Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Giá trị Đông Á và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.86 KB, 111 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT





NGUYN MINH TM





GIá TRị ĐÔNG á Và ảNH HƯởNG CủA Nó
ĐốI VớI Sự PHáT TRIểN QUYềN CON NGƯờI
ở VIệT NAM HIệN NAY

Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im



LUN VN THC S LUT HC





Ngi hng dn khoa hc: TS. HONG VN NGHA







H NI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Minh Tâm








MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ GIÁ TRỊ ĐÔNG Á VỀ QUYỀN CON NGƯỜI 13
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và lịch sử phát triển quyền con người 13
1.1.1. Khái niệm 13
1.1.2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển 14
1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người 18
1.2.1. Tính phổ quát (universal) 18
1.2.2. Tính không thể chia cắt (indivisible) 19
1.2.3. Tính không thể chuyển nhượng (inalienable) 20
1.2.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent) 20
1.3. Giá trị Đông Á về quyền con người 21
1.3.1. Quan niệm về giá trị Đông Á 21
1.3.2. Một số nội dung cơ bản 26
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁ TRỊ ĐÔNG Á ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM 43
2.1. Khái quát cơ sở hình thành những đặc trưng văn hóa Việt Nam 43
2.2. Những ảnh hưởng tích cực của giá trị Đông Á đến sự phát
triển quyền con người ở Việt Nam 45

2.2.1. Tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ 45
2.2.2. Tinh thần khoan dung, nhân đạo 47
2.2.3. Tôn trọng phẩm giá 53
2.2.4. Quyền không tách rời nghĩa vụ, quyền của cá nhân gắn liền với
quyền của tập thể, cộng đồng 55
2.2.5. Đề cao các nguyên tắc tự quản 57
2.3. Một số rào cản của giá trị Đông Á đến sự phát triển quyền
con người ở Việt Nam 58
2.3.1. Quá nhấn mạnh đến nghĩa vụ, đề cao tính cộng đồng dẫn đến
xem nhẹ quyền, lợi ích của cá nhân 59
2.3.2. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ, xem nhẹ vai trò của phụ nữ 61
2.3.3. Quá đề cao các nguyên tắc của đạo đức (đức trị) hơn là nguyên
tắc pháp luật (pháp trị) 64
2.3.4. Ảnh hưởng sâu đậm của hệ tư tưởng Nho giáo mang tính thứ
bậc, hà khắc và bảo thủ 65
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ
ĐÔNG Á VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 70
3.1. Một số quan điểm 70
3.1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về quyền con người 70
3.1.2. Quan điểm phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống
nói chung và giá trị văn hóa về quyền con người nói riêng 79
3.1.3. Quan điểm phát triển lấy con người là trung tâm và vì sự giải
phóng toàn diện năng lực và bản chất con người 81
3.1.4. Quan điểm bảo đảm quyền con người gắn liền với phát triển
kinh tế – xã hội theo hướng bền vững 83
3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị quyền con người ở
Việt Nam hiện nay 85
3.2.1. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền
con người 85

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường bảo đảm quyền
con người 90
3.2.3. Thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia 92
3.2.4. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội giám sát việc
thực thi chính sách và pháp luật 93
3.2.5 . Tăng cường hợp tác quốc về vấn đề quyền con người 95
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng Tên bảng Trang

Bảng 1.1:

Khái quát các mốc phát triển của tư tưởng về
quyền con người
17







1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người và mối quan hệ giữa quyền con người với các giá trị
văn hóa truyền thống luôn là một trong những vấn đề có tính cấp thiết lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Cuộc tranh luận gay gắt và sự khác biệt về quan niệm,
thực tiễn bảo đảm quyền con người giữa phương Đông và phương Tây, giữa
các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế – xã hội và pháp luật tương đối
hoàn thiện với các quốc gia đang phát triển,… đã và đang đặt ra những yêu
cầu cần phải nghiên cứu và làm rõ về mối quan hệ giữa quyền con người với
văn hóa nói chung và với các giá trị văn hóa truyền thống nói riêng.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “những giá trị dân chủ, nhân
quyền được thừa nhận trên toàn cầu chính là sự kết tinh từ những giá trị văn
hóa truyền thống cao đẹp của mọi dân tộc”[24, tr.522]. Và đồng thời cũng
nhận thấy rằng văn hóa truyền thống (tín ngưỡng, tôn giáo và đạo đức trong
các nền văn hóa) có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài đến nhận thức, quan điểm
về quyền con người của các quốc gia, dân tộc. Bởi vì, văn hóa truyền thống
không những đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người mà nó còn tác động vào
hành vi và cách suy nghĩ của họ.
Một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng, quyền con người và truyền
thống văn hóa có mối liên hệ chặt chẽ và thường phản ánh mối quan hệ giữa
tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người – vốn dĩ là sự thống nhất
của hai mặt cùng tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, quyền con
người là những kết tinh giá trị nhân văn của nhân loại, được thừa nhận bởi
nhiều quốc gia, dân tộc và trở thành các giá trị phổ biến của nhân loại mà cần
phải được tôn trọng, bảo vệ và phát huy. Mặt khác, nội dung, hình thức và
cách thức thực hiện các quyền con người bị giới hạn bởi truyền thống văn

2
hóa, hoàn cảnh địa lý, chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh tế – xã hội
của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuyên bố Vienna và Chương trình hành động
(Vienna Declaration and Programme of Action, 1993) cũng đã thừa nhận

rằng, trong nhận thức và việc bảo đảm các quyền con người, phải tính đến ý
nghĩa “(tầm) quan trọng của tính đặc thù về dân tộc, khu vực cũng như bối
cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo”[22, tr.337]. Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người cũng đã và
đang là chủ đề gây nhiều tranh cãi giữa các quốc gia phát triển phương Tây
với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở châu Á.
Thừa nhận về tính đa dạng văn hóa (sự khác nhau giữa các nền văn
hóa), cũng như quyền con người vừa mang tính phổ phiến, vừa mang tính đặc
thù hiện nay là một điều vô cùng quan trọng. Bởi vì, cho dù hầu hết các quốc
gia và dân tộc đều (thống nhất) đồng ý với nhau về một số quy tắc cơ bản của
quyền con người, nhưng việc giải thích và thực hiện các quy tắc đó lại là khác
nhau, phụ thuộc vào tâm lý, tập quán, tôn giáo và những giá trị trong nền văn
hóa của họ. Do đó, các quyền con người cũng được thực hiện theo những
cách thức khác nhau. Tuy vậy, cũng nên tránh, không được thổi phồng quá
mức, từ chối việc cải thiện tình trạng quyền con người ở mỗi nước chỉ vì cái
cớ văn hóa truyền thống.
Cho nên, nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và truyền
thống văn hóa của các quốc gia, dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa. Trước hết
nhằm để so sánh các quan điểm, nhận thức về quyền con người, từ đó có thể
tìm ra được những tiếng nói chung trong khi vẫn giữ gìn và tôn trọng những
sự khác biệt, thúc đẩy trao đổi, giao lưu hiểu biết và học hỏi lẫn nhau trên lĩnh
vực này. Tiếp đó có thể tìm kiếm được những sự bổ sung cho nhận thức về
quyền con người thông qua việc phân tích, đánh giá, nhận ra những điểm
mạnh (những khía cạnh tốt đẹp của văn hóa truyền thống) và điểm yếu trong

3
nền văn hóa của mình, nhằm sửa đổi hoặc loại bỏ những quan điểm còn hạn
chế, mang tính rào cản; tiếp thu và học hỏi những quan điểm mới mang tính
nhân văn, tiến bộ.
Vấn đề quyền con người ở Việt Nam nói chung, quan điểm của Đảng

Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về quyền con người nói riêng (trong đó có
quan điểm về tính đặc thù của quyền con người) đã và đang là vấn đề thường
xuyên bị thách thức bởi các nhà chính trị và khoa học phương Tây vốn theo
trường phái đề cao học thuyết tính phổ biến của quyền con người, cũng như
quan điểm quyền con người cao hơn chủ quyền quốc gia. Họ thường cho rằng
quyền con người là những giá trị văn minh xuất phát từ nền văn hóa phương
Tây, còn ở các nền văn hóa phương Đông, nhất là trong các nền văn hóa
Đông Á (trong đó có Việt Nam) không có truyền thống tôn trọng và bảo đảm
các quyền con người. Điều này là hoàn toàn sai lầm, bởi vì văn hóa Đông Á
với ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo, luôn thấm đẫm tinh thần
khoan dung, nhân văn và nhân đạo – những nền tảng quan trọng của luật quốc
tế về quyền con người; và dân tộc Việt Nam đã có một truyền thống văn hóa
và nền tảng pháp luật (phong kiến) lâu đời quan tâm đến các quyền con
người, thậm chí có những bộ luật còn chứa đựng những tư tưởng tiến bộ, vượt
thời đại trong việc ghi nhận và bảo đảm các quyền con người (như Bộ Luật
Hồng Đức của triều đại Hậu Lê). Tuy nhiên, việc quá đề cao truyền thống văn
hóa và pháp luật (phong kiến) mà không nhận thấy những tác động tiêu cực
của nó đến việc tôn trọng và bảo đảm các quyền con người lại là một quan
điểm lệch lạc, chủ quan, duy ý chí.
Thực tế thì trong hơn hai thập kỷ vừa qua, ở khu vực châu Á và
ASEAN nói riêng, vấn đề “giá trị Đông Á” hay “giá trị châu Á” về quyền con
người luôn là một trong những chủ đề gây tranh luận sôi nổi và rộng rãi. Các
quan điểm và chính sách về quyền con người ở nhiều quốc gia trong khu vực

4
này, đặc biệt là Việt Nam, phản ánh một thực tiễn về thừa nhận và áp dụng
giá trị Đông Á trong quan niệm về quyền con người. Chẳng hạn như, quyền
cá nhân gắn liền với quyền và lợi ích của tập thể, của cộng đồng; quyền gắn
liền với trách nhiệm và nghĩa vụ;… là những quan điểm khá phổ biến ở châu
Á. Những quan điểm này đã và đang được áp dụng trong thực tiễn xây dựng

và thực thi pháp luật, chính sách ở nhiều quốc gia châu Á, bao gồm Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Indonesia và Việt Nam.
Cho nên, việc nghiên cứu và làm rõ những giá trị văn hóa, pháp luật truyền
thống và ảnh hưởng của nó lên việc bảo đảm, thực hiện các quyền con người
mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Giá trị Đông Á và ảnh
hưởng của nó đối với sự phát triển quyền con người ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, nhằm góp phần luận giải và làm rõ về
mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật truyền thống với quyền con người, sự
ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng, nhằm tìm ra những giải pháp vừa có
thể bảo tồn, phát huy được những điểm tốt của văn hóa truyền thống, vừa có
thể bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Quyền con người nói chung, mối quan hệ giữa quyền con người với
văn hóa nói riêng, đã được nghiên cứu sâu rộng ở các nước trên thế giới từ rất
sớm, nhất là từ giữa và cuối thế kỷ XX trở lại đây. Có thể kể ra một số công
trình, tài liệu sau đây:
- Công trình: Bình luận và khuyến nghị chung của các ủy ban công ước
thuộc Liên hợp quốc về quyền con người, NXB Công an nhân dân (2008) đã
giải thích rõ nội dung của các điều khoản, những quy định quan trọng của
công ước quốc tế về quyền con người theo quan điểm của Liên hợp quốc.

5
- Công trình: Phát triển là quyền tự do (Development as Freedom) của
tác giả Amartya Sen – nhà kinh tế học, triết gia Ấn Độ cho rằng văn hóa vừa
là phương tiện, vừa là mục đích của sự phát triển. Nội dung xuyên suốt của
cuốn sách là mối tương tác giữa phát triển kinh tế và tự do. Các quyền tự do
không chỉ là mục đích cơ bản của sự phát triển, mà còn là một trong số các
phương tiện chủ yếu của sự phát triển.

- Công trình: Tìm hiểu về quyền con người: Tài liệu hướng dẫn về giáo
dục quyền con người, NXB Tư pháp (2008) của tác giả Wolfgang Benedek đã
cung cấp những thông tin phong phú về quyền con người, giúp người đọc
hiểu được các nội dung, đặc trưng của quyền con người và các vấn đề khác có
liên quan, qua đó hình thành được các quan điểm, kiến thức và khả năng vận
dụng quyền con người vào thực tế cuộc sống.
- Công trình: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948: Mục tiêu chung
của nhân loại (The Universial Declaration of Human Rights: A Common
Standard of Achievement), của hai tác giả Gudmundur Alfredsson và Asbjorn
Eide, do khoa Luật dịch, NXB Lao động-xã hội (2010), trong đó bao gồm
những bài viết phân tích về tính pháp lý và bối cảnh lịch sử của toàn bộ các
điều khoản trong Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người của các học giả và
nhiều nhà hoạt động thực tiễn nổi tiếng trong lĩnh vực quyền con người.
- Công trình: Tư tưởng về quyền con người: Tuyển tập tư liệu thế giới
và Việt Nam, NXB Lao động-xã hội (2011) tập hợp một khối lượng tư liệu
lớn và toàn diện về lịch sử phát triển của nhận thức và tư tưởng về quyền con
người của nhân loại cũng như của dân tộc Việt Nam.
- Tiểu luận: Nhân quyền và các giá trị châu Á của Amartya Sen trình
bày tại Hội đồng Đạo đức và Quốc tế vụ thuộc Học viện Carnegie (Carnegie
Council on Ethnics and International Affairs), được dịch và in trong cuốn: Về
Pháp quyền và Chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của các học giả nước

6
ngoài, NXB Lao động-xã hội (2012) cung cấp một cách nhìn khái quát về giá
trị Á Đông và quyền con người, trong đó ông phản bác những lý luận cho
rằng quyền con người và tự do không phù hợp với văn hóa Á Đông, đồng thời
cũng phản bác thái độ cao ngạo của những người (phương Tây) cho rằng đã
mang ánh sáng văn minh (nhân quyền, tự do) đến cho các dân tộc Á Đông.
- Tiểu luận: Dân chủ như một giá trị toàn cầu của Amartya Sen được
dịch và in trong cuốn: Về Pháp quyền và Chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu

luận của các học giả nước ngoài, NXB Lao động-xã hội (2012) đã phân tích
một số khía cạnh về dân chủ, phản bác lại những luận điểm truyền thống văn
hóa như “giá trị châu Á” để bảo vệ cho sự chuyên chế, độc tài, hạn chế dân
chủ ở một số xã hội châu Á.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Công trình: Các thiết chế hiến định độc lập: Kinh nghiệm quốc tế và
triển vọng ở Việt Nam, NXB ĐH QGHN (2013) của các tác giả Đào Trí Úc,
Nguyễn Thị Mơ, Nguyễn Văn Thuận và Vũ Công Giao đồng chủ biên, trong
đó tập hợp các tham luận và bổ sung một số nghiên cứu có liên quan đến cơ
quan nhân quyền quốc gia, một thiết chế có ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người ở các quốc gia.
- Công trình: Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (ICCPR, 1966) và Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn
hóa và xã hội (ICESCR, 1966), NXB Hồng Đức (2012) của Trung tâm nghiên
cứu Quyền con người và Quyền công dân – khoa Luật, ĐHQGHN cung cấp
những phân tích sâu sắc về nội hàm của các quyền con người, đồng thời cũng
trình bày sơ lược về quá trình phát triển của các quyền con người.
- Công trình nghiên cứu: Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam:
Truyền thống, lý luận và thực tiễn, NXB CT-QG (2003) gồm gần 100 bài viết
của các học giả, nhà nghiên cứu và quản lý của hai nước Việt Nam và Trung

7
Quốc về các khía cạnh khác nhau của quyền con người, với một tầm bao quát
rộng, có hệ thống về truyền thống, lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam, Trung Quốc.
- Công trình nghiên cứu: Quyền con người: Lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam và Ốt-xtrây-lia, NXB Lý luận Chính trị (2004) gồm một số nghiên cứu
của các học giả Việt Nam và Ốt-xtrây-lia, trong đó đã đề cập đến lịch sử và
cơ sở của quyền con người ở Việt Nam và Ốt-xtrây-lia, vai trò của văn hóa
truyền thống, văn hóa và triết học trong việc tạo lập những nền tảng cho việc

đánh giá điều kiện thực tiễn, sự phát triển, bảo tồn, học thuật hiện nay về
quyền con người.
- Công trình nghiên cứu: Văn hóa Đông Á trong tiến trình hội nhập,
NXB CT-QG (2010) của hai tác giả Đỗ Tiến Sâm và Phạm Duy Đức (chủ
biên) đã đưa ra những phân tích về sự ảnh hưởng của những giá trị văn hóa
Đông Á (với sự kết hợp của ba giá trị truyền thống cơ bản là Nho-Phật-Lão)
đến sự phát triển của khu vực, cũng như sự phát triển của văn hóa nhân loại.
Đồng thời cũng đưa ra ý nghĩa của sự ảnh hưởng này đến quá trình hoạch
định sự phát triển của mỗi quốc gia (khu vực Đông Á) trong từng thời kì lịch
sử. Cuốn sách tập hợp những chuyên đề khoa học tập trung đi sâu vào nghiên
cứu mô hình văn hóa, giá trị văn hóa Đông Á trong lịch sử và hiện tại, đồng
thời cũng cho thấy những biến đổi và phát triển của nó trong xu thế phát triển
chung của nhân loại, xu thế hội nhập quốc tế.
- Công trình nghiên cứu: Về giá trị và giá trị châu Á, NXB CT-QG
(2005) của tác giả Hồ Sĩ Quý đã phân tích, luận giải mối tương quan giữa
những giá trị truyền thống châu Á và nền văn hóa Việt Nam, đồng thời phân
tích sự biến động một số giá trị ưu trội trong bảng giá trị châu Á tại Việt Nam
như cần cù, hiếu học, gia đình và cộng đồng.
- Cuốn: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại

8
học Quốc gia Hà Nội (2011) của các tác giả Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công
Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên, cung cấp một khối lượng kiến thức
trọng tâm về pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền con người,
đồng thời cũng bao gồm một lượng kiến thức nhất định về lý luận (triết học,
xã hội học, chính trị học,…) về quyền con người, nhằm đưa đến cho người
đọc sự hiểu biết toàn diện về vấn đề rất rộng lớn và phức tạp này.
- Cuốn: Hỏi đáp về quyền con người, NXB ĐH QGHN (2012) của
Trung tâm nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân – khoa Luật,
ĐHQGHN cung cấp những vấn đề cốt lõi nhất về vấn đề quyền con người,

với những thông tin ngắn gọn, súc tích bao gồm cả những vấn đề lý luận,
pháp lý về quyền con người ở tầm quốc tế và Việt Nam.
- Một số bài đăng tạp chí về mối liên hệ giữa văn hóa và quyền con
người, tính phổ quát tương đối của quyền con người như: Reinterpreting
East-Asian Culture and Human Rights: The Case of Traditional Vietnamese
Legal Culture, của tác giả Hoàng Văn Nghĩa đăng trên tạp chí quốc tế:
International Studies Journal (ISJ)/No.36/VII (ngày 1/8/2012). Tiếp cận văn
hóa với tính cách là một quyền con người cơ bản, của tác giả Hoàng Văn
Nghĩa đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị tháng 5-2011. Bàn về tính phổ quát
tương đối của quyền con người, của tác giả Hoàng Văn Nghĩa đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam năm
2013. Văn hóa truyền thống Đông Á: Có hay không các giá trị nhân quyền,
của tác giả Vũ Công Giao đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Con người, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam năm 2007.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã luận giải và làm rõ tương đối sâu
rộng về vấn đề quyền con người, cũng như mối quan hệ giữa quyền con người
và văn hóa, giữa các giá trị văn hóa với quan niệm và thực tiễn quyền con
người,… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu hệ thống hóa

9
và làm rõ giá trị Đông Á với quyền con người, tiếp cận từ góc độ so sánh và
đối chiếu từ luật quốc tế về quyền con người, cũng như từ thực tiễn của sự
phát triển quyền con người ở Việt Nam trong truyền thống và hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của nghiên cứu là góp phần làm rõ những nền tảng đạo
đức, chính trị, lịch sử, truyền thống văn hóa Đông Á ở Việt Nam và luận
giải về mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển
quyền con người ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích nói trên, luận văn sẽ phải giải quyết được
các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ quan niệm, các đặc trưng và nội dung của giá trị Đông Á về
quyền con người.
- Phân tích tác động, ảnh hưởng của quan niệm giá trị Đông Á đến sự
nhận thức và thực hiện các tiêu chuẩn quyền con người ở Việt Nam.
- Nêu ra những quan điểm cơ bản nhằm phát huy giá trị quyền con
người ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm phát huy những điểm tích
cực và khắc phục những điểm còn hạn chế về nhận thức, thực hiện quyền con
người ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung, tư tưởng của
văn hóa và pháp luật truyền thống Đông Á ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đối với sự phát triển quyền con người ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

10
Luận văn nghiên cứu những nội dung, tư tưởng về văn hóa, pháp luật
truyền thống và quyền con người ở Việt Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến
thời gian hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), các quan điểm của Đảng
Cộng sản, Nhà nước Việt Nam và của Liên Hợp Quốc về quyền con người.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn bao
gồm: khảo cứu tài liệu, phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh.
Các cách tiếp cận của luận văn bao gồm: cách tiếp cận dựa trên
quyền con người (HRBA), nhân học văn hóa, dân tộc học, triết học, chính

trị học và luật học.
6. Những nét mới của luận văn
Ở Việt Nam hiện mới chỉ có một vài nghiên cứu về cơ chế nhân quyền
ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào đề
cập đến khía cạnh lịch sử, văn hóa của khu vực trong mối quan hệ với quyền
con người. Luận văn này là nghiên cứu đầu tiên phân tích một cách toàn diện
về truyền thống văn hóa – giá trị Đông Á – và quyền con người. Vì vậy, nó
góp phần bổ sung, khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu về văn hóa, chính
trị và quyền con người ở Việt Nam.
7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học về mối quan hệ giữa văn hóa với quyền con người (truyền thống văn
hóa và quyền con người); các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà
nước Việt Nam về quyền con người; các đề xuất, kiến nghị góp phần phát huy
những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, đồng thời khắc phục, sửa đổi
những hạn chế, rào cản của văn hóa truyền thống đối với việc tôn trọng, bảo

11
vệ và thực hiện các quyền con người đầy đủ cho tất cả mọi người.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu ở Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo
khác ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các nghiên cứu, hội thảo, chuyên đề có liên quan đến vấn đề văn hóa và
quyền con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết được kết cấu như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người và giá trị Đông
Á về quyền con người. Chương này cung cấp những nhận thức chung về
quyền con người thông qua việc phân tích khái niệm, nguồn gốc, quá trình

phát triển, và các đặc trưng của quyền con người. Đồng thời, khái quát quan
niệm về giá trị Đông Á, các đặc trưng và nội dung cơ bản của giá trị Đông Á
về quyền con người.
- Chương 2. Ảnh hưởng của giá trị Đông Á đối với sự phát triển quyền
con người ở Việt Nam. Chương này làm rõ nền tảng và sự ảnh hưởng của giá
trị Đông Á đối với sự phát triển quyền con người ở Việt Nam, thông qua việc
phân tích và chỉ ra những ảnh hưởng tích cực (như tôn trọng nhân phẩm, tinh
thần nhân đạo, khoan dung, tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ…) cũng như
những hạn chế (như sự hà khắc của Nho giáo, tư tưởng trọng nam khinh nữ,
xem nhẹ vai trò của người phụ nữ, quá đề cao tính cộng đồng dẫn đến xem
nhẹ tính cá nhân,…) của giá trị Đông Á về quyền con người.
- Chương 3. Quan điểm và giải pháp phát huy giá trị Đông Á về quyền
con người ở Việt Nam hiện nay. Chương này mở đầu bằng việc đưa ra một số
quan điểm về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, như quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, quan

12
điểm phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống về quyền con
người, quan điểm phát triển lấy con người là trung tâm, quyền con người vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển Tiếp đó, tác giả đưa ra một số
giải pháp nhằm phát huy giá trị quyền con người ở Việt Nam hiện nay, như
tăng cường truyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về quyền con
người, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo quyền con người,…























13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ GIÁ TRỊ ĐÔNG Á VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

1.1. Khái niệm, nguồn gốc và lịch sử phát triển quyền con người
1.1.1. Khái niệm
Quyền con người là một vấn đề chính trị – pháp luật nhạy cảm, phức
tạp, luôn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi về mặt hệ tư tưởng, quan điểm, giá
trị và thực tiễn việc tôn trọng và bảo đảm. Với tính cách là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn (bao gồm: luật học, chính
trị học, triết học, văn hóa học, đạo đức, tôn giáo,…), quyền con người là một
phạm trù đa diện, có tính chất liên ngành, đa ngành. Theo một tài liệu thống
kê của Liên hợp quốc vào năm 1994 cho thấy, “có đến gần 50 định nghĩa về
quyền con người đã được công bố”[21, tr.37]. Trong phạm vi của luận văn

này, tác giả sẽ đưa ra hai khái niệm, đại diện cho hai xu hướng tranh luận chủ
yếu hiện nay về quyền con người. Đó là xu hướng quốc gia – quốc tế, và xu
hướng luật tự nhiên – luật thực định.
Văn phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về Quyền con người (OHCHR)
đã là cơ quan chính thức của Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa về quyền con
người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của
con người”[21, tr.37].
Các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam, trong khi thừa nhận những
mức độ nhất định của định nghĩa trên, cũng đưa ra những quan niệm khác
nhau về quyền con người. Chẳng hạn, Amartya Sen – nhà tư tưởng nhận giải
Nobel Kinh tế học năm 1998, quan niệm quyền con người là những khả năng

14
và năng lực (capacities) nhằm giúp họ thực hiện được các quyền và tự do cơ
bản. Còn một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng, “quyền con người xuất
phát từ những nhu cầu và phẩm giá vốn có của mỗi người, được pháp luật ghi
nhận và bảo đảm”[40, tr.145]. GS. TS Nguyễn Đăng Dung – một người có
nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu về quyền con người định nghĩa:
Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con
người, được có một cách tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người
– một động vật cao cấp có lý trí và có tình cảm, làm cho con
người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với
một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải
bảo vệ những quyền đó[7, tr.573].
Như vậy, (từ những điều nêu trên) có thể đưa ra một số nhận thức
chung về đặc trưng, nội hàm, cũng như cách hiểu về quyền con người, đó là:
thứ nhất, quyền là những đặc tính cơ bản gắn liền với con người, xuất phát từ
phẩm giá vốn có của con người như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền

được phát triển,… bất kể sự khác nhau về chủng tộc, màu da, tôn giáo, ngôn
ngữ, hay bất kì sự khác biệt nào khác; thứ hai, các quyền này yêu cầu phải
được ghi nhận và đảm bảo bằng các nguyên tắc của pháp luật cả ở phạm vi
quốc gia và quốc tế (các điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế, các nguyên
tắc chung và các nguồn khác của luật quốc tế).
1.1.2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng về quyền con người trong một số học
thuyết chính trị và pháp lý cơ bản đã chỉ ra cho thấy “quyền con người là một
khái niệm tiến triển theo thời gian”[44]. Sự phát triển của nó gắn liền với “sự
phát triển của các tôn giáo, tư tưởng, tập quán và pháp luật trong các giai
đoạn lịch sử của nhân loại”[25, tr.19].
Trong thời kì cổ đại và trung đại, những giá trị chung, cốt lõi tương ứng

15
với khái niệm về quyền con người hiện đại đã xuất hiện trong các tôn giáo
lớn, một số bộ luật cổ, và trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng thời kì đó.
Các giáo lý của Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo đều “chứa đựng nhiều
tư tưởng có ý nghĩa đạo đức về hạnh phúc, bình đẳng và tự do”[24, tr.11-46].
Các bộ luật cổ như: Bộ luật Hammurabi cổ đại, Bộ luật của Cyrus Đại đế, Bộ
luật Ashoka, Luật Manu,… đã phản ánh được “những nhận thức và quan
niệm về công bằng, giá trị của nhân phẩm, và các quyền lợi chính đáng của
con người”[24, tr.47-63]. Các nhà tư tưởng có ảnh hưởng trong thời kì này cả
ở phương Đông và phương Tây như: Khổng Tử, Mặc Tử, Platon, Aristotle,…
trong các tác phẩm của mình đều đã đề cập đến “những nội dung, khía cạnh
của tư tưởng về quyền con người, các giá trị tự do, bình đẳng”[24, tr.64-105].
Đến thời kì khai sáng và cách mạng tư sản, quyền con người đã có
bước phát triển lên tầm cao mới với sự ra đời của những học thuyết, tư tưởng
tiến bộ trong thời kì khai sáng, cùng với những văn kiện pháp lý quan trọng ra
đời trong các cuộc cách mạng tư sản. Nổi bật trong giai đoạn này là tư tưởng
về pháp luật tự nhiên và quyền tự nhiên. Các học giả tiêu biểu như: Thomas

Hobbes, John Locke, Thomas Paine, Rousseau, Montesquieu,… với khuôn
khổ lý thuyết về khế ước xã hội, quan niệm về quyền bình đẳng của con
người, vai trò của tự do và công lý chống lại các hành động tàn bạo, chuyên
chế và áp bức, vai trò của pháp trị trong việc tạo nên một xã hội được tổ chức
tốt. Họ cho rằng:
“Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá
nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của
gia đình nhân loại”[25, tr.21], “không phụ thuộc vào phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp,
tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào”[21, tr.39], “không
một chủ thể nào có quyền ban phát hay tước bỏ các quyền bẩm
sinh, vốn có này”[26, tr.22-23].

16
Đối lập với tư tưởng về pháp luật tự nhiên và quyền tự nhiên, các
nhà tư tưởng theo học thuyết quyền pháp lý, với đại diện tiêu biểu Edmund
Burke và Jeremy Bentham lại cho rằng, “quyền con người không phải là
những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác
định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ
truyền thống văn hóa”[25, tr.24].
Trước cách mạng tư sản, một số văn kiện được coi như những cột mốc
quan trọng trong tiến trình phát triển của quyền con người như: Đại Hiến
chương Anh quốc (Magna Carta, 1215), Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights, 1689) đã ghi nhận những quyền quan trọng (như các quyền chính trị,
các quyền tư pháp, quyền tự do về thân thể,…). Các văn kiện này ít nhiều đều
chịu ảnh hưởng của những “tư tưởng tiến bộ trong các học thuyết tôn giáo,
chính trị với mục tiêu nhằm bảo vệ phẩm giá của con người”[25, tr.21].
Cách mạng tư sản, với ngọn cờ quyền con người nhằm chống lại chế độ
vương quyền và thần quyền của xã hội phong kiến, đã tạo ra một dấu ấn quan
trọng trong lịch sử đấu tranh cho tiến bộ xã hội, cho các quyền và tự do cơ

bản của con người. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn
Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, Bộ luật về quyền của Mỹ đã thể hiện
quyền con người như một chân lý hiển nhiên, rằng “con người sinh ra tự do
bình đẳng về quyền lợi và luôn được tự do bình đẳng về quyền lợi”[24,
tr.119]. Các văn kiện này cũng đã đưa đến việc ghi nhận và thực hiện nhiều
quyền con người khác nhau trong các lĩnh vực đời sống xã hội như: quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; tự do báo chí, quyền lập hội và hội họp; quyền bình
đẳng trong xét xử, quyền tự do về thân thể (habeas corpus), quyền sở hữu,…
Từ thế kỷ 19 cho đến nay, với các phong trào đấu tranh nhằm xóa bỏ
chế độ nô lệ và cải thiện điều kiện sống cho người lao động, phong trào đấu
tranh giành độc lập của các nước thuộc địa, sự ra đời của các tổ chức quốc tế

17
như Tổ chức Lao động Quốc tế, và đặc biệt là Liên hợp quốc, đã đánh dấu
một bước phát triển mới của quyền con người. Quyền con người dần trở nên
phổ biến, ngày càng được thừa nhận và tuân thủ bởi các quốc gia trên thế
giới, bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị, hệ tư tưởng, truyền thống văn
hóa, triết lý tôn giáo. Việc Liên hợp quốc xây dựng hàng loạt các văn kiện về
quyền con người (cốt lõi là Bộ luật về Quyền gồm 3 văn kiện: UDHR, ICCPR
và ICESCR) và các cơ chế để đảm bảo thực hiện càng khẳng định các quyền
con người phổ quát cho mọi thành viên của gia đình nhân loại.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của phong trào đấu tranh cho quyền
con người trên phạm vi toàn cầu, những khái niệm và vấn đề khác có liên
quan đến quyền con người cũng đã được đưa ra và phát triển, như: dân chủ,
phát triển bền vững, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, cách tiếp cận dựa
trên quyền, quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền được hưởng
hòa bình,… làm cho “quyền con người trở thành một trong những khái niệm
được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và nồng
nhiệt nhất hiện nay”[21, tr.56].
Bảng dưới đây là khái quát một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát

triển của tư tưởng về quyền con người từ trước tới nay [1], [21]:
Bảng 1.1: Khái quát các mốc phát triển của tư tưởng về quyền con người
Thời gian Sự kiện, văn kiện
1760 TCN Bộ luật Hammurabi
1200 TCN Kinh Vệ đà, Upanishads (Áo nghĩa thư)
550 TCN Luật của Cyrus Đại đế
586-456 TCN Kinh Phật (Bộ Kinh Tam giác, Kinh Tăng Chí)
479-421 TCN Luận ngữ của Khổng Tử
460-380 TCN Đạo Đức Kinh của Lão Tử
273-231 TCN Bộ luật Ashoka

18
7-1 TCN Kinh Thánh (Kinh Tân Ước)
610-612 Kinh Koran
1215 Đại Hiến chương Anh (Magna Carta)
1689 Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights); Chuyên luận thứ
Hai về chính phủ dân sự (the Second Treatise on Civil
Government) của John Locke
1748 Bàn về Tinh thần pháp luật của Montesquieu
1762 Khế ước xã hội của Rousseau
1776 Tuyên ngôn độc lập của Mỹ; Dự luật Virginia về các quyền
1789 Cách mạng Pháp; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp; Bộ luật về Quyền của Mỹ
1791 Các quyền con người của Thomas Paine
1859 Bàn về tự do của John Stuart Mill
1863-1864 Ủy ban Chữ Thập đỏ quốc tế được thành lập, bắt đầu xây dựng
và phát triển các văn kiện về Luật Nhân đạo quốc tế
1919 Tổ chức Lao động Quốc tế ra đời, bắt đầu xây dựng và phát triển
các văn kiện quốc tế về bảo đảm các quyền của người lao động
1945-nay Liên hợp quốc ra đời, bắt đầu xây dựng và phát triển các văn

kiện quốc tế về quyền con người, các cơ chế đảm bảo thực hiện;
xây dựng và tổ chức các Hội nghị, Chương trình hành động về
quyền con người
(Nguồn: Bảng này được tổng hợp từ Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người
và Tìm hiểu về quyền con người: Tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người)


1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người
Theo pháp luật quốc tế về quyền con người hiện nay, thì quyền con
người có các đặc trưng cơ bản sau đây:
1.2.1. Tính phổ quát (universal)
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể được coi là văn kiện chính

19
thức đầu tiên về mặt nhà nước thể hiện (khẳng định) tính phổ quát của các quyền
con người khi khẳng định: “Chúng tôi tin rằng những chân lý này là hiển nhiên,
rằng: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”[24, tr.115]. Tiếp đến,
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người 1948 đã tiếp tục khẳng định lại, rằng:
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân
phẩm và các quyền…. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền
và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kì sự phân
biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc
xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác[22, tr.49].
Như vậy, xuất phát từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách con
người, cho nên mọi người phải có các quyền ngang nhau mà không có bất sự
phân biệt vì lý do gì. Tuy nhiên, “sự bình đẳng ở đây không phải là cào bằng
về mức độ hưởng thụ các quyền, mà bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội

hưởng thụ các quyền con người”[21, tr.42].
1.2.2. Tính không thể chia cắt (indivisible)
Đặc trưng này nói lên rằng các quyền con người về nguyên tắc đều có
tầm quan trọng, giá trị như nhau, không có quyền nào cao hơn quyền nào.
“Sự tước đoạt hay hạn chế bất kì quyền nào của con người đều có tác động
tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người”[21, tr.42].
Hai hội nghị quốc tế về quyền con người cũng đã khẳng định tính
không thể chia cắt của quyền con người. Hội nghị Teheran vào năm 1968 đã
chỉ rõ rằng, “tất cả các quyền con người là không thể phân chia và phụ thuộc
lẫn nhau”[1, tr.36]. Tiếp theo, Hội nghị tại Vienna năm 1993 đã ra được bản

×