để đưa ra các quyết
định kinh tế phù hợp với mục tiêu của từng đối tượng. Phân tích báo cáo tài chính
giúp các đối tượng giải quyết được các vấn đề họ quan tâm khi đưa ra các quyết
định kinh tế.
- Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp:
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý doanh nghiệp là tìm kiếm lợi

nhuận và khả năng trả nợ vì vậy họ cần thông tin để kiểm soát và chỉ đạo tình hình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp
thường quan tâm đến mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp và dựa trên cơ sở các
hoạt động phân tích tài chính để đưa ra các quyết định vì lợi ích các cổ đông của
doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính là cơ sở dữ liệu quan trọng nhất để các
nhà quản lý đạt được các mục tiêu tài chính như: cân bằng tài chính, tránh được sự
căng thẳng về tài chính, đồng thời đánh giá được khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, các rủi ro về tài chính cũng như dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và
mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó giúp họ định
hướng cho các quyết định về đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần, lập kế hoạch,
dự toán ngân sách và xây dựng các chiến lược tài chính, chiến lược kinh doanh cho
15
doanh nghiệp.
- Đối với các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho doanh nghiệp quản lý
sử dụng, được hưởng lợi và cũng chịu rủi ro. Họ là những cổ đông, các cá nhân, các
đơn vị hoặc doanh nghiệp khác… Mối quan tâm hàng đầu của nhóm đối tượng này
là thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều
kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng
của các doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính giúp họ nhận biết được khả năng
tài chính, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ rủi ro… để cân nhắc, lựa
chọn và đưa ra các quyết định hợp lý.
- Đối với các nhà cung cấp tín dụng:
Các nhà cung cấp tín dụng là những người cho doanh nghiệp vay vốn để đáp
ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho
vay dài hạn. Khi cho vay họ phải biết chắc được khả năng hoàn trả nợ vay, thu nhập
của họ chính là lãi suất tiền cho vay. Do vậy, mối quan tâm hàng đầu của đối tượng
này chính là khả năng doanh nghiệp hoàn trả các khoản nợ. Tuy nhiên, chủ nợ ngắn
hạn và dài hạn lại có những lưu tâm và cách thức phân tích báo cáo tài chính khác
nhau. Các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngay của

doanh nghiệp hay nói cách khác là khả năng ứng phó của doanh nghiệp khi nợ vay
đến hạn, do vậy họ thường chỉ tập trung phân tích khả năng thanh toán lãi vay và
thanh toán nợ gốc vào ngày đáo hạn, những phân tích này thường được giới hạn trong
một khung thời gian cụ thể. Các chủ nợ dài hạn lại có những đánh giá và xem xét kĩ
lưỡng hơn đối với khả năng thanh toán của doanh nghiệp, họ cần xem xét khả năng
sinh lời và sự ổn định của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Do vậy, một sự biến động trong ngắn hạn của doanh nghiệp có thể là mối quan tâm
lớn của các chủ nợ ngắn hạn nhưng chưa chắc đã là mối lưu tâm của các chủ nợ dài
hạn.
- Đối với các nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp:
Các nhà cung cấp thường xuyên cho doanh nghiệp thường chấp nhận một
thời hạn tín dụng cho các giao dịch hàng hóa, dịch vụ giữa hai bên. Do vậy, cũng
như các chủ nợ khác, đối tượng này cũng đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh
16
toán và tạo tiền của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy vào nhà cung ứng đó là cá nhân
hay công ty, quy mô khoản tín dụng là lớn hay nhỏ mà họ quan tâm đến việc phân
tích báo cáo tài chính ở trình độ và cách thức khác nhau.
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
Các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện phân tích tài báo cáo tài chính
doanh nghiệp để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động
tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và luật
pháp quy định không. Cụ thể, cơ quan thuế quan tâm đến tình hình thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước. Cơ quan thống kê lại
quan tâm đến phân tích báo cáo tài chính để tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế của toàn
ngành nhằm đưa ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn. Các cơ quan quản lý
Nhà nước khác thì tiến hành phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm
mục tiêu điều hòa thị trường, chống độc quyền…
- Đối với người lao động trong doanh nghiệp:
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người
lao động trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của

