Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Chuyên đề: Mô típ thời gian trong ca dao Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.37 KB, 5 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
MÔ TÍP THỜI GIAN TRONG CA DAO VIỆT NAM
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ca dao là một thể loại đặc sắc của văn học dân gian Việt Nam, à sáng tác của
quần chúng nhân dân nhằm thể hiện, gửi gắm tâm tư, tình cảm, suy nghĩ…của
mình. Đó cũng là một món ăn tinh thần không thể thiếu được với mỗi con người
Việt Nam chúng ta, đặc biệt là với các em học sinh.
Để “bóc vỏ” được những lớp ý nghĩa của mỗi bài ca dao thì chúng ta không thể
không chú ý đến thời gian nghệ thuật trong mỗi tác phẩm đó. Nhưng nhìn chung
trong SGK THCS chưa đưa ra một tiết học nào nghiên cứu một cách tập trung và có
hệ thống về vấn đề này.
Mặt khác, qua khảo sát cho thấy phần lớn học sinh chưa hiểu được ý nghĩa của
thời gian nghệ thuật trong ca dao hoặc hiểu một cách hời hợt và nông cạn. Các em
chưa biết được thời gian cũng chính là một yếu tố thể hiện sâu sắc tâm trạng , tình
cảm của nhân vật trữ tình (nhân vật diễn xướng) trong các bài ca dao.
Vậy làm thế nào để hiểu hết ý nghĩa của thời gian nghệ thuật trong ca dao?
Chuyên đề này đã giúp tôi hoàn thành tốt hơn các bài giảng về ca dao. Mong rằng
nó sẽ có ích cho các đồng nghiệp cũng như các em học sinh trong việc đọc hiểu các
văn bản ca dao.
PHẦN II: NỘI DUNG
1.Thời gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong ca dao
a.Thời gian nghệ thuật:
Thời gian nghệ thuật là thời gian trong tác phẩm nghệ thuật, được tác giả tái tạo,
tổ chức lại theo một dụng ý nghệ thuật nào đó. Thời gian nghệ thuật có khi trùng với
thời gian
hiện thực, có khi lại hoàn toàn khác (ví dụ: thời gian trôi nhanh, thời gian dồn
nén…)
Thời gian nghệ thuật vừa là khách thể vì nó tồn tại độc lập, vừa là chủ thể vì đó
là cách nhìn, cách cảm, cách nghỉ của chủ thể. Thời gian nghệ thuật cũng vừa là nội
dung phản ánh vừa là phương tiện biểu hiện.
Thời gian trong các tác phẩm nghệ thuật bao gồm các lớp:


- Thời gian hiện thực khách quan.
- Thời gian tâm lý.
- Thời gian đồng hiện.
- Thời gian chuyển tải một nội dung, quan điểm mang tính triết lý về số
phận con người, số phận nhân vật(thời gian triết học)
- Thời gian lịch sử.
- Thời gian của các thời gian( cõi trời, cõi đất, cõi âm )
- Thời gian sinh học(ví dụ: kiếp phù du…)
Các lớp thời gian này được tác giả tổ chức, tái tạo trong các tác phẩm nghệ thuật
để thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm cũng như tình cảm, cảm xúc, suy ngẫm
của nhân vật.
b.Thời gian nghệ thuật trong ca dao
Vì ca dao cũng là một trong những thể loại của văn học dân gian nên nó mang
tất cả các đặc điểm của văn học dân gian như: Tính truyền miệng, tính nguyên
hợp,tính tập thể,tính dị bản ,tính diễn xướng… Chính vì mang đặc điểm diễn
xướng và truyền miệng nên thời gian nghệ thuật trong ca dao phần lớn là thời gian
hiện tại, thời gian diễn xướng ( thời gian hiện tại diễn xướng)
Qua khảo sát ta thấy có 2 nhóm ca dao:
• Nhóm ca dao có từ ngữ biểu thị thời gian:
+ Quá khứ: đêm qua, ngày nào, ngày xưa…
+ Hiện tại: hôm nay, bây giờ, sáng ngày…
+ Tương lai: bao giờ, mai sau, mai…
Nhưng nhìn chung thời gian quá khứ và thời gian tương lai chỉ là thời gian
được nhắc đến để lột tả một tâm tư tình cảm nào đó của nhân vật trữ tình lúc
hiện tại.
Ví dụ: Hôm qua anh đến chơi nhà,
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm dường,
Thấy em nằm đất anh thương,
Anh về mua gỗ tám thang cho em nằm.
Thời gian quá khứ “ hôm qua” chỉ là cái cớ để chàng trai thổ lộ tình yêu thương

của mình đối với cô gái .
Tuy nhiên vẫn có trường hợp thời gian được đẩy về quá khứ xa xôi ( khi xưa,
ngày nào…)
Ví dụ: Khi xưa anh bủng ,anh beo
Tay tôi cầm chén thuốc, tay tôi đèo múi chăn
Bây giờ anh khoẻ anh lành,
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi.
Quá khứ ở đây để trách cứ thói phụ bạc của chàng trai, làm cho quá khứ có sức
nặng hơn.
• Nhóm thời gian không có từ ngữ chỉ thời gian:
Thời gian của nó là thời gian hiện tại - diễn xướng ( tức là thời gian mà người
diễn xướng – nhân vật trữ tình trình bày bài ca dao)
2. Các công thức miêu tả thời gian trong ca dao( mô típ thời gian nghệ thuật
của ca dao)
Qua khảo sát cho thấy, ca dao việt nam thường có sự lặp lại một cách có ý
nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian. Căn cứ vào hệ thống từ ngữ biểu thị thời gian
này chúng ta sẽ nắm vững hơn nội dung ý nghĩa của những bài ca dao cũng như
hiểu sâu sắc hơn về tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật trữ tình… Sau đây là một
số công thức miêu tả thời gian( mô típ thời gian) trong ca dao:
a. Mô típ thời gian “ trăm năm”:
Mô típ thời gian “ trăm năm” mang ý nghĩa tượng trưng nói đến thời gian đời
người
_Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không
_Trăm năm dạ ở đinh ninh,
Nào ai phụ ngãi quên tình mặc ai
_Trăm năm ước bạn chung tình,
Trên trời dưới đất có mình có ta.
_Trăm năm thề trọn một bề,
Gối loan gối phụng thiếp kê cho chàng.

_Trăm năm tạc một chữ đồng,
Dù ai thêu phụng vẽ rồng cũng không (…)
Thời gian “ trăm năm” được nhắc đi nhắc lại trong ca dao để nói lên tình cảm
thuỷ chung, son sắt ( nó thường gắn với những từ ngữ: thề, nguyền, ghi nhớ, tạc
dạ…)
b. Mô típ thời gian “ chiều chiều”
Đây là một thời khắc nhạy cảm trong ngày, thường gợi lên một nỗi tâm tình,
một nỗi lòng nào đó của con người đặc biệt là người phụ nữ. Thời gian này
trong qui luật tự nhiên giống như là một thời khắc trở về, đoàn tụ. Thời gian
này trong tình cảm của con người cũng chính là thời khắc gia đình đoàn tụ.
“ Chiều chiều” là tiếng nói của những người con xa xứ hoài vọng, thương nhớ
quê nhà. Đó là tình cảm, tâm tư của họ hướng về quê hương.
Ví dụ: _Chiều chiều ra đứng đầu truông,
Gió thổi từng luồng đứt ruột em ơi.
_Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
_Chiều chiều mây phủ Sơn Trà,
Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm (…)
c. Mô típ thời gian “Đêm khuya” (đêm năm canh, đêm nằm…)
Đêm khuya là thời khắc yên tĩnh, quạnh vắng, mờ mịt, tăm tối. Trong đêm
khuya nhiều khi cũng xuất hiện yếu tố ánh sáng ( trăng, sao, đèn…) nhưng ánh
sáng thường được miêu tả một cách mờ nhạt: Trăng: Mờ, tàn, lụi, xế; Sao: mờ;
Đèn:dầu cạn, tim bấc cháy lụi, đĩa dầu hao…
Những yếu tố này góp phần hỗ trợ cho không gian u tối, mờ mịt của đêm
khuya.
Không gian đêm khuya còn còn là không gian lạnh lẽo, gió bấc, sương sa.
Trong hoàn cảnh đó, nhân vật trữ tình được miêu tả một cách lẻ loi, đơn chiếc
→tâm trạng ngóng trông, đợi chờ khắc khoải, buồn, xót xa.
Ví dụ: _Đêm khuya ngồi dựa phòng loan,
Thực tình nhớ bạn hai hàng luỵ rơi.

_Đêm khuya nguyệt lặn,sao tàn,
Đồng hồ nhặt điểm nhớ nàng không nguôi.
_Đêm khuya thắp chút dầu dư,
Tim lang cháy lụi sầu tư một mình.
_Đêm khuya em ngồi dựa mé hiên đình
Sương sa, gió lạnh không thấy mình vãng lai.
_ Đêm khuya trăng lặn,dầu hao,
Anh ở chỗ nào nói lại em hay.
_ Đêm nằm ôm gối thở than,
Gối ơi gối hỡi bạn lang xa rồi.
d. Mô típ thời gian “đêm trăng thanh” ( trăng vàng, trăng tỏ, trăng rằm…)
Ở đây không gian đêm không còn là không gian tăm tối lạnh lẽo nữa mà là
không gian tươi mát để các đôi trai gái hẹn hò, trò chuyện đầm ấm và nghĩ về
tương lai tươi đẹp.
Ví dụ: _Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá nên chăng hỡi chàng?
_Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Quay tơ thì giữ mối tơ
Dù năm, bảy mối cũng chờ mối anh.
_Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng
Lạt chẳng mỏng sao thừng chắc được
Duyên đôi ta đã chót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quí, chớ cầu trăng hoa.

Trăng rằm đã tỏ lại tròn,

Củ lang đất cát đã ngon lại bùi.
Em gặp anh đây đã khoẻ lại vui,
Tam tứ sầu giải hết mặt tươi như thường.
e. Mô típ thời gian đối lập
Hai yếu tố thời gian đối lập nhau( a  b đựơc đặt cạnh nhau: a thường là
thời gian quá khứ, b là thời gian hiện tại, tuy nhiên cũng có trường hợp a là
hiện tại, b là tương lai)
Việc đặt hai yếu tố thời gian đối lập nhau không phải là sự ngẫu nhiên mà đó
là sự biểu hiện của thi pháp ca dao.
Ví dụ: Thời gian quá khứ đặt bên cạnh thời gian hiện tại để biểu thị sự vận
động, thay đổi. Thời gian thay đổi, con người, sự vật cũng thay đổi. Thường
đây là sự thay đổi của đối tượng trữ tình (ở đây là sự thay đổi tình cảm)
Trong công thức miêu tả thời gian này tác giả dân gian thường sử dụng biện
pháp tu từ ẩn dụ.
Ví dụ: _Khi đi bóng hãy còn dài,
Khi về bóng đã nghe ai bóng tròn.
_Ngày đi em chửa có chồng,
Ngày về em đã tay bồng tay mang.
_Ngày đi trúc chửa mọc măng,
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre.
Sử dụng mô típ thời gian đối lập thường để thể hiện nỗi ngậm ngùi, xa xót,
nuối tiếc, đau thương của nhân vật trữ tình về những sự đổi thay trong tình yêu,
trong cuộc sống.

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Kết luận
Trên đây là những công thức miêu tả thời gian trong ca dao. Mỗi công thức
thể hiện tương ứng một ý nghĩa nhất định nào đó. Xác định được các mô típ
thời gian và ý nghĩa của nó tức là chúng ta đã có thêm mấu chốt để “ bóc vỏ”
lớp ngôn ngữ trong ca dao. Từ đó tiến đến hiểu một cách thấu đáo các tác phẩm

nghệ thuật sâu sắc và tinh tế của cha ông ta. Giáo viên có thể kết hợp dạy cho
học sinh những mô típ thời gian nghệ thuật này trong từng mảng đề tài ca dao.
học sinh cũng có thể dựa vào đây để có cơ sở tự tìm tòi, khám phá nội dung ý
nghĩa của mỗi bài ca dao cụ thể.
2. Kiến nghị:
Nhà trường nên tăng cường cho thư viện một số đầu sách về Văn học dân
gian nói chung và ca dao nói riêng./.

Người thực hiện: Đào Thị Thanh Thuỷ
Trường THCS Kỳ Nam




×