Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Cuốn kỷ yếu KN 50 năm thành lập trường THCS Cần Kiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 60 trang )

Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
1
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
Năm
1962 - 2011
BAN BIÊN TẬP CUỐN SÁCH 50 NĂM
TRƯỜNG THCS CẦN KIỆM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
Trưởng ban:
TẠ VĂN NINH - Hiệu trưởng
Phó trưởng ban TT:
CẤN MINH THIẾT - Phó hiệu trưởng
Thư ký:
LÊ VĂN ĐẰNG - CT công đoàn cơ sở
Các uỷ viên:
ĐẶNG THỊ THUÝ HẰNG - Tổ trưởng tổ KHTN
HOÀNG THỊ HẠNH - Tổ phó tổ KHTN
CẤN THỊ THU - Tổ trưởng tổ KHXH
NGUYỄN VĂN THẮNG - Tổ phó tổ KHXH
NGUYỄN HUY TRÍ - Tổ trưởng tổ VP
KIỀU THỊ NGỌC - Tổ phó tổ VP
NGUYỄN ĐỨC TÀI - Bí thư đoàn trường
PHÍ THỊ NGỌC HÀ - Tổng PT Đội TN
Trình bày: Kiều Danh
50 NĂM
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
1962 - 2011
Muùc luùc
Lụứi noựi ủau
M uùc luùc


2
Lời nói đầu
Cách đây gần 50 năm, trên một vùng quê thuần nông bên dòng sông Tích, trường
phổ thông cấp II nông nghiệp Cần Kiệm được thành lập. Sự ra đời của một ngôi
trường trên vùng quê nghèo, là một hạnh phúc lớn của tuổi trẻ học đường xã nhà.
Buổi đầu trường còn rất đơn sơ, biết bao thiếu thốn chồng chất. Đến nay, trường
đã có một đội ngũ đông đảo cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh với một cơ ngơi
khang trang, sạch đẹp. Gần nửa thế kỷ lớn lên cùng sự nghiệp cách mạng của quê
hương, đất nước, trường phổ thông cấp II nông nghiệp Cần Kiệm ngày nào nay là
trường Trung học cơ sở Cần Kiệm đã không ngừng phấn đấu vượt qua nhiều khó
khăn, xây nên những thành tích thật đáng tự hào.
Kỷ niệm thành lập trường 50 năm, cuốn sách nhỏ này ra đời chỉ điểm lại những
nét chính của chặng đường đã qua, ôn lại những kỷ niệm một thời khó quyên để phát
huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường, kết quả phấn đấu trường chuẩn Quốc gia,
tăng thêm sức mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, xứng đáng
với niềm tin cậy của lãnh đạo các cấp, niềm tự hào của các thế hệ học sinh, của cha
mẹ học sinh và nhân dân xã nhà.
Ban biên tập đã có nhiều cố gắng sưu tầm, tìm hiểu và sử lý tư liệu, nhiều thầy,
cô giáo rất nhiệt tình tham gia. Nhiều tư liệu của nhà trường bò thất lạc, song không
tránh khỏi thiếu sót. Ban biên tập rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy,
cô và các bạn để cuốn sách sau được tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo xã, cảm ơn các thầy, cô giáo và
các bạn đã nhiệt tình cộng tác, góp ý bổ sung trong quá trình biên soạn để cuốn sách
được ra mắt bạn đọc nhân dòp kỷ niệm 50 năm thành lập trường và đón Bằng công
nhận trường chuẩn Quốc gia vào dòp 26 tháng 3 năm 2011.
Xin chân thành cảm ơn
BAN BIÊN TẬP
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM

3
Trước năm 1962, chuẩn bò thành lập trường.
Trường phổ thông cấp 2 nông nghiệp Cần Kiệm
ra đời trước tình hình phát triển giáo dục trên đòa
bàn xã ngày càng cao. Năm học 1961-1962 trường
cấp I Cần kiệm đã có 2 lớp 4, học sinh muốn học
lên cấp II ngày càng nhiều. Trong khu vực đã có
trường phổ thông cấp II xã Hạ Bằng, song điều kiện
CSVC chưa có khả năng phát triển thêm lớp 5.
Đứng trước tình hình đó năm 1962 Ty Giáo dục Sơn
Tây có chủ trương, Huyện uỷ và Uỷ ban hành chính
huyện Thạch Thất nhất trí cho xã Cần Kiệm mở
trường phổ thông cấp 2 nông nghiệp. Với ý thức và
trách nhiệm Ban chi uỷ, Uỷ ban hành chính xã đã
lấy khu đất đình làng Phú Đa làm điểm trường. Xã
cử ông Kiều Văn Bảng, chủ tòch UBHC trực tiếp phụ
trách, từ tháng 5 đến hết tháng 7 năm 1962, chỉ sau
ba tháng, 3 phòng học đã xây dựng xong và có bàn
ghế giáo viên và học sinh, đủ cho 3 lớp học. Năm
học đầu tiên trường không chỉ tuyển chọn học sinh
trong xã mà còn cả học sinh của các xã Hạ Bằng,
Tân Xã, Đồng Trúc, Bình Yên, Thạch Xá, Bình Phú,
Phùng Xá.
Trường Trung học cơ sở Cần Kiệm được thành
lập năm 1962 với tên gọi đầu tiên là trường phổ
thông cấp 2 nông nghiệp Cần Kiệm, trường được
đóng trên một xã nông nghiệp thuần nông, nơi có
giàu truyền thống cách mạng. Gần 50 năm trôi qua,
một dấu ấn dài đã tạo nên sự vững chãi cho thầy
và trò, để cho hôm nay các thế hệ học sinh thế kỷ

21 chấp nối thêm sức mạnh và ngày càng tự hào
về ngôi trường của mình.
Năm học 1962 – 1963 đến 1964 -1965
Ba năm học đầu trường được mang tên trường
phổ thông cấp II nông nghiệp Cần Kiệm. Trường có
2 lớp 5 với 90 em từ học sinh của 2 lớp 4 trường
cấp I chuyển lên cộng với 1 lớp sáu 52 học sinh của
Trường phổ thông cấp II xã Hạ Bằng chuyển ra.
Ngoài ông Kiều Văn Bảng hiệu trưởng, thầy Trần
Huy Thành hiệu phó còn có các thầy giáo trực tiếp
giảng dạy là: thầy Vương Văn Cầu, thầy Vương Văn
Đúng, thầy Nguyễn Công Thích, thầy Vũ Văn Tuấn,
thầy Kiều Thành.
Năm học 1963- 1964 số lớp học tăng lên: có hai
lớp 5, hai lớp 6 và một lớp 7, nhà trường được tăng
thêm 5 thầy, cô giáo đó là: Thầy Lê Thức, thầy Trần
Đình Thuần, thầy Nguyễn Văn Sử, thầy Cấn Hữu
Năm
4
XÂY DỰNG
VÀ TRƯỞNG THÀNH
CỦA TRƯỜNG THCS CẦN KIỆM 1962 - 2011
TẠ VĂN NINH
Bí thư chi bộ – Hiệu trưởng
Bảy, Lê Hữu áp. Phòng học và phòng làm việc
cũng được thầy và trò cùng xã làm thêm.
Năm học 1964- 1965 do điều động công tác, xã
cử ông Nguyễn Danh Phung phụ trách tổ chức
Đảng uỷ xã thay ông Kiều Văn Bảng làm Hiệu
trưởng nhà trường.