doanh nghiệp. Lợi ích của nhóm người này trong doanh nghiệp được thể hiện dưới
dạng tiền lương, thưởng, bảo hiểm, phúc lợi và chịu tác động trực tiếp bởi kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra trong một số doanh
nghiệp, người lao động còn được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất
định và có thu nhập từ lợi tức được chia. Như vậy, họ cũng là những người chủ
doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. Phân tích báo
cáo tài chính giúp họ định hướng ổn định việc làm và yên tâm dốc sức vào hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tùy theo công việc được phân công.
Như vậy, có thể thấy phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp là công cụ
cung cấp thông tin hữu ích, giúp cho người sử dụng thông tin từ các góc độ khác
nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết
hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa
ra được những quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm.
17

Sơ đồ 1.2: Vai trò của phân tích BCTC trong việc ra quyết định
1.1.2.3. Mục tiêu của phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
Mục tiêu chung và tổng quát của mọi đối tượng khi phân tích báo cáo tài
chính doanh nghiệp là cung cấp cơ sở dữ liệu cho việc ra các quyết định hợp lý. Với
ý nghĩa như vậy, nhiệm vụ của phân tích báo cáo tài chính là phải cung cấp những
thông tin chính xác về mọi mặt tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
- Đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt khác
nhau bao gồm: cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, quản lý và
phân phối vốn, hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán, khả năng sinh lời,
mức độ rủi ro…
- Định hướng các quyết định của các đối tượng quan tâm theo chiều hướng
phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định về đầu tư, quyết
định về tài trợ, quyết định về phân phối lợi nhuận

18
Hệ thống thông tin kế toán
Hệ thống thông tin kế toán
Các báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính
Bảng CĐKT
Báo cáo kết quả
kinh doanh
Báo cáo LCTT
Bảng CĐKT
Báo cáo kết quả
kinh doanh
Báo cáo LCTT
Phân tích BCTC
Phân tích BCTC
Xu hướng
Cơ cấu
Tỉ lệ
Xu hướng
Cơ cấu
Tỉ lệ
Thông tin tài chính
Thông tin tài chính
Tình hình thanh
khoản
Tình hình hoạt động
Tình hình thanh
khoản
Tình hình hoạt động
Quyết định tài chính

Quyết định tài chính
Quản lý
Đầu tư
Tài trợ
Quản lý
Đầu tư
Tài trợ
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp có
hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm
tàng của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Trở thành cơ sở hợp lý cho các dự báo tài chính trong tương lai, đưa ra
những đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty
- Là công cụ kiểm soát các hoạt động quản lý trên cơ sở kiểm tra, đánh giá,
so sánh các chỉ tiêu đạt được so với các chỉ tiêu kế hoạch, dự toán, định mức…Từ
đó đánh giá được các điểm mạnh, điểm yếu, đưa ra được những quyết định và giải
pháp đúng đắn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
1.2. Tổ chức công tác phân tích báo cáo tài chính
Tổ chức công tác phân tích báo cáo tài chính bao gồm các công việc cơ bản
là xây dựng quy trình phân tích và tổ chức bộ máy phân tích. Các công việc này cụ
thể như sau:
Xây dựng quy trình phân tích báo cáo tài chính phù hợp:
Quy trình phân tích báo cáo tài chính là một quá trình thiết lập các công việc
cụ thể trong khi thực hiện phân tích báo cáo tài chính bao gồm từ việc lập kế hoạch,
triển khai và tổng kết để đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm
đưa ra những thông tin đáp ứng nhu cầu ra quyết đinh của các đối tượng quan tâm.
Như vậy, tùy theo đặc điểm kinh doanh, ngành nghề mà mỗi doanh nghiệp
có thể lựa chọn và xây dựng cho mình một quy trình phân tích riêng, tuy nhiên nhìn
chung quy trình phân tích báo cáo tài chính thường bao gồm những giai đoạn sau:
- Giai đoạn lập kế hoạch phân tích: Đây là giai đoạn khởi đầu của quá trình

