Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên và nghệ thuật quân sự của người Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.36 KB, 73 trang )

1
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân Văn
***** ***** ***** ***** *****
Khoa Đông Phơng học

Báo cáo khoa học
Đề tài
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Mông - Nguyên
và nghệ thuật quân sự của ngời Nhật Bản







2
Lời mở đầu
Về mục đích nghiên cứu


Nớc

Nhật Bản thế kỷ XX đợc mọi ngời biết đến nh một
quốc gia phát triển mạnh mẽ, có nền kinh tế khổng lồ đứng hàng thứ hai
trên thế giới. Ngời ta cũng luôn nói rằng một trong những yếu tố quan
trọng nhất làm nên điều thần kỳ ấy chính là con ngời Nhật Bản - những
con ngời cần cù, yêu lao động và đặc biệt luôn mang trong mình tình yêu
quê hơng, đất nớc nồng nàn. Nếu nh trong Cách mạng Minh Trị (1868),
bằng lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ngời Nhật Bản đã quyết tâm canh tân


đất nớc mình từ một nớc nông nghiệp lạc hậu trở thành một quốc gia
hùng cờng sánh vai cùng các cờng quốc Tây phơng. Thì trong những
năm tháng khổ cực sau đại chiến thế giới thứ hai, cũng chính bằng tình yêu
nớc thiết tha ấy, những con ngời xứ sở Phù Tang lại làm việc quên mình
với niềm tin sẽ khôi phục lại nớc Nhật đã kiệt quệ sau chiến tranh. Chính
những con ngời đó, với truyền thống và nghị lực phi thờng đã tạo nên
một nớc Nhật Bản thần kỳ khiến cả thế giới ngày nay phải ngỡng mộ.


Tìm hiểu về truyền thống và con ngời Nhật Bản từ lâu đã là một
trong những hớng u tiên của các nhà xã hội học cũng nh các nhà sử học
Việt Nam và thế giới. Cá nhân tôi, với t cách là một sinh viên chuyên
ngành Nhật Bản học, tôi không có tham vọng trình bày tất cả truyền thống
lâu đời của dân tộc Nhật Bản, mà trong bản báo cáo khoa học này tôi chỉ
cố gắng nêu ra một vài suy nghĩ của mình về Cuộc kháng chiến chống
quân xâm lợc Mông -Nguyên và nghệ thuật quân sự của ngời Nhật
Bản. Qua đó, tôi cũng muốn phần nào giới thiệu với quý vị độc giả, nhất
là với các bạn sinh viên cùng trang lứa, ngời Nhật Bản họ đã yêu nớc
nh thế nào, và tình yêu ấy đã giúp gì cho họ trớc những thử thách ngặt
nghèo của lịch sử.
3
Về nguồn tài liệu
Trớc khi bắt tay vào thực hiện bản báo cáo này, quả thực tôi đã
không lờng trớc hết đợc những khó khăn sẽ gặp phải. Trớc hết là khó
khăn chồng chất trong việc su tầm tài liệu do khả năng ngoại ngữ còn hạn
chế và nguồn tài liệu tiếng Việt không nhiều. Thứ đến là do lần đầu làm
một bản báo cáo khoa học tôi gặp nhiều bỡ ngỡ và rất thiếu kinh nghiệm
nghiên cứu. Cuối cùng đó là sự khó khăn trong việc phân tích tài liệu do có
quá nhiều cách nhìn nhận khác nhau từ các phía ( Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Phơng Tây... ) về cuộc chiến tranh này. Tuy nhiên, tôi cũng