Bên cạnh ông Hiệu trưởng có thầy Trần Huy
Thành làm hiệu phó trực tiếp quản lý chuyên môn,
điều hành mọi hoạt động của nhà trường.
Từ đây Cần Kiệm có một ngôi trường mới, đó là
điểm để tự hào, con em đòa phương có nơi học tập,
giáo dục và rèn luyện dưới mái trường của quê
hương mà không phải đi xa, một không khí phấn
khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính
quyền đòa phương về sự nghiệp giáo dục cho con em
nhân dân trong xã mà trước đó không thể có được.
Từ năm học 1965 – 1966 đến 1975 – 1976
Chiến tranh phá hoại Miền Bắc
Sau 3 năm thành lập, đến năm học 1965-
1966 trường được đổi tên thành trường phổ thông
cấp II Cần Kiệm, do thầy Trần Huy Thành làm hiệu
trưởng.
Bò thất bại trong việc thực hiện chủ nghóa Thực
dân kiểu mới ở Miền Nam, giặc Mỹ gây chiến tranh
phá hoại ác liệt ra Miền Bắc. Trước tình hình đó
tháng 3/ 1965 Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ
cấp bách ở Miền Bắc là: kòp thời chuyển hướng
cách mạng từ thời bình sang thời chiến. Trên đòa
bàn huyện tháng 3 năm 1965 máy bay Mỹ bắn phá
xuống các xã Phú Kim, Dò Nậu, Cần Kiệm.
Đáp ứng nhiệm vụ đó, nhà trường đã xây
dựng các phương án phòng tránh sự bắn phá
của giặc Mỹ cho từng đòa điểm, từng lớp học,
chuẩn bò đầy đủ hầm trú ẩn, hào thoát hiểm; các
phương án trường đề ra được tập duyệt cho giáo
viên và học sinh và giao trách nhiệm cụ thể cho

giáo viên chủ nhiệm lớp phòng trách khi có máy
bay đòch bắn phá.
Từ năm 1966 đến năm 1972, các cơ quan Trung
ương sơ tán về Cần Kiệm, bên cạnh những công
việc của xã, nhà trường cũng chủ động tổ chức cho
các em học sinh về sơ tán yên tâm đến lớp. Lúc đó
số học sinh cấp II sơ tán lên tới gần 100 em, nhưng
nhà trường vẫn bảo đảm đủ phòng học, bàn ghế,
đồ dùng học tập cho các em.
Học sinh sơ tán về đòa phương đã được chính
quyền, nhân dân, nhà trường coi như người thân
trong gia đình, nên sớm thích ứng với môi trường mới.
Trong bối cảnh chiến tranh phá hoại của giặc
Mỹ đang diễn ra ác liệt, Hồ Chủ Tòch căn dặn:
“Thầy và trò phải luôn luôn nêu cao tinh thần yêu
Tổ quốc, yêu Chủ nghóa xã hôò, tăng cường tình
cảm cách mạng với công, nông, tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp cách mạng”… “ Dù khó khăn
gian khổ đến đâu, cũng phải tiếp tục thi đua dạy
thật tốt và học thật tốt”.
Chiến tranh không làm giảm số học sinh đến
lớp: Năm học 1965- 1966 mới chỉ có 6 lớp với gần
300 học sinh, đến năm học 1973- 1974 đã lên tới
11 lớp vối gần 500 học sinh.
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, phong trào thi đua
“dạy tốt- học tốt” trong nhà trường ngày càng được
đẳy mạnh. Mặc dù thời gian học tập gặp nhiều khó
khăn nhưng các thầy cô giáo bộ môn ai nấy đều
Năm
1962 - 2011

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
5
hăng hái đăng ký thi đua “Nâng cao hiệu suất giờ
lên lớp ”, đăng ký giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ
nhiệm giỏi, trường đăng ký xây dựng đơn vò Tiên
tiến. Kết quả xếp loại giáo viên cuối năm có tới 30%
đạt lao động Tiên tiến, một số thầy giáo đạt danh
hiệu giáo viên Tiên tiến liên tục 5 năm liền, được
UBHC tỉnh Hà Tây cấp bằng khen, như thầy giáo
Trần Huy Thành, thầy Cấn Anh Sùng, có thầy đã
đạt danh hiệu Tiên tiến 13 năm liền như thầy
Khương Duy Anh, trong đó có 2 năm liền 1974-
1976 đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua.
Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp trong những
năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước đều đạt cao,
thi tốt nghiệp đạt 75% trở lên, có năm tốt nghiệp
đạt 100%. Có nhiều học sinh đạt dạnh hiệu giỏi cấp
huyện và cấp tỉnh như Lê Văn Điệp học sinh giỏi
văn, Kiều Văn Quý học sinh giỏi toán cấp huyện,
em Trần Thò Dũng và Mai Thò Huấn là học sinh giỏi
văn cấp tỉnh được vào đội tuyển học sinh giỏi toàn
Miền Bắc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thanh
niên lên đường nhập ngũ và chi viện cho Miền
Nam. Trong số đó ngành giáo dục có một bộ phận
giáo viên lên đường nhập ngũ, với trường phổ
thông cấp II Cần Kiệm từ 1965 đến 1974 có các
thầy Lê Hữu áp, thầy Vương Văn Đúng, thầy Cấn
Hữu Bảy, thầy Tạ Văn Vở, thầy Kiều Cao Lâm. Số
giáo viên chi viện cho công tác giáo dục Miền Nam

có: thầy Nguyễn Viết Lợi, thầy Nguyễn Văn Thi; cô
Chu Thò Tứ.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, trường phải thực
hiện hai nhiệm vụ: vừa phải chi viện giáo viên cho
chiến trường Miền Nam vừa phải bảo đảm đủ giáo
viên cho số lớp, số học sinh tăng hàng năm và thi
đua dạy tốt- học tốt theo lời Bác Hồ dạy.
Từ năm học 1976 – 1977 đến 1988 -1989.
Ngày 30- 4- 1975, Miền Nam hoàn toàn giải
phóng, Tổ quốc thống nhất, cả nước cùng đi lên
Chủ nghóa xã hội. Năm học 1977 - 1978 Ty Giáo
dục Hà Sơn Bình chỉ đạo các Trường phổ thông cấp
I và Trường phổ thông cấp II trong xã sáp nhập
thành Trường phổ thông cơ sở.
Năm học đầu tiên sáp nhập 1977 – 1978 thầy
Khương Duy Anh làm hiệu trưởng các phó hiệu
trưởng gồm: Thầy Nguyễn Tường Đôn; Thầy
Nguyễn Văn Khi; Thầy Tạ Khắc Quành. Nhà trường
có ba khu: Khu Núi Nứa làm trụ sở chính của trường
và 2 điểm trường Phú Đa và Bãi Bằng.
Trường phổ thông cơ sở của xã hình thành có
thuận lợi cơ bản là kế hoạch phát triển giáo dục
thống nhất trên đòa bàn toàn xã. Có cơ sở vật chất
chung trong lúc điều kiện kinh tế đòa phương còn
nhiều khó khăn, sẽ tiện lợi phòng học cả 2 cấp. Sự
quản lý chung một Ban giám hiệu dễ giúp nhau trao
đổi học hỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao
chất lượng giảng dạy và học tập trong nhà trường.
Năm
1962 - 2011

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
6
Học sinh có môi trường hoạt động sôi động hơn, sự
giao lưu giữa các lớp với nhau thuận lợi khi sinh
hoạt tập thể toàn trường, làm cho tính cộng đồng
của học sinh được nâng cao.
Tuy cùng một trường, song các lớp học vẫn bò
phân tán vì đòa bàn xã rộng, vì vậy trong quản lý
giáo viên, học sinh có lúc gặp khó khăn. Quy mô
trường lớn, có năm học lên đến 38 lớp, trên 1 200
học sinh, kinh phí tài chính không thay đổi, nên
nhiều việc mới nảy sinh không được đầu tư kòp thời,
phần nào có ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục,
giảng dạy và học tập.
Tháng 8 năm 1979, thầy Kiều Sơn Hạp làm hiệu
trưởng, toàn hội đồng có 67 thầy, cô giáo, tháng 9
năm 1980 thầy Nghiêm Xuân Trù về làm hiệu phó
đến tháng 4 năm 1985 thầy Kiều Sơn Hạp nghỉ hưu,
thầy Tạ Văn Ninh về làm hiệu trưởng Trường phổ
thông cơ sở xã Cần Kiệm, thầy Kiều Văn Khản
được bổ nhiệm làm hiệu phó phụ trách cấp I.
Do có những khó khăn trong quá trình hoạt động
của Trường phổ thông cơ sở hai cấp. Tháng 9 năm
1985 Uỷ ban nhân dân huyện Thạch Thất có quyết
đònh tách Trường phổ thông cơ sở Cần Kiệm thành
hai trường: Trường phổ thông cơ sở cấp I xã Cần
Kiệm và Trường phổ thông cơ sở cấp II xã Cần
Kiệm. Liền theo đó quyết đònh thầy Tạ Văn Ninh
nguyên hiệu trưởng Trường PTCS xã Cần Kiệm
làm hiệu trưởng Trường PTCS cấp II và thầy Kiều

Văn Khản làm hiệu trưởng Trường PHCS cấp I.
Do trận mưa vào cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm
1980 các phòng học khu Núi Nứa xuống cấp
nghiêm trọng. Trước tình hình đó nếu không tu sửa
trường lớp, xây dựng thêm cơ sở vật chất thì học
sinh không đủ phòng học.
Nhận rõ điều đó, UBND xã, đứng đầu là đồng
chí chủ tòch Nguyễn Văn Dậu đã nhanh chóng triển
khai đầu tư, xây dựng, đầu tháng 12 năm 1980 đến
hết tháng 3 năm 1981 chỉ sau gần 4 tháng đã sửa
3 phòng học cũ và xây thêm 6 phòng học mới cùng
các phòng khu nội trú của giáo viên một cách chắc
chắn. Kinh phí do đòa phương lo và cùng một phần
đóng góp của cha mẹ học sinh.
Từ năm học 1989 – 1990 đến khi trường đạt
chuẩn quốc gia năm 2010
Thực hiện chủ trương của Đảng, phát triển giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều
kiện phát huy nguồn lực con người. Tháng 3 năm
1987 Đại hội Đảng bộ xã Cần Kiệm lần thứ 22 đã
chỉ rõ muốn phát triển giáo dục một cách vững
chắc, trước hết phải ổn đònh điểm trường, lớp học,
phải tăng cường đầu tư CSVC là nhu cầu cấp thiết,
đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục. Ngay sau
Đại hội, năm 1988 UBND xã đã có kế hoạch
chuyển trường phổ thông cơ sở xuống đòa điểm khu
chùa Làng, thôn Phú Đa, đồng thời đẩy mạnh các
hoạt động trong các nhà trường, đẩy mạnh công

tác xã hội hoá giáo dục, nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện”.
Mặc dù kinh tế xã gặp nhiều khó khăn, sản xuất
kinh doanh của HTX nông nghiệp thu nhập thấp,
đời sống trong nhân dân eo hẹp, song với quyết
tâm của Đảng uỷ, Chính quyền xã, đòa phương đã
nhanh chóng triển khai đầu tư CSVC cho giáo dục.
Một mặt xin kinh phí của cấp trên, mặt khác huy
động nguồn kinh phí ở đòa phương và sự đóng góp
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
7
của nhân dân. Chỉ trong 2 năm
xây dựng khu trường mới rộng
trên 8000 m2 đã có 8 phòng
học kiên cố 2 tầng hoàn thành.
Tháng 3 năm 1990 trường
được xã giao về nơi mới,
nhường lại điểm trường Núi Nứa
và toàn bộ CSVC cho trường
phổ thông cơ sở cấp I sử dụng.
Năm học 1995- 1996 trường
đổi tên thành Trường Trung học
cơ sở, trường có 14 lớp, một lần
nữa đứng trước tình hình số lớp
học ngày một tăng nhanh, nhu
cầu phải có thêm phòng học và
phòng làm việc. Trước yêu cầu
đó năm 1995 chính quyền lại tiếp

tục xây dựng, trường THCS thêm
2 phòng làm việc với tổng kinh
phí trên một trăm triệu đồng.
Năm 2005 trường THCS
được xây dựng nhà hiệu bộ hai
tầng tổng diện tích trên 400 m2,
Năm 2006 đòa phương xây tiếp
tường bao và cổng trường tổng
kinh phí trên ba trăm triệu đồng.
Đầu năm 2007 UBND tỉnh Hà Tây đầu tư cho
trường THCS Cần Kiệm xây thêm ba phòng học bộ
môn.
Tháng 12 năm 2009 UBND thành phố Hà Nội
cấp 2,5 tỷ đồng để xây 8 phòng học kiên cố 2 tầng
cho trường THCS Cần Kiệm và đưa vào sử dụng
quý I năm 2010.
Hơn 10 năm trở lại đây, nhà trường đã được xây
dựng nhà hiệu bộ gồm phòng họp Hội đồng sư
phạm, phòng truyền thống, phòng hiệu trưởng,
phòng phó hiệu trưởng, phòng tổ chuyên môn,
phòng y tế, phòng làm việc của tài vụ, phòng làm
việc của công đoàn, phòng đoàn TN- đội TN; phòng
học các bộ môn Vật lý, Hoá học, Sinh học, phòng
học đa năng, phòng thư viện học sinh và giáo viên,
phòng thiết bò đồ dùng dạy học; nhà giáo dục thể
chất, tường bao quanh trường, hệ thống nước sạch,
hệ thống vệ sinh và thoát nước cung nhiều hạng
mục công trình khác.
Có thêm điều kiện CSVC, trang thết bò giảng dạy
mới, đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường

đã không ngừng phát huy những thuận lợi, thường
xuyên học tập, trao dồi kiến thức, cập nhật thông tin,
tiếp thu và rèn luyện kỹ năng sử dụng đồ dùng, ứng
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
8
dụng các tiến bộ kỹ thuật để đưa vào quản lý, đổi
mới phương pháp giảng dạy và làm việc.
Song song với việc đầu tư về CSVC, thầy và trò
nhà trường đã không ngừng phấn đấu vừa bảo đảm
số lượng, vừa nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện để hoàn thành công tác phổ cập giáo dục
THCS vào năm 1997 cùng các trường Đại Đồng,
Thạch Hoà, Liên Quan, Hương Ngải, thuộc tốp đầu
về trước thời gian của huyện Thạch Thất.
Sau khi đã hoàn thành công tác phổ cập giáo
dục THCS chi bộ đã nhận ra ngay đường hướng
phát triển của nhà trường là: “Muốn thực hiện tốt
công tác phổ cập giáo
dục THCS một cách
bền vững, tiến tới phổ
cập Bậc trung học toàn
xã với mục tiêu góp
phần nâng cao dân trí
thì phải kết hợp với
nhiệm vụ nâng cao
chất lượng đội ngũ,
chất lượng giáo dục
toàn diện”. Nhận thức

rõ vấn đề đó, những
năm đầu của thế kỷ 21
nhà trường đã tập trung
bồi dưỡng đội ngũ cả
về chính trò, ý thức tổ
chức lẫn chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm.
Chính vì vậy đội ngũ
cán bộ, giáo viên, nhân
viên ngày càng được
trưởng thành, tính từ
ngày trường mới thành
lập, các thầy giáo chỉ
có trình độ 7+2 và 10+1
đến nay đã có 39 cán
bộ, giáo viên, nhân
viên có trình độ chuẩn và trên chuẩn đào tạo: trong
đó trình độ Đại học có 24 đồng chí, Cao đẳng 14
đồng chí, trung cấp chỉ còn 1 đồng chí. Từ ngày
thành lập đến nay đã có 163 lượt thầy cô giáo từ
khắp các đòa phương khác từng về đây giảng dạy
và công tác. Các thế hệ thầy, cô giáo luôn gắn bó
với trường lớp, đã chia sẻ những buồn vui, vượt qua
khó khăn để vươn lên, các thầy cô đã để lại trong
tâm trí đồng nghiệp, học sinh và nhân dân lòng tin
yêu và kính trọng về tính tận t, khiêm tốn, say
sưa với các em học sinh thân yêu. Tiêu biểu là các
thầy cô: Nhà giáo ưu tú- Trần Huy Thành, thầy
Vương Văn Cầu, thầy Vương Văn Đúng, thầy
Năm

1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
9
Nguyễn Công Thích, thầy Kiều Thành, thầy Lê
Thức, cô Nguyễn Thò Tường, cô Nguyễn Thò Hiểu,
thầy Nguyền Xuân Hàm, Nhà giáo ưu tú- Cấn Anh
Sùng, thầy Nguyễn Văn Thứ, cô Nguyễn Thò Tứ,
thầy Khương Duy Anh, thầy Nguyễn Tường Đôn, cô
Đinh Mai Hiên, cô Nguyễn Thò Bích Diệp, thầy
Nghiêm Xuân Trù, thầy Nguyễn Tích Đức, thầy
Nguyễn Văn Nguyên, cô Nguyễn Thò Đào, cô
Nguyễn Thò Ngọc Hồi, cô Nguyễn Thò Mỹ Trang, cô
Nguyễn Thò Hồng, cô Nguyễn Thò Trà, cô Kiều Thò
Sâm, cô Kiều Thò Quý, cô Kiều Thò Tính, cô Nguyễn
Thò Oanh …
Trong gần 50 năm qua, được sự chăm lo dìu dắt
của nhiều thế hệ thầy, cô giáo, nhà trường đã đào
tạo được trên 5 000 học sinh tốt nghiệp THCS ra
trường. Trong đó có hơn 440 học sinh có trình độ
Đại học đang công tác trên các lónh vực kinh tế, quốc
phòng, văn hoá, xã hội ở khắp mọi miền đất nước.
Trong lónh vực an ninh, quốc phòng nhiều người đã
là cán bộ trung, cao cấp, điển hình như: Thượng tá
Kiều Văn Chỉ sinh năm 1954, Đại tá Kiều Văn Dũng
sinh năm 1955 hiện là Phó tham mưu trưởng Sư
đoàn không quân 370, Đại tá Đoàn Tư Hoan sinh
năm 1965 là cán bộ Cục tuyên huấn Tổng cục chính
trò Quân đội nhân dân Việt Nam; trong cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm có gần 100 người đã
anh dũng hy sinh như Kiều Văn Dụ, Kiều Văn Quý,

Kiều Văn Khoa …. Trong lónh vực kinh tế, văn hoá,
giáo dục có hơn 100 học sinh của trường nay là giáo
viên, giảng viên các trường phổ thông, chuyên
nghiệp dạy nghề, cao đẳng, đại học, học viện. Trong
đó nhiều người là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng vv…
nhiều người có trình độ Thạc só, Tiến só điển hình
như: Tiến só kinh tế- đại tá Cấn Văn Lực sinh năm
1957 chủ nhiệm bộ môn kinh tế chính trò Học viện
lục quân, Tiến só kỹ thuật tự động hoá- Trung tá
Huỳnh Văn Đông sinh năm 1973 hiện là cán bộ văn
phòng Bộ quốc phòng…nhiều người là Giám đốc
công ty Cử nhân kinh tế- Trung tá Tạ Văn Trọng sinh
năm 1971, là Giám đốc nhà máy in Bộ tổng tham
mưu Quân đội nhân dân Việt Nam; Cử nhân- Nhà
báo Kiều Lan- Trưởng đài phát thanh huyện Thạch
Thất; Cử nhân- Giám đốc Ngân hàng huyện Thạch
Thất- Đỗ Văn Thả; Cử nhân kinh tế- Giám đốc công
ty Tân Tiến- Kiều Khắc Nhò; Cử nhân kinh tế- Giám
đốc công ty Phú Đức- Kiều Văn Sang…
Một nguồn lực đông đảo có vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế xã hội đòa phương, đó là
các thế hệ học sinh tốt nghiệp ra trường, ở lại đòa
phương hoặc sau khi hoàn thành nghóa vụ quân sự
lại trở về sản xuất, xây dựng làng quê văn minh
giầu đẹp. Nhiều người được Đảng, Nhà nước và
nhân dân tín nhiệm cử giữ các chức vụ quản lý,
lãnh đạo chủ chốt ở đòa phương trong mấy thập kỷ
qua. Có nhiều người dám nghó, dám làm, luôn năng
động sáng tạo, lập ra nhiều cơ sở sản xuất, tạo việc
làm cho nhiều lao động tại xã, góp phần đổi mới bộ

mặt quê hương.
Có được kết quả đó, trước hết phải nói đến vai trò
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Chính quyền đòa phương;
sự quan tâm của các cấp, các ngành; sự liên kết giáo
dục trong và ngoài nhà trường, công sức đóng góp
của cha mẹ học sinh cùng sự nỗ lực học tập của học
sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường …
Và cũng từ năm đó, gần 50 năm trường đã được
44 lượt tỉnh, thành phố, UBND huyện và ngành
Giáo dục & Đào tạo tặng giấy khen công nhận
trường Tiên tiến, trường đạt danh hiệu 10 năm xây
dựng đơn vò, trường học văn hoá năm 2000 - 2010,
tổ chuyên môn Lao động giỏi, chi bộ xuất sắc về
công tác xây dựng Đảng; chi bộ 10 năm liền đạt
trong sạch vững mạnh; công đoàn cơ sở vững
mạnh; Chi đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
vững mạnh và Liên đội Thiếu niên tiền phong Hồ
Chí Minh vững mạnh.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
10
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
11
Năm học
Số
lớp
Số

HS
Tỷ lệ % Hạnh kiểm Tỷ lệ % Học lực
Tỷ lệ %
TN
HSG
H,TP
Tốt Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu
1962- 1963 3 150 60,5 39,5 0 0 5,5 45,0 44,5 5,0
52/52
=100
1992- 1993 9 364 42,0 47,0 9,4 0 2,8 30,5 63,1 3,6
67/67
=100
1995- 1996 14 611 55,8 42,6 1,6 0 5,4 41,8 50,7 2,0
91/93
=97,8
12
1999-2000 16 656 38,4 51,3 10,2 0 4,0 35,5 49,8 10,7
161/162
=99,5
16
2004- 2005 16 674 63,8 34,4 1,8 0 12,8 42,0 43,0 2,2
157/157
=100
18
2007-2008 16 586 62,5 33,6 3,9 0 14,3 36,4 40,8 8,4
158/158
=100
22
2009-2010 14 480 72,3 24,2 3,2 0 16,7 44,1 34,7 4,5

120/122
=97,8
26
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Cuối tháng 12 năm 2010 Uỷ ban nhân dân thành
phố Hà Nội đã có Quyết đònh số: 6560 / QĐ- UBND
công nhận trường THCS Cần Kiệm đạt chuẩn Quốc
gia
Ôn lại những kỷ niệm xưa, chúng ta càng tự hào
về những người thầy giáo, cô giáo và những lớp học
sinh của nhiều thế hệ đã trưởng thành. Thầy và trò
trường Trung học cơ sở Cần Kiệm luôn bày tỏ lòng
kính yêu, quý trọng và nhớ ơn công lao dạy dỗ của
các thầy cô. Chính các thầy, các cô và các thế hệ
học sinh trước đây đã vượt qua muôn vàn khó khăn,
gây dựng nền móng cho ngày vui hôm nay.Để phát
huy thành tích đạt được gần 50 năm qua và để niềm
vui giữ mãi trong lòng mọi người, thầy và trò trường
Trung học cơ sở Cần Kiệm nguyện không ngừng
phấn đấu vươn lên, quyết tâm thực hiện tốt những
phần việc các thầy, cô giáo và các thế hệ học sinh
trước để lại, lập nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi
mới giáo dục. Tích cực góp phần xây dựng làng quê
văn hoá, văn minh, giầu đẹp, xứng đáng với truyền
thống hiếu học của nhân dân; truyền thống anh
hùng cách mạng của xã nhà.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM

12
Đoàn Thành phố về kiểm tra công
nhận trường chuẩn Quốc gia
C
ần Kiệm là một xã nằm ở phía
Tây nam của huyện Thạch Thất
với diện tích tự nhiên là 642 ha,
dân số là 8.659 người. Trong tổng số
1.956 hộ được phân bố đều khắp ở 3 làng
và 6 thôn, nhân dân xã Cần Kiệm đã phát
huy truyền thống yêu nước chống giặc
ngoại xâm, đã có 610 người là con em của
xã lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, với 156 thương bệnh binh, 144 liệt
sỹ, có 9 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Với
những thành tích trong chiến đấu, năm
2002 rất vinh dự và tự hào cho Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân xã Cần Kiệm
được Chủ tòch nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống
Pháp. Trong chiến đấu, lao động sản xuất
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng Chủ nghóa xã hội, Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân xã Cần Kiệm
cũng rất tự hào khi 3 lần được Nhà nước,
Chính phủ tặng huân chương lao động:
Năm 1959 được tặng Huân chương Lao
động hạng ba đã có thành tích trong việc
xóa nạn mù chữ trước thời gian; Năm
Năm

1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
13
XỨNG ĐÁNG
với niềm mong ước
NGUYỄN MINH HỒNG
Huyện uỷ viên, Bí thư Đảng uỷ xã
1971 được Chủ tòch nước tặng Huân chương Lao
động hạng ba đã có thành tích trong công tác trồng
cây phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống; Năm
1981 được Chủ tòch nước tặng Huân chương Lao
động hạng ba cho cán bộ xã viên hợp tác xã nông
nghiệp xã Cần Kiệm, đã có thành tích xuất sắc
trong phong trào trồng cây theo lời kêu gọi của Hồ
Chủ tòch. Rất vinh dự và tự hào cho Đảng bộ, Chính
quyền và nhân xã Cần Kiệm đã được Bác Hồ về
sống và làm việc trong 19 ngày đêm từ ngày 13/
01/ 1947 đến ngày 02/ 02/ 1947 để lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ
giải phóng dân tộc.
Bên cạnh những thành tích trong chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc, trong 25 năm đổi mới đã qua (1986-
2010) Đảng bộ và nhân dân xã Cần Kiệm đã đạt
được nhiều thành tựu đáng phấn khởi trên các lónh
vực: Kinh tế phát triển theo hướng tích cực, văn hóa
xã hội từng bước được cải thiện, đời sống nhân dân
được nâng lên rõ rệt, quốc phòng- an ninh được giữ
vững, công tác xây dựng Đảng được quan tâm.
Trong giai đoạn đổi mới bên cạnh nhiệm vụ phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng

là theo chốt. Đảng bộ xã Cần Kiệm qua 29 lần đại
hội luôn trú trọng và quan tâm xây dựng và đào tạo
nguồn nhân lực- chủ nhân tương lai của xã và đất
nước thể hiện ở sự nghiệp giáo dục từ các bậc Mầm
non, Tiểu học, Trung học cơ sở.
Với sự hỗ trợ của Trung ương, của Thành phố,
của huyện và sự cố gắng vượt qua khó khăn, thử
thách của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân toàn
xã trên mọi mặt: Về nâng cao chất lượng dạy và
học, trình độ đội ngũ thầy giáo cô giáo, cơ sở vật
chất trường lớp được đầu tư…Đến nay trường Tiểu
học đã được công nhận trường chuẩn giai đoạn 1
năm 2005 và trường THCS đã được cấp trên thẩm
đònh và UBND Thành phố Hà Nội quyết đònh công
nhận trường đạt chuẩn quốc gia vào cuối năm
2010. Với kết quả đó là cả một quá trình phấn đấu
đầy khó khăn nhưng cũng rất tự hào của cả Đảng
bộ, Chính quyền và nhân dân xã nhà đối với sự
nghiệp trồng người.
Đối với trường THCS xã Cần Kiệm qua 50 năm
trưởng thành và phát triển (1962-2011) mặc dù thời
gian phát triển chưa dài, song đó cũng là một chặng
đường vẻ vang rất đáng được ghi nhận, quãng thời
gian đó đã chứng kiến biết bao thế hệ thầy và trò
cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách. Từ chỗ
điều kiện phục vụ cho việc dạy và học còn rất đơn
sơ, lớp học phải mượn Đình, nhà dân để học thì đến
nay cơ sở vật chất đó đã được cải thiện rất nhiều,
điều kiện phục vụ dạy và học được quan tâm đầu
tư, nhưng bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào thì thầy

và trò của trường THCS Cần Kiệm đều khắc phục
vượt qua hoàn thành tốt nhiệm vụ. Để đáp ứng cho
công cuộc xây dựng và phát triển, chủ trương xây
dựng trường chuẩn Quốc gia về giáo dục đối với
trường THCS xã Cần Kiệm đã được thể hiện tại Đại
hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII nhiệm kỳ 2005-2010.
Với sự quyết tâm phấn đấu của Đảng bộ, Chính
quyền và nhân dân trong xã, sự tạo điều kiện hỗ
trợ nguồn vốn đầu tư của Trung ương, Thành phố
và của huyện; năm tiêu chuẩn quốc gia xây dựng
trường chuẩn của trường THCS đã hoàn thành và
được UBND thành phố Hà Nội công nhận trường
chuẩn Quốc gia về giáo dục vào tháng 12/ 2010.
Việc được công nhận trường chuẩn Quốc gia đánh
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
14
dấu một mốc rất quan trọng cho trường
THCS Cần Kiệm nói riêng và sự nghiệp
giáo dục của xã nhà nói chung, sẽ hứa
hẹn nhiều thành công cho sự nghiệp
giáo dục xã Cần Kiệm trong thời gian tới.
Trong thời gian tới mục tiêu của sự
nghiệp giáo dục xã Cần Kiệm được Đại
hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XXIX
nhiệm kỳ 2010- 2015 tiếp tục khẳng
đònh: Quan tâm, đầu tư cho sự nghiệp
giáo dục, phấn đấu trường Mầm non đạt
chuẩn Quốc gia, phổ cập bậc Trung học

cho thanh niên đạt trên 80%, nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, vận động
toàn dân tham gia xã hội hóa giáo dục,
đẩy mạnh xây dựng quỹ khuyến học,
khuyến tài ở các làng, các thôn, các
dòng họ; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ dạy và học ở các nhà trường.
Với mục tiêu đó Tôi tin tưởng rằng với sự
tập trung lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ,
Chính quyền, sự đồng lòng ủng hộ của
toàn thể nhân dân, cùng với trường Mầm
non, trường Tiểu học và trường THCS
Cần Kiệm sẽ phát huy truyền thống của
quê hương kiên cường cách mạng trong
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong tương lai sẽ đào tạo nhiều hơn nữa
các thế hệ là con em của xã nhà ngày
càng trưởng thành và phát triển, xứng
đáng với sự mong ước của chủ tòch Hồ
Chí Minh vó đại.
“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây;
vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
15
T
ôi Kiều Văn Bảng nguyên hiệu trưởng Trường phổ
thông cấp II nông ngiệp Cần Kiệm năm học 1962
– 1963, tiền thân của trường THCS Cần Kiệm

ngày nay. Được tin nhà trường chuẩn bò đón nhận chuẩn
quốc gia, đây là niềm vinh dự lớn đối với Đảng bộ và nhân
dân xã Cần Kiệm nói chung, đồng thời cũng là vinh dự lớn
lao đối với trường ta. Tôi cảm nghó mỗi người, mỗi cán bộ dù
ít hay nhiều có công lao đóng góp vào thành quả này, ta phải
lấy làm niềm tự hào và đáng được tự hào từ khi trường ra đời
đến nay đã gần nửa thế kỷ, trải qua thăng trầm của lòch sử,
cán bộ, đảng viên, giáo viên, nhân viên trong nhà trường
phải chiến đấu gian khổ mới có được kết quả như vậy.
Người ta thường nói “Vạn sự khởi đầu nan” đến đây tôi
xin nói vài nét về khi thành lập trường để các đồng chí được
rõ: Năm 1954 Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thoát
khỏi ách thống trò của thực dân Pháp, lúc bấy giờ dân ta trên
90% mũ chữ, từ tình hình thực tế đó Bác Hồ đã ra lời kêu gọi
toàn Đảng, toàn dân tập trung diệt giặc dốt. Thực hiện lời
kêu gọi của Bác, Đảng bộ và nhân dân xã Cần Kiệm đã
quyết tâm phấn đấu xoá nạn mù chữ, đến năm 1958 UBND
và Ty Giáo dục Sơn Tây kiểm tra công nhân xã Cần Kiệm
NHỮNG NGÀY ĐẦU XÂY DỰNG
Thật
gian
nan
KIỀU VĂN BẢNG
Nguyên chủ tòch UBHC xã- Nguyên HT đầu tiên
Trường phổ thông cấp II nông nghiệp Cần Kiệm
đã xoá xong nạn mù chữ với tỷ lệ trên 80% dân
trong độ tuổi biết chữ, đọc thông viết thạo. Được
chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động Hạng
Ba về thành tích xoá nạn mù chữ.
Sau những năm tiếp đó phong trào học tập của

nhân dân lên rất cao, nhất là các em trong độ tuổi
đi học ngày càng đông. Lúc bấy giờ xã ta chỉ có 1
trường Tiểu học, không có trường để các em học
cao hơn, muốn học tiếp, các em phải đi học tận
trường Hạ Bằng, Hữu Bằng, Liên Quan, Hương
Ngải. Từ tình hình thực tế như vậy buộc Đảng bộ,
Chính quyền phải suy nghó về việc học tập của con
em nhân dân trong xã.
Năm 1961 – 1962 tôi đang làm chủ tòch Uỷ ban
hành chính xã, được UBHC huyện Thạch Thất mời
họp và giao nhiệm vụ về xây dựng trường phổ
thông cấp II nông nghiệp, như vậy tôi lại phải kiêm
cả hiệu trưởng của trường. Nhưng có một điều mà
tôi thấy cực kỳ khó khăn là huyện không cấp một
đồng kinh phí nào, ngân sách đòa phương còn rất
nghèo, các cơ sở công cộng khi chiến tranh cũng
đã bò tàn phá hoặc tiêu huỷ gần hết.
Sau hội nghò Chi uỷ xã đã phân tích, rồi đưa ra
chi bộ bàn bạc và quyết tâm đi vào xây dựng, lấy
đất đình Phú Đa làm đòa điểm. Qua phát động và
thảo luận toàn chi bộ rồi họp đến các ban ngành
trong toàn xã, phát động toàn thể nhân dân, được
sự đồng thuận, đồng lòng của mọi người, mọi nhà
việc đóng góp sức người, sức của từ đá, gạch đến
tre gỗ tập trung rất nhanh. Ngoài sức dân trong xã,
UBHC còn phân công ông Đặng Văn Thinh cán bộ
xã, trực tiếp vào vận động xã Tiến Xuân huyện
Lương Sơn giúp đỡ thêm tre, gỗ làm nhà và đóng
bàn ghế học sinh, mặt khác xã còn khai thác nhiều
nguồn khác. Cuối cùng nhiệm vụ trên giao, cùng ý

nguyện của dân cũng đã được đáp ứng, 3 phòng
học, phòng làm việc của trường cũng đã xây xong
vào tháng 8 năm 1962. Tháng 9 năm 1962 ngôi
trường được bàn giao và đưa vào sử dụng và trường
được khai giảng năm học đầu tiên 1962 – 1963.
Hai năm gắn bó với trường phổ thông cấp II
nông nghiệp Cần Kiệm thật là ngắn, nhưng cũng
đã để lại trong tôi bao kỷ niệm khó quyên trong quá
trình công tác của mình, mà sâu đậm nhất là về
công tác tổ chức vận động, xây dựng nền móng cho
trường học góp phần nhỏ trong sự nghiệp giáo dục
của xã nhà, để hôm nay toàn xã đã có hệ thông
giáo dục Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đang
ngày càng phát triển.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
16
T
ôi cũng như các thầy,
các cô giáo trường ta
thủa ấy đã về hưu
tám, chín năm nay, tuổi đời,
đều trên dưới bảy chục, thể
lực kém dần, trí tuệ không còn
như trước, việc đi lại thăm thú
đó đây thường “được” vợ con
“vui vẻ” can ngăn. Song những
đêm khó ngủ, những dòp trở lại
Cần Kiệm với cảnh cũ, người

xưa thì bao kỷ niệm của một
thời quá vãng trong tôi lại ùa
về.
Cho đến tận bây gời tôi vần
nhớ như in những ngày đầu
của năm học 1962 -1963. Khi
đó trường mới được thành lập,
thuộc hệ phổ thông nông
nghiệp, một loại hình rất mới
và mang đặc thù của Việt
Nam. Trường có 3 lớp, thu
nhận các em học sinh lớn tuổi
của 11 xã quanh vùng. Cơ sở
vật chất quá nghèo nàn chỉ
vẻn vẹn có ba phòng cấp bốn,
lại chung cho cả hai trường.
Khối lớp 4 cuối cấp I học buổi
sáng. Khối cấp II học buổi
chiều. Sáu anh em giáo viên
mới về trường đều là người ở
đòa phương khác, gần cũng
bảy, tám cây số, xa thì ngót
hai mươi cây, phương tiện đi lại
rất khó khăn. Hơn nữa, nội quy
kỷ luật của ngành giáo dục lúc
đó rất nghiêm ngặt chặt chẽ:
Giáo viên nào cách trường dù
chỉ hai đến ba cây số cũng
đều phải ở lại nhiệm sở. Họp
hành thường vào ban đêm,

hết giờ chiều thứ bảy mới được
về nhà, sáng thứ hai lại có mặt
sớm. Trước ngày chúng tôi về
đây công tác, anh Kiều Bảng
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
17
Nhớ về
những tấm lòng
thơm thảo
TRẦN HUY THÀNH
Nhà giáo ưu tú, nguyên hiệu trưởng nhà trường
chủ tòch UBHC xã là hiệu
trưởng của trường đã sớm lo
nơi ăn chốn ở cho mọi người.
Tôi và anh Thích ở nhà cụ
Tuẫn, anh Cầu, anh Đúng, anh
Tuấn và anh Kiều Thành ở
nhà thầy giáo Tạ Ngọc Nhuận,
cả hai nhà đều rất gần trường.
Những năm học tiếp theo, lần
lượt có thêm các thầy, cô giáo
mới như anh Bảy, anh Thuần,
anh Sử, anh Áp, cô Loan, cô
Tường… tất cả đều được sắp
xếp ở gia đình nhà cụ Du, bà
Sen thôn Phú Đa, cụ Phụ thôn
Phú Lễ và cụ Tiến thôn Yên
Lạc. Các cụ cũng như các

thành viên trong gia đình đều
coi chúng tôi như người nhà,
tận tình giúp đỡ về mọi mặt,
dành những chỗ tốt nhất cho
các thầy, các cô. Do vậy,
chúng tôi sớm được “an cư”
nên cũng mau “lạc nghiệp”. Với
các bậc phụ huynh cùng bà
con trong xã, nhà trường nói
chung và cán bộ giáo viên nói
riêng cũng nhận được nhiều
tình cảm và việc làm quý báu.
Cụ Quỹ ở xóm Lai Cài, cụ Lý
Hai ở xóm Làng, cụ Lanh ở
xóm Trại, tuy tuổi đã rất cao
nhưng vẫn thường xuyên lui tới
nhà trường động viên thăm hỏi
thầy cô, hoặc chống gậy đến
từng nhà học sinh bỏ học để
vận động các em ra lớp. Anh
Thiên (xin cho tôi vẫn được
xưng hô như vậy để giữ mãi kỷ
niệm đẹp một thời) là sỹ quan
quân đội đã kết nghóa bầu bạn,
anh em với chúng tôi. Lần nào
về anh cũng ra thăm trường,
dành tiền mua cho các em học
sinh từ quả bóng chuyền, cây
vợt, tấm lưới để các em có
thêm điều kiện vui chơi tập

luyện. Có lần tôi bò ốm nặng,
cụ Tuẫn cùng mọi người trong
nhà lo lằng thuốc thang, cơm
cháo tận tình chẳng khác gì
người bà, người mẹ chăm sóc
cháu con. Nghóa cử ấy, làm sao
tôi có thể quên, anh em giáo
viên ai cũng cảm phục tấm
lòng của cụ.
Mặc dầu thời gian đã lùi
xa, những kỷ niệm cũng dần chìm vào theo năm
tháng, song có lẽ không ít thầy cô cùng học sinh
lớp 7 (lớp cuối cấp) cùng nhớ buổi sinh họat
ngoại khoá ngày 22 – 12 – 1966. Thể theo
nguyện vọng và đề xuất của trường, bác Hoàn
(vợ bác Điểm) là một cán bộ kháng chiến, cũng
là phụ huynh học sinh đã kể lại những câu
chuyện diễn ra trong những năm đánh Pháp của
cán bộ, dân quân huyện nhà. Vì là người trong
cuộc lại chứng kiến cảnh nằm hầm, ngủ bụi,
gian khổ hiểm nguy cùng sự hy sinh anh dũng,
bất khuất của đồng chí, đồng bào nên các câu
chuyện của bác thật hấp dẫn và xúc động. Tất
cả các thầy, trò đều im phăng phắc như muốn
nuốt từng lời. Hôm sau, trong giờ tập làm văn,
tôi đã yêu cầu và hướng dẫn các em viết một
bản thu hoạch. Rất vui là hầu hết các em đều
viết được . Nhiều em viết khá hay, tiêu biểu là
bài viết của các em mai Thò Huấn, Trần Thò
Dung, Nguyễn Thò Trà, Hoàng Phương Thuý,

Nguyễn Thò Hồng Nga. Từ cuối năm 1965 cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ trở nên ác liệt.
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và chính
quyền các cấp, nhà trường cấp I, cấp II Cần
Kiệm phải sơ tán ra nhiều điểm kín đáo và có
phương án phòng chánh kòp thời. Được cấp uỷ
chính quyễn xã quan tâm và chỉ đạo sát sao,
cụ thể và quyết liệt, lại được phụ huynh nhiệt
tình hưởng ứng và giúp đỡ nên chỉ trong vòng
một tuần lễ nhà trường đã cơ bản giải quýêt
xong những công việc do phương án đề ra.
Hầu hết phụ huynh, bà con trong xã đã đóng
góp, ủng hộ từng tấm gỗ, cây tre đủ để làm
trên 100 hầm kèo cho học sinh trú ẩn. Gia đình
ông Chắt, gia đình ông Mão ở xóm Thọ Hoàng
đã sẵn sàng cho đòa phương mượn đất, lại tự
chặt bớt một số cây trè, cây ăn quả để lấy chỗ
dựng lán, đào hầm hào phòng chánh bom đạn
giặc có thể chút xuống đầu thầy trò chúng tôi
bất cứ lúc nào. Bây giờ nghó lại, sao thời ấy thật
gian khổ mà lại đẹp và hào hùng đến vậy? Và
sức mạnh nào đã thôi thúc, giục giã chúng tôi,
những thầy giáo, cô giáo cùng lớp lớp học sinh
bất chấp mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu
vươn lên trong phong trào thi đua “ Dạy tốt, học
tốt” theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu. Phải
chăng đó là những tấm lòng thơm thảo, đáng
quý, đáng yêu mà suốt đời tôi nhớ mãi.
Kỷ niệm xưa có rất nhiều, nhưng chúng
tôi không thể ôm đồm trong một trang giấy

mỏng. Tuy vậy, tôi vẫn luôn nghó và nhớ về các
bác, các anh lãnh đạo đòa phương, các thầy, cô
trong cả khối giáo dục xã, về các bậc phụ
huynh cùng bà con xóm làng thân thuộc, về lớp
lớp học sinh với những gương mặt đáng yêu. Tôi
nhớ da diết những câu của ngày hôm qua và
thật vui mừng với hiện thực của hôm nay. Quê
hương ta đổi mới, phát triển quá nhanh về mọi
mặt. Ngành giáo dục Cần Kiệm lớn mạnh không
ngừng, mái trường bây giờ to đẹp, khang trang
và hiện đại quá. Đội ngũ các thầy cô đông đảo,
hùng hậu cả về số lượng và trình độ nghiệp vụ
chuyên môn. Nhiều thế hệ học sinh đã trưởng
thành, là những cử nhân, kỹ sư, thạc só, tiến só
trên nhiều lónh vực đang hàng ngày, hàng giờ
đem tâm hồn, trí tuệ, công sức của mình góp
phần làm giàu cho đất nước, làm đẹp cho quê
hương. Tôi nghó thành quả ấy, sản phẩm ấy là
những nét đáng trân trọng, tự hào. Và để có
được vò thế của nhà trường hôm nay, có rất
nhiều nguyên nhân, mà trong đó vai trò lãnh
đạo của Đảng, tấm lòng và tâm huyết của dân
là những bài học quý báu không chỉ của ngày
qua, của hôm nay mà còn mãi mãi về sau.
Tôi xa trường đến nay đã 43 năm có lẻ. 43
năm trôi đi như dòng Tích giang xuôi về biển cả,
cũng là gần một phần hai thế kỷ sóng nước còn
để lại dư âm với bến bờ. Hôm đòa phương và
nhà trường lưu luyến tiễn chân, tôi vô cùng xúc
động và thầm hứa với lòng mình:

“ Nước trôi lòng suối chẳng trôi,
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.”
Và giờ đây, vạt mây xưa lại một lần nữa bay
về đất cũ để vui cùng cỏ cây, sông nước quê
hương!
Làng Hiệp đêm 28- 2 – 2011
(26 tháng giêng Tân Mão)
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
18
T
ôi sinh ra và lớn lên ở Cần Kiệm, sau khi
học xong sư phạm trung cấp Sơn Tây, về
công tác tại trường phổ thông cấp 2 xã
Hạ Bằng. Từ năm học 1968 – 1969 đến năm học
1973 - 1974 được về quê dạy học, anh Nguyễn
Xuân Hàm là thương binh chống Pháp làm hiệu
trưởng. Về quê hương công tác là một thuận lợi cho
bản thân: ăn ở với gia đình, hiểu truyền thống quê
hương, hiểu học sinh hơn.
Năm học đầu tiên về xã, các bạn đồng nghiệp
phần lớn là còn trẻ, nhiều cô giáo mới ra trường như
cô Kiều Thò Vinh, cô Phí Thò Mậu, cô Khuất Thò
Bình, cô Chu Thò Tứ, nhiều thầy có kinh nghiệm gi-
ảng dạy và là giáo viên lâu năm như thầy Cấn Đức
Thiệu, thầy Đàm Thanh, thầy Cấn Anh Sùng, cô Lê
Thò Hiểu. Sáu năm giảng dạy tại trường phổ thông
cấp 2 Cần Kiệm là thời gian công tác giáo dục xã
nhà nói riêng và công tác giáo dục toàn Miền Bắc

Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh đất nước còn
nhiều khó khăn về đời sống kinh tế và có chiến
tranh, vì vậy đội ngũ giáo viên nhà trường một mặt
phải khắc phục khó khăn về đời sống vật chất mặt
khác làm tốt nhiệm vụ giáo dục học sinh, truyền thụ
một cách tốt nhất và đầy đủ kiến thức cho các em
trong thời chiến.
Thời kỳ này CSVC nhà trường còn nhiều thiếu
thốn, cả trường có 4 phòng học thì 2 phòng lợp giấy
dầu, tường ngăn còn là vách đất, nhiều lớp phải đi
sơ tán học trong các lán nằm sâu dưới đất ở xóm
Thọ Hoàng. Đồ dùng dạy học hầu như không có gì,
cả trường chỉ có 1 tủ đựng hồ sơ; các thầy, cô giáo
phải ở nhờ nhà dân. Tuy nhiên trong Hội đồng giáo
viên đều rất nhiệt tình, ngoài thời gian giảng dạy
chính thức giáo viên còn tự nguyện giảng dạy phụ
đạo học sinh; cả học sinh yếu kém và học sinh khá
giỏi. Học sinh yếu kém phụ đạo để trở thành học
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
19
NIỀM TIN
mãi ở trong tôi
KIỀU CAO CHÍ
Nguyên giáo viên trường PT cấp 2 Cần Kiệm
sinh trung bình và khá, học sinh khá giỏi bồi dưỡng
trở thành học sinh xuất sắc, chính vì vậy học sinh
thi tốt nghiệp hàng năm đều đạt 85% trở lên, có
nhiều em đạt học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh như

em Kiều Văn Quý và em Phạm Thanh đạt học giỏi
toán cấp tỉnh. Về đạo đức học sinh các em đều rất
ngoan, kinh tế gia đình còn thiếu thốn, ăn chưa đủ
no, mặc chưa đủ ấm song nhìn chung các em đều
ham học, tích cực lao động trợ giúp cha mẹ.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 2 nhiều em đã
xung phong lên đường chống Mỹ. Từ năm 1965 đến
1975 cả xã Cần Kiệm có 574 thanh niên nhập ngũ
thì 90% số thanh niên đó là học sinh qua các năm
của nhà trường. Tôi rất xúc động và bùi ngùi khi
nhắc tới tên các em: Tạ Văn Dụ, Tạ Văn Hội, Tạ
Ngọc San (Phú đa); Đỗ Văn Hãng, Kiều Cao Đàm,
Kiều Cao Sâm (Phú Lễ); Kiều Văn Quý, Đỗ Văn
Hộ, Kiều Văn Khánh (Yên lạc)… các em tham gia
đánh giặc và đã anh dũng hy sinh để gìanh độc lập
tự do cho Tổ quốc, các em sống mãi trong lòng
nhân dân Cần Kiệm, trong lòng các thầy cô giáo,
các bạn bè cùng trang lứa
học trò.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng CS Việt nam, sự
nghiệp giáo dục và đào
tạo trên quê hương ta đã
thành công trên mặt trận
tạo nên lớp thanh niên có
kiến thức văn hoá, có tình
yêu đất nước góp phần
xứng đáng vào cuộc đấu
tranh cách mạng giải
phóng Miền Nam thống

nhất Tổ quốc và đạt
những thành tựu quan
trọng trong sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Miền Bắc-
Việt Nam.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới giai đoạn
cả nước phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành
nước công nghiệp phát triển hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hoá đất nước. Hơn lúc nào hết sự
nghiệp giáo dục đào tạo ở xã ta đang có điều kiện
mới như: CSVC trường lớp, trang thiết bò dạy học
được tăng cường hơn trước, trình độ giáo viên từ đội
ngũ cán bộ quản lý đến các thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy đều đạt chuẩn quốc gia- trình độ phần
lớn ở bậc Đại học đó là những điều kiện để nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập
của học sinh. Công tác xã hội hoá giáo dục được
khơi dậy nhiều năm nay, các tổ chức xã hội, các
gia đình và nhiều dòng họ trên đòa bàn xã đã phối
hợp cùng nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục
trên cả ba mặt: phẩm chất đạo đức, trình độ văn
hoá và kỹ năng sống của học sinh. Tôi tin tưởng
rằng các thầy giáo, cô giáo và học sinh trương
THCS Cần Kiệm phát huy truyền thống quê hương
góp phần xứng đáng của mình vào nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới, sánh kòp và hội nhập
được với khu vực và trên thế giới.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM

20
Tập thể sư phạm năm học 1968 – 1969
C
uối tháng 8 năm 1966, tôi được Phòng
Giáo dục huyện Thạch Thất điều về trường
phổ thông cấp II xã Cần Kiệm công tác và
giảng dạy. Trong 4 năm dạy học ở đây đã để lại
trong tâm trí tôi biết bao kỷ niệm về tình cảm đồng
nghiệp, tình cảm thầy trò, tình cảm của phụ huynh
học sinh và nhân dân với thầy, cô giáo. Trong
những tình cảm đẹp đẽ và sâu sắc đó, tôi vẫn nhớ
kỷ niệm về một buổi lao động của các em học sinh
lớp 6A.
Trong những năm 1966 - 1972 đế quốc Mỹ và
lũ tay sai ở Sài Gòn điên cuồng mở rộng chiến
tranh phá hoại ra Miền Bắc. Để bảo toàn tính mạng
thầy và trò, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giáo dục,
Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục có chủ trương phân
tán các lớp học về các khu dân cư. Chủ trương đó
đã được Đảng, Chính quyền đòa phương xã Cần
Kiệm lãnh đạo, Ban giám hiệu nhà trường khẩn
trương triển khai thực hiện. Một số gia đình đã cho
nhà trường mượn đất làm lớp học sơ tán. Trong đó
có gia đình ông Mão ở xóm Thọ Hoàng. Ông tự chặt
một số cây chè, cây ăn quả, giải phóng mặt bằng,
để thầy cô dựng nhà, làm lớp học.
Lớp 6A do tôi chủ nhiệm, được Ban Giám hiệu
phân công lao động chuyển ngôi nhà làm bằng tre
ở trạm bơm xóm Trại về làm lớp học tại vườn chè
nhà ông Mão. Buổi sáng các em đến lớp học, buổi

chiều các em tập trung tại trường để lao động. Hôm
đó trời nắng, đường từ trạm bơm đến xóm Thọ
Hoàng hơn một kilomet. Các em tuy còn nhỏ,
nhưng đã biết cách tháo và chuyển nhà: không tháo
dời, giữ nguyên mái nhà, cả hai mái được buộc đấu
vào nhau hình chữ A. Sau đó, các em lấy cột nhà
chuôn vào làm đòn khiêng. Các em cao hơn thì chui
vào trong, ghé vai khiêng, các em thấp ở ngoài lấy
2 tay đỡ và giữ mái nhà cho cân.Vừa đi, các em
vừa hát hò, tạo tạo nên không khí lao động vui vẻ.
Về đến nơi, các em nhanh chóng tháo hai mái tập
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
21
kỷ niệm sâu sắc
VỀ LỚP 6A
Nhà giáo ưu tú CẤN ANH SÙNG
GV trường PT cấp II từ năm 1966 - 1970
trung chuyển vào vườn nhà ông Mão. Chuyển
xong, trời đã sâm sẩm tối, tuy mệt các em vẫn cười
vui. Những hình ảnh các em lớp trưởng, lớp phó, tổ
trưởng và học sinh lớp 6A như: em Anh, em Hùng,
Mão, Tân, Hà , Chạ, Dè hăng say lao động, khiến
tôi còn nhớ mãi. Ngày hôm sau, phụ huynh, các
thầy cô giáo và các em học sinh đến dựng nhà.
Trong một ngày, ngôi nhà được dựng và lợp xong.
Những ngày tiếp theo các em chuyển bàn ghế từ
trường ở xóm Làng về đây. Rồi đào hào, đắp lũy.
Hàng ngày, các em ở xóm Trại, xóm Hàng Xanh,

xóm Lài Cài, xóm Làng, xóm Chợ Cần đến lớp học
đông đủ. Khó khăn, vất vả, mũ rơm luôn mang bên
mình, các em vẫn chăm chỉ, chuyên cần học tập.
Có những đêm học thêm, với ngọn đèn dầu, các
em luôn chăm chú nghe thầy giảng bài. Khi có kẻng
báo động hoặc tiếng động cơ máy bay các em khẩn
trương theo đường hào sơ tán.
Tôi được phân công dạy môn Văn. Có những
lần, ra bài tập đọc tóm tắt tác phẩm "Sống như Anh
" của nhà văn Trần Đình Vân; "Người Mẹ cầm
súng" của nhà văn Nguyễn Thi. Các em đã tìm đọc
và tóm tắt tác phẩm. Bây giờ, tôi ngồi nghó lại: bấy
giờ mình yêu cầu quá cao, nhưng các em vẫn
quyết tâm làm bài. Thật là đáng khâm phục. Các
em đã thôi thúc tôi phấn đấu Dạy tốt. Có những
lần, trưa đi dạy học ở lớp sơ tán về, hết gạo, phải
lấy cơm nguội đã phơi khô để nấu cháo, ăn với
canh rau sắn. Cánh nam chúng tôi ở tập trung tại
trường. Giường không có, phải đi xin tre của phụ
huynh về để đóng lấy làm khéo tay nhất là giường
của thầy Thứ.
Tôi đã trưởng thành từ trường phổ thông cấp II
xã Cần Kiệm. Các năm học 1968 - 1969, 1969 -
1970 đều có học sinh trong đội tuyển văn lớp 7 (nay
là lớp 9) của huyện Thạch Thất đi dự thi ở tỉnh Hà
Tây. Cũng những năm đó tôi được công nhận là
Giáo viên dạy giỏi cấp Huyện, được đi dự Hội nghò
Tổng kết năm học và thi đua năm học 1969 - 1970
của Ty Giáo dục Hà Tây và được khen thưởng một
bút máy Kim tinh, nắp mạ vàng (phần thưởng bấy

giờ có giá trò rất lớn) và Huy hiệu "Dạy thật tốt".
Tại đây, tôi bắt đầu sưu tầm tranh ảnh, các bài
báo để xây dựng tư liệu phục vụ dạy và học. Sau
này kinh nghiệm được xếp loại A của tỉnh, được báo
cáo tại Hội nghò Tổng kết thi đua năm học 1970 -
1971 của Ty Giáo dục, được Ban chấp hành công
đoàn giáo dục Việt Nam tặng bằng khen và được
đăng trên báo "Người giáo viên nhân dân" (nay là
Báo Giáo dục & Thời đại).
Thời gian thắm thắt trôi đi. Xa mái trường phổ
thông cấp II xã Cần Kiệm đã 40 năm. Mỗi khi nhớ
lại những tháng ngày tháng dạy học ở đây luôn gợi
nhớ lại trong tôi biết bao nhiêu cảm súc:
Nhớ những ngày chiến tranh phá hoại
Thầy cùng trò đắp lũy cho cao
Đội mũ rơm, theo hào sơ tán
Tránh bom rơi, giặc Mỹ ném vào…
Nhớ những tiết say sưa giảng dạy
Các em nghe, quên cả thời gian
Nhớ những lúc cùng vui lửa trại
Thầy cùng trò múa hát trong đêm
Nhớ những khi bát cơm nguội sẻ
Bát canh rau chẳng đủ bữa ăn
Nhớ những trưa, dạy về hết gạo
Lấy cơm khô, nấu cháo sao quên.
Tháng 2- 2011.
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
22

Nhìn đàn hớn hở
Bên mái trường đơn sơ
Soi bóng dòng sông Tích
Bỗng dạt dào ý thơ
16.10.1962
Các em về đâu? Bình Yên hay Đồng Trúc?
Hay Hạ Bằng, đường gấp khúc chữ chi?
Chiều nay trông bóng em về
Mà nghe xao động bộn bề tâm tư
28.11.1962
Hôm nay Tuấn bò điểm hai
Bởi em không chòu học bài đêm qua
Từ nay đừng mả
i chơi xa
Chớ đi ngủ sớm kẻo mà….lại như…
14.3.1963
Trường Cần Kiệm còn đơn sơ lắm
Mà sao quá đỗi thân thương…
Mai dù năm ngả bốn phương
Hẳn còn bao nỗi vấn vương trong lòng
17.4.1964
Năm
1962 - 2011
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CẦN KIỆM
23
Mấy khúc tâm tình
TRẦN HUY THÀNH
Nguyên hiệu trưởng nhà trường
(Chùm thơ 4 câu – Trích nhật ký)

×