phân tích và cũng là bước thiết yếu có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng phân
tích. Trong giai đoạn này, các công việc cần thực hiện bao gồm: xác định mục tiêu
phân tích và chương trình phân tích (gồm: nội dung phân tích, phạm vi phân tích,
thời gian phân tích và các bước phân tích). Mục tiêu phân tích được xác định trên
cơ sở yêu cầu của quản lý doanh nghiệp, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng thông tin
mà chủ thể phân tích có những mục tiêu phân tích khác nhau. Mục tiêu phân tích
đặt ra sẽ là căn cứ để chủ thể phân tích xác định nội dung, phạm vi và thời gian
phân tích. Nội dung phân tích có thể liên quan đến toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp hay chỉ là một vấn đề, một khía cạnh cụ thể như khả năng sinh lời, khả năng
19
thanh toán…Phạm vi phân tích có thể là toàn bộ hệ thống báo cáo tài chính hay chỉ
là một báo cáo trong số đó, có thể là phân tích toàn bộ doanh nghiệp hoặc chỉ phân
tích một số đơn vị, bộ phận trực thuộc…Trên cơ sở đó, thời gian phân tích cũng cần
được ấn định phù hợp đảm bảo cho việc phân tích diễn ra đúng kế hoạch, không bị
ảnh hưởng hay gián đoạn đến công việc của các bộ phận khác, đảm bảo cho quy
trình phân tích diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.
- Giai đoạn thực hiện phân tích: đây là giai đoạn thực hiện các công việc đã
được xác định trong kế hoạch phân tích, bao gồm các công việc sau:
+ Thu thập và kiểm tra tài liệu: đây là khâu quan trọng nhằm đảm bảo chất
lượng cho công tác phân tích báo cáo tài chính. Tài liệu thu thập chính xác, đầy đủ,
và được kiểm tra đối chiếu sẽ là những cơ sở dữ liệu thông tin chuẩn xác phục vụ
cho việc phân tích.
+ Lựa chọn phương pháp phân tích báo cáo tài chính phù hợp
+ Tính toán các chỉ tiêu tài chính, xác định các yếu tố ảnh hưởng cũng như mức
độ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu này
+ Tổng hợp kết quả phân tích, rút ra những nhận định và kết luận về tình hình
tài chính của doanh nghiệp
- Giai đoạn kết thúc phân tích: Đây là giai đoạn cuối cùng của quy trình phân
tích, sản phẩm cuối cùng của giai đoạn này là các báo cáo phân tích. Đây là bản
tổng hợp những đánh giá cơ bản rút ra từ quá trình phân tích cùng với những tài liệu

chọn lọc để minh họa. Việc đánh giá cùng với số liệu minh họa cần nêu rõ thực
trạng, điểm mạnh, điểm yếu cùng nguyên nhân và phương hướng, biện pháp phấn
đấu trong thời gian tới.
Tổ chức bộ máy thực hiện phân tích
Con người là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định đối với bất cứ hoạt
động kinh tế xã hội nào, cũng như vậy yếu tố nhân sự sẽ có ảnh hưởng to lớn đến
chất lượng của công tác phân tích báo cáo tài chính. Để đảm bảo cho công tác phân
tích báo cáo tài chính đạt được hiệu quả cao, cần thiết phải xây dựng một bộ phận
phân tích báo cáo tài chính riêng biệt, phù hợp với quy mô và đặc điểm của doanh
nghiệp. Tùy thuộc vào doanh nghiệp đó là doanh nghiệp nhỏ, vừa hay doanh nghiệp
lớn mà xác định số lượng cán bộ phân tích phù hợp đáp ứng được yêu cầu của công
tác phân tích. Cán bộ phân tích phải là những người có trình độ cao và có kinh
20
nghiệm thực tiễn để có thể dự báo và nắm bắt được những diễn biến của thị
trường…Ngoài ra, cũng cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận,
cá nhân trong quá trình lập, công bố thông tin và phân tích thông tin trên các báo
cáo tài chính…
1.3. Phương pháp phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính là tổng hợp các cách thức và công
cụ được sử dụng trong quá trình phân tích nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện,
hiện tượng, các chỉ tiêu, các mối quan hệ, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài
chính nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên
báo cáo tài chính.
Để phân tích báo cáo tài chính có thể sử dụng một hay tổng hợp nhiều
phương pháp khác nhau trong hệ thống các phương pháp phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp, tùy vào mục đích phân tích, loại hình doanh nghiệp, ngành nghề sản
xuất, tài liệu phân tích…để lựa chọn phương pháp thích hợp. Trong đó, những
phương pháp phổ biến là: Phương pháp so sánh, phương pháp tỉ lệ, phương pháp
liên hệ đối chiếu, phương pháp phân tích nhân tố, phương pháp chi tiết, phương
pháp loại trừ, phương pháp đồ thị…

1.3.1. Phương pháp đánh giá
Đây là phương pháp hay được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp, đồng thời được sử dụng trong nhiều giai đoạn khác nhau của quá
trình phân tích. Bao gồm những phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất, với
phương pháp này, các nhà phân tích có thể đánh giá được kết quả, xác định được vị
trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích một cách nhanh chóng và hợp
lý. Mục đích của phương pháp này là làm rõ sự khác biệt hay những đặc trưng riêng
có của đối tượng nghiên cứu, từ đó giúp cho đối tượng quan tâm có căn cứ để đề ra
các quyết định lựa chọn. Khi sử dụng phương pháp này, người sử dụng cần phải lưu
ý những vấn đề sau:
- Về lựa chọn tiêu chí hay căn cứ so sánh cho phù hợp. Tùy theo nhu cầu
21
thông tin và mục đích nghiên cứu mà có thể lựa chọn:
So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ này với số liệu thực hiện kỳ trước để thấy
được xu hướng phát triển và biến động của các chỉ tiêu, đánh giá được sự tăng
trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực hiện với số dự kiến (kế hoạch, dự toán, định mức) để
đánh giá tình hình thực tế so với dự tính, thấy được mức độ hoàn thành và nỗ lực
của doanh nghiệp.
So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, lĩnh
vực kinh doanh để đánh giá được tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong mối tương quan với các doanh nghiệp khác cùng ngành.
- Về điều kiện so sánh được của chỉ tiêu: Khi áp dụng phương pháp này, các
chỉ tiêu nghiên cứu muốn so sánh được phải đảm bảo tính đồng nhất, tức là thống
nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống nhất về thời
gian và đơn vị đo lường, ngoài ra doanh nghiệp cần có quy mô và điều kiện kinh
doanh tương tự nhau.
- Về kỹ thuật so sánh: Các kỹ thuật so sánh được sử dụng bao gồm:

So sánh bằng số tuyệt đối: thể hiện bằng kết quả chênh lệch giữa số liệu kỳ
thực hiện với số liệu kỳ gốc. Kết quả so sánh tuyệt đối phản ánh sự biến động về
quy mô của đối tượng phân tích.
So sánh bằng số tương đối: thể hiện bằng tỷ lệ giữa số liệu kỳ phân tích với
số liệu kỳ gốc. Kết quả so sánh tương đối phản ánh kết cấu, mối quan hệ, tốc độ
phát triển và xu hướng biến động của đối tượng phân tích.
So sánh bằng số bình quân ngành: so sánh bằng số bình quân ngành sẽ cho
thấy mức độ mà đơn vị đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành,
của khu vực, qua đó xác định được vị trí hiện tại của doanh nghiệp.
Do có thể vận dụng theo nhiều hướng khác nhau, với nhiều chỉ tiêu khác
nhau, đồng thời dễ dàng liên kết với các phương pháp phân tích khác nên phương
pháp so sánh được áp dụng rất rộng rãi, phù hợp với hầu hết các doanh nghiệp và
đáp ứng được nhu cầu cho nhiều đối tượng sử dụng thông tin.
Phương pháp chi tiết hóa
Thông thường, khi nghiên cứu một đại lượng tài chính doanh nghiệp, người
phân tích sẽ dựa trên một số chỉ tiêu tổng quát. Tuy nhiên, trong trường hợp đối
tượng nghiên cứu khá phức tạp, để hiểu rõ được bản chất và xu hướng vận động của
22
đại lượng đó thì người phân tích không chỉ nghiên cứu tổng quát mà còn phải tiến
hành phân chia nhỏ đối tượng để nghiên cứu kỹ hơn. Các chỉ tiêu phân tích sẽ được
chi tiết hóa theo các hướng khác nhau tùy vào đối tượng và mục tiêu phân tích.
Thông thường, các chỉ tiêu sẽ được chi tiết hóa theo các tiêu thức sau:
- Theo yếu tố cấu thành
- Theo thời gian
- Theo địa điểm
Chi tiết hóa giúp cho kết quả phân tích được chính xác và đa dạng, mang lại
cái nhìn toàn diện hơn về đối tượng phân tích. Tuy nhiên, vận dụng phương pháp
chi tiết hóa cũng đồng nghĩa với khối lượng công tác phân tích lớn hơn, thời gian và
chi phí phân tích báo cáo cũng tăng lên đáng kể. Do vậy, chủ thể phân tích cần căn
cứ vào mục đích, yêu cầu phân tích và đặc điểm của chỉ tiêu mà vận dụng phương

pháp này theo hướng thích hợp.
Phương pháp liên hệ đối chiếu
Là phương pháp phân tích sử dụng để nghiên cứu xem xét mối liên hệ kinh
tế giữa các sự kiện và hiện tượng kinh tế. Để lượng hóa được mối liên hệ đó, phân
tích kinh tế sử dụng các kỹ thuật liện hệ phổ biên như: liên hệ cân đối, liên hệ tuyến
tính, liên hệ
1.3.2. Phương pháp phân tích nhân tố
Trong nhiều trường hợp, đối tượng phân tích chịu sự tác động của nhiều yếu
tố khác nhau. Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng
phân tích người phân tích phải loại bỏ được tác động ảnh hưởng của các nhân tố
liên quan. Trong phân tích báo cáo tài chính, phương pháp phân tích nhân tố là
phương pháp hữu ích được sử dụng để nghiên cứu, xem xét các chỉ tiêu tài chính
trong mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng. Tùy vào đối tượng phân tích và tài
liệu có sẵn, có thể sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp thay thế liên hoàn:
Phương pháp này được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng
nhân tố đến đối tượng phân tích bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố
từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay
đổi. Trên cơ sở đó, so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu
chưa có biến đổi của nhân tố cần xác định từ đó biết được mức độ ảnh hưởng của
23
nhân tố đó.
Điều kiện để áp dụng phương pháp này là chỉ tiêu phân tích phải có quan hệ
với nhân tố ảnh hưởng thể hiện dưới dạng phương trình tích hoặc một thương số.
- Phương pháp số chênh lệch:
Phương pháp số chênh lệch là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế
liên hoàn, cũng được dùng để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động
của chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích. Điều kiện, nội dung và trình tự phân tích
giống như phương pháp thay thế liên hoàn, chỉ khác nhau ở chỗ, để xác định ảnh
hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân tích so với

kỳ gốc của nhân tố đó (thực chất là thay thế liên hoàn rút gọn áp dụng trong trường
hợp chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích có quan hệ tích số với các nhân tố ảnh
hưởng).
- Phương pháp cân đối:
Đây là phương pháp được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố tới chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích nếu chỉ tiêu phản ánh đối tượng
phân tích có quan hệ với nhân tố ảnh hưởng dưới dạng tổng số hoặc hiệu số. Bằng
phương pháp cân đối, người ta xác định được mức ảnh hưởng của nhân tố tới chỉ
tiêu phản ánh đối tượng phân tích thông qua số chênh lệch giữa kỳ phân tích với kỳ
gốc của nhân tố ấy.
1.3.3. Phương pháp tỉ lệ
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng khá phổ biến và là kỹ thuật
phân tích căn bản và quan trọng nhất của phân tích báo cáo tài chính. Phương pháp
này được sử dụng để nghiên cứu các chỉ tiêu trong mối quan hệ với các chỉ tiêu
khác. Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc phân tích ý nghĩa của các tỷ lệ
giữa một khoản mục nhất định trên báo cáo tài chính với một hoặc nhiều khoản mục
khác trong mối quan hệ tài chính doanh nghiệp.
Cùng với phương pháp so sánh, Phương pháp phân tích tỉ lệ này có tính hiện
thực rất cao, bởi vì nó giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả các số liệu và phân
tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng
giai đoạn, đo lường và đánh giá chính xác được hoạt động tài chính của công ty.
Trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, các tỷ số tài chính được chia
làm nhiều loại khác nhau tùy theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể:
Dựa vào cách thức sử dụng số liệu để xác định, tỷ số tài chính đươc chia làm
24
3 loại:
- Tỷ số tài chính được xác định từ bảng cân đối tài sản
- Tỷ số tài chính từ báo cáo thu nhập
- Tỷ số tài chính từ cả hai báo cáo trên
Dựa vào mục tiêu phân tích, các tỷ số tài chính có thể chia thành:

- Các tỷ số về khả năng thanh khoản
- Các tỷ số về cơ cấu vốn
- Các tỷ số về khả năng hoạt động
- Các tỷ số về khả năng sinh lãi
Khi phân tích báo cáo tài chính, cần xem xét các tỷ số tài chính trong mối
liên hệ với nhau để hiểu rõ được bản chất của vấn đề. Mặt khác, để kết quả có ý
nghĩa, yêu cầu phải có xác định được các tỷ lệ tham chiếu làm cơ sở so sánh, từ đó
mới giúp đánh giá chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích dựa trên các tỷ số tài chính cho phép người sử dụng
có thể phân tích một cách sâu sắc và toàn diện hơn các phương pháp khác, tuy nhiên
phương pháp này cũng tiềm ẩn khá nhiều nhược điểm. Cụ thể như:
- Rất khó để xây dựng và ứng dụng hệ thống các tỷ số bình quân ngành có ý
nghĩa đối với những công ty có quy mô lớn và hoạt động đa ngành.
- Lạm phát có thể ảnh hưởng xấu và làm sai lệch các thông tin trên báo cáo
tài chính khiến việc tính toán các tỷ số tài chính trở nên không chính xác.
- Độ chính xác của các tỷ số tài chính phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và
nguyên tắc thực hành kế toán, thế nhưng, chất lượng và nguyên tắc thực hành kế
toán lại khác nhau giữa các công ty, các ngành và các quốc gia.
- Các nhà quản lý có thể lợi dụng nguyên tắc thực hành kế toán để tác động
lên các báo cáo tài chính, qua đó tạo ra các tỷ số tài chính như ý muốn, khiến việc
phân tích các tỷ số tài chính trở nên không còn khách quan.
- Các yếu tố thời vụ có thể ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty,
khiến cho các tỷ số tài chính có khuynh hướng thay đổi bất thường.
- Một công ty có thể có vài tỷ số rất tốt và vài tỷ số khác rất xấu khiến cho
việc đánh giá chung về tình hình tài chính của công ty trở nên khó khăn và kém ý
nghĩa.
1.3.4. Phương pháp Dupont
Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích dựa trên mối quan hệ tương
hỗ giữa các tỷ số tài chính, từ đó biến đổi một chỉ tiêu tổng hợp thành hàm số của
một loạt các biến số để phân tích ảnh hưởng của các biến số đó đối với chỉ tiêu tổng

25

×