gặp đợc nhiều thuận lợi nh: do đã đợc học tiếng chuyên ngành Nhật
Bản nên tôi có thể hiểu đợc một số tài liệu đơn giản bằng tiếng bản ngữ,
hoặc thông qua các bạn bè ngời Nhật tôi có thêm đợc những tài liệu
mới... Đặc biệt là nhờ sự hớng dẫn tận tình của một tiến sĩ - ngời có
chuyên môn nghiên cứu nhiều năm trong lĩnh vực lịch sử Nhật Bản. Sau
khi tìm hiểu các tài liệu có đợc, tôi nhận thấy nguồn sử liệu tiếng Anh là
phong phú hơn cả. Các học giả phơng Tây, đặc biệt là hai nớc Anh, Mỹ
đã viết rất nhiều sách nghiên cứu giá trị về lịch sử Nhật Bản. Ngay các
công trình nghiên cứu lớn của Nhật Bản, phần nhiều cũng đợc dịch và
xuất bản bằng tiếng Anh. Thêm vào đó, các độc giả Việt Nam trong đó có
cả tôi, xa nay vẫn chỉ quen tiếp xúc với các tài liệu tiếng Việt và tiếng
Anh. Vì lẽ ấy, trong báo cáo này tôi quyết định ghi chép các tên ngời, địa
danh... bằng phiên âm tiếng Anh, và một số, trong chừng mực có thể tôi
cũng cố gắng sử dụng tên phiên âm Hán-Việt để quen thuộc với ngời Việt
Nam chúng ta.
Với trình độ nhận thức của một sinh viên chắc chắn bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đợc sự góp ý quý báu
của thầy cô và các bạn độc giả.
4
những nội dung chính


Chơng I : Tình hình lục địa á Châu thế kỷ XIII và âm mu bành
trớng của đế quốc Mông Cổ.
I. Đế quốc Mông Cổ con đờng hình thành và phát triển.
II. Lục địa á-Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ
Chơng II : Nhật Bản hai lần kháng chiến chống quân xâm lợc Mông
-Nguyên.
I. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản những năm trớc chiến tranh.
II. Hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Mông-Nguyên.

Chơng III : Nghệ thật quân sự của ngời Nhật Bản trong kháng
chiến chống Mông-Nguyên.
I. Chiến thật quân sự của ngời Mông Cổ.
II. Nghệ thuật quân sự của ngời Nhật Bản.
III. So sánh với các dân tộc khác cùng phải chống quân Mông Cổ
Kết luận
Tài liệu tham khảo.







5
Chơng I


Tình hình lục địa á-âu thế kỷ XIII và âm mu
bành trớng của đế quốc Mông-Nguyên


I. Đế quốc Mông Cổ con đờng hình thành và phát triển.
1. Dân tộc Mông Cổ nguồn gốc và những truyền thống cổ xa.
Vùng thảo nguyên rộng lớn phía Bắc Trung Hoa, từ xa xa đã là
địa bàn c trú của những bộ lạc du mục thuộc các tộc ngời Duy Ngô Nhĩ
( Uygur ), Khiết Đan, Nữ Chân hay Mông Cổ... Tới trớc thế kỷ XIII hầu
hết các bộ tộc này đều đã từ bỏ lối sống du mục, học theo các c dân
phơng Nam sống định c làm nông nghiệp. Và theo đó họ thành lập nên
hàng loạt những nhà nớc mới của dân tộc mình, nh nớc Liêu của ngời

Khiết Đan, nớc Kim của ngời Nữ Chân. Tuy nhiên trong số đó còn một
dân tộc vẫn đang chìm trong bóng đêm mông muội của xã hội thị tộc, đó
chính là ngời Mông Cổ. Tình hình ấy đợc ngời ta đem so sánh với hình
ảnh một con mãnh hổ đang ngủ quên, và khi nó thức dậy thì cả thế giới bị
một phen kinh hoàng.
Nh chúng ta đã biết ở phơng Đông, vùng Đông Bắc nớc
Trung Quốc là một trong những cái nôi đầu tiên xuất hiện giống ngời hiện
đại Homosaphien. Giống ngời vợn Bắc Kinh đợc tìm thấy ở đây có niên
đại gần 1,5 triệu năm, chắc hẳn các dân tộc Bắc á trong đó có ngời Mông
Cổ chính là hậu duệ của giống ngời này. Dân tộc Mông Cổ xuất hiện từ
bao giờ không có tài liệu nào ghi chép chính xác, nhng ngay từ thời Xuân
Thu Chiến Quốc ngời Trung Hoa đã phải xây Vạn Lý Trờng Thành vô
cùng tốn kém để phòng ngừa những đội kỵ binh của họ tới cớp phá. Cho
6
tới tận thời trung đại, trong khi những dân tộc láng giềng đã bớc vào thời
phong kiến với tổ chức xã hội tiến bộ thì ngời Mông Cổ còn đang sống du
mục dới hình thức bộ lạc hay liên minh các bộ lạc. Đến lúc này, họ vẫn
chỉ là một dân tộc nhỏ bé cha từng đợc lịch sử thế giới nhắc đến. Các bộ
lạc du mục Mông Cổ sinh sống trên vùng thảo nguyên Bắc á rộng mênh
mông và hoang vắng, dân số của họ cho tới giữa thế kỷ XIII vẫn chỉ
khoảng 2,5 triệu ngời. Lãnh thổ bao gồm phía Bắc tới tận hồ Baikal,
thợng lu sông Yenisey và sông Irtysh, phía Nam qua sa mạc Đại Qua
Bích ( Gobi ) tới gần trờng thành. Họ có nhiều bộ tộc nh Naimans
( Hung Nô ) ở phía Tây, Merkits ở phía Bắc ( Thổ hay Đột Quyết )... đông
nhất là tộc Tartar ( ngời Trung Quốc dịch âm là Thát Đát

) sinh
sống bên bờ sông Onon ở phía Đông. Tài sản chủ yếu của họ là các loài đại
gia súc nh bò, dê, cừu, ngựa... thức ăn chính là thịt và sữa ngựa. Ngựa
đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống của ngời Mông Cổ, họ có tới

hàng triệu con, cứ mùa Đông cỏ chết, họ rời xuống phía Nam, tới mùa hạ
thời tiết ấm áp lại lùa gia súc về phơng Bắc, không ngoa mà có thể nói
rằng ngời Mông Cổ sinh gia và lớn lên trên lng ngựa. Ngày này qua
ngày khác, họ chăn thả gia súc, săn bắt và chiến đấu trên lng ngựa, đó vừa
là sinh kế cũng vừa nh là bản năng của họ. Cũng chính vì xã hội sống du
mục nh vậy ngời Mông Cổ rất trọng sức mạnh, họ coi việc cỡi ngựa bắn
cung là bản năng tự nhiên giống nh việc đứa trẻ tập đi, nếu không biết
những thứ đó thì không thể sinh tồn đợc.
Ngời Mông Cổ du mục theo hình thức Kuryel, có nghĩa là lều
trại. Theo nhà sử học Ba T Rasid ud-din ( 1247-1318 ), mỗi Kuryel có
chừng 1000 lều, có thể đó là một bộ lạc hay một gia tộc. Khi bộ lạc di
chuyển tới đâu, Kuryel đợc đóng tại đó, lều của thủ lĩnh ở chính giữa,
xung quanh là lều của các thành viên trong thị tộc. Cùng với sự tan rã của
7
chế độ công xã thị tộc và tù binh từ các cuộc chiến tranh để tranh giành
đồng cỏ, các gia đình giàu có mở rộng phạm vi ảnh hởng, tầng lớp nô lệ
bắt đầu xuất hiện. Nô lệ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc
chuyển đổi từ phơng thức Kuryel-du mục của công xã sang phơng thức
Ayil-du mục của gia đình các thể. Song, các bộ lạc Mông Cổ không trở
thành một xã hội chiếm hữu nô lệ mà tiến thẳng tới hình thái chế độ phong
kiến. Điều đó hiển nhiên là do ảnh hởng từ các dân tộc định c phong
kiến láng giềng, đặc biệt là ngời Trung Hoa. Dới chế độ công xã, bãi
chăn nuôi và gia súc đều là tài sản chung của bộc tộc. Khi chế độ thi tộc
tan rã, gia súc biến thành tài sản riêng của gia đình cá thể, nhng đồng cỏ
vẫn là tài sản chung. Dần dần, các bãi chăn thả gia súc bị tầng lớp quý tộc
Mông Cổ ( Noyan ) chiếm dụng làm của riêng, những ngời tự do Arat bị
biến thành tầng lớp lệ thuộc, phải cung cấp củi đốt, vắt sữa, chăn gia súc
cho Noyan... Nh vậy, từ cuối thế kỷ XII mầm mống sở hữu phong kiến đã
dần hình thành trong xã hội Mông Cổ.


2. Đế quốc Mông Cổ và dã tâm nô dịch các dân tộc khác.
Thế kỷ XII, ngời Mông Cổ vẫn là bộ tộc lệ thuộc vào nớc Kim
(

) của ngời Nữ Chân. Họ học đợc từ ngời Kim nhiều chiến thuật lợi
hại. Trong khi đó, bản thân ngời Kim lại bị Hán hoá nghiêm trọng, họ
chuyển sang sống định c, làm nghề nông và bắt đầu thích đọc sách, làm
văn thơ giống nh ngời Hán. Chẳng những cái hung bạo, thiện chiến đã
mất đi mà họ còn bị nhiễm nhiều thói xấu của chế độ tập quyền chuyên
chế phơng Nam, nội bộ mất đoàn kết, các tập đoàn phong kiến khuynh
loát lẫn nhau làm vơng triều của họ suy yếu trầm trọng. Suốt 120 năm làm
chủ miền Bắc Trung Hoa, ngời Kim liên tục phải chiến tranh, kình địch
với Nam Tống, tuy dành đợc thắng lợi nhng Kim cũng kiệt quệ lắm rồi.
8
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử, ngời Kim trớc kia lệ thuộc
vào ngời Khiết Đan, vì vua Liêu tàn ác, vô đạo khiến ngời Nữ Chân
không chịu nổi ức hiếp mà vùng lên khởi nghĩa cuối cùng diệt đợc nớc
Liêu. Nay thì ngời Mông Cổ cũng bị nớc Kim đàn áp quá đáng mà qua
thế kỷ XIII đã nổi loạn chống lại Kim. Vua Kim bị thua nhiều trận, phải
nộp vàng bạc, bò, dê, đậu, gạo... để xin nghị hoà, còn phải cắt đất phong
vơng cho Mông Cổ, nhng họ không thèm nhận, tự xng là Đại Mông Cổ
Quốc.
Qua thời Temujin ( Thiết Mộc Chân ), Mông Cổ lại cành mạnh,
đánh đâu thắng đó. Temujin là tộc trởng bộ lạc

Kereyid sinh sống ở lu
vực sông Onon, cha là Yesugey Baartur. Năm 1200, sau một thời gian tập
hợp lực lợng, Temujin quyết định mở cuộc chiến tranh thống nhất các bộ
lạc Mông Cổ. Năm 1206, ông ta đã hàng
phục đợc hầu hết các bộ lạc chủ yếu ở

Mông Cổ, tại đại hội quý tộc Khuriltai tổ
chức bên bờ sông Onon, giai cấp quý tộc
Noyan đã tôn Thiết Mộc Chân lên làm Thành
Cát T Hãn (

Genghis Khan )
nghĩa là Hãn (vua Mông Cổ) mạnh nhất. Một
nhà nớc phong kiến tập quyền quân sự của
ngời Mông Cổ chính thức đợc ra đời. Quan
Tranh: Thành Cát T Hãn hệ phong kiến nảy sinh trong xã hội Mông Cổ
từ cuối thế kỷ XII, nay phát triển mạnh mẽ, hình thành nên một dân tộc
Mông Cổ thống nhất. Kinh tế, văn hoá có điều kiện rất thuận lợi để phát
triển. Nhng ngay sau đó, Thành Cát T Hãn và tập đoàn quý tộc phong
kiến Noyan lại đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông Cổ vừa hình thành lao
vào cuộc chiến tranh xâm lợc và nô dịch các dân tộc khác. Từng đoàn kỵ
9
binh Mông Cổ ồ ạt băng qua những miền thảo nguyên hoang vắng tiến về
phơng Tây và phơng Đông, gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng sự chết chóc.
Lý do nào dẫn tới tham vọng điên cuồng muốn trở thành bá chủ thế giới
của ngời Mông Cổ cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhng chắc chắn
trong đó có vài nguyên nhân sau. Thứ nhất, ngời Mông Cổ là dân tộc du
mục, họ rất coi trọng các đồng cỏ chăn thả gia súc, khi xã hội của mình
phát triển mạnh mẽ nhu cầu về đất chăn nuôi tăng cao làm họ nhĩ tới việc
phải thôn tính những miền đất mới. Thứ hai, ngời Mông Cổ bị ảnh hởng
t tởng đại Hán từ ngời Trung Quốc họ sớm cho mình là một dân tộc
thợng đẳng và nuôi dã tâm nô dịch các dân tộc xung quanh, đặc biệt là
ngời Hán, ngời Kim - những dân tộc trớc kia từng thống trị ngời
Mông Cổ. Thứ ba, rõ ràng dân Mông Cổ bị hấp dẫn bởi thứ văn hoá và lối
sống mới lạ từ những quốc gia lân cận, lấy ví dụ nh Trung Hoa chẳng hạn,
họ vừa muốn học theo lại vừa muốn đè bẹp các quốc gia ấy để chứng tỏ sức

mạnh vợt trội của dân tộc mình. Cuối cùng, không thể không nhắc đến đó
là tham vọng bá chủ thiên hạ của các nhân Thành Cát T Hãn và những
ngời kế tục ông ta. Họ muốn để lại những chiến công, muốn chiến thắng
mọi sự kháng cự dù là nhỏ nhất chỉ để thoả mãn danh vọng bản thân. Ngay
các chiến binh Mông Cổ cũng say sa trong mỗi chiến thắng, ảo tởng về
một sức mạnh bất khả chiến bại. Những t tởng ấy ngày càng thôi thúc
tớng sỹ Mông Cổ lao vào cuộc chiến tranh xâm lợc phi nghĩa. Ngời
Mông Cổ thì ít, đế quốc của họ thì đã rộng lắm rồi mà các đoàn kỵ binh
vẫn tiếp tục hành quân mãi không thôi. Kết quả là Mông Cổ trở thành đế
chế rộng lớn và hùng mạnh nhất trong lịch sử cổ kim, với cơng thổ trải dài
từ biển Thái Bình Dơng tới tận bờ Địa Trung Hải.
II. Lục địa á-Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ
1. Những cuộc tiến công dới thời Thành Cát T Hãn
10
Năm 1211, Thành Cát T Hãn tiến quân vào miền Bắc Trung
Hoa và chiếm đợc Đại Đô

( ngày nay là thành phố Bắc Kinh-
Trung Quốc

) tức Tây Kinh của nhà Kim, cớp nhiều của cải và tù binh.
Kim lại xin hoà, nộp vàng, lụa, phụ nữ... và dâng một công chúa cho
Thành Cát T Hãn làm thiếp. Mông Cổ chuyển hớng tấn công sang phía
Tây, chiếm vùng Tây Vực của ngời Duy Ngô Nhĩ ( Uygur ) và thẳng tiến
đến những miền đất phơng Tây xa lạ.
Những con đờng Tây tiến của quân Mông Cổ.
Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm đợc phần phía Đông lãnh thổ
của ngời Tuốc ( Turk hay đày đủ là Turkestan ). Năm 1219, họ tiến quân
tới vơng quốc Khwarizm ( ngày nay thuộc lãnh thổ các nớc
Turmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và một phần nớc

Kazakhstan ), tới tháng 2 năm 1220 thì chiếm đợc thành cổ Bukhara, dân
chúng bị tàn sát rất dã man, còn toà thành bị họ thiêu trụi. Quân Mông Cổ
tiếp tục thẳng tiến về hớng kinh đô Urgenc của vơng quốc Khwarizm,
11
trên đờng đi họ tàn phá không thơng tiếc Samarkhand-một thành phố
lớn ở miền trung Uzbekistan. Toà thành lộng lẫy với những ngôi đền Hồi
giáo chỉ còn là một đống tro tàn hoang phế. Nhân dân thành Urgenc chiến
đấu rất ngoan cờng chống lại đội quân Mông Cổ thiện chiến dới sự chỉ
huy của các con trai Thành Cát T Hãn đều là những dũng tớng, nh
Ogodey ( Oa Khoát Đài

), Tragatai ( Sát Hợp Đài

),
Jotri (

). Tuy nhiên họ cũng chỉ cầm cự đợc 5 tháng, thành Urgenc
thất thủ tháng 4 năm 1221. Sau khi tàn sát c dân và trng tập thợ thủ
công, bọn chiến thắng cuồng bạo đã phá đê sông Amu-daria ( dòng sông
lớn nhất Trung á chảy từ Đông sang Tây đổ vào biển Aral ) cho nớc tràn
vào nhấn chìm cả toà thành, không một ai sống sót sau thảm hoạ đó. Cùng
năm đó ngày 25 tháng 2, Tolui ( Đà Lôi

) con trai út của Thành Cát
T Hãn hạ thành Mecv của ngời Turk-một thành cổ giàu có nằm trên
con đờng tơ lụa nổi tiếng trong lịch sử. Nhân dân thành Mecv đã
chống trả quyết liệt nên toàn thành bị tàn sát trừ 400 thợ thủ công, sự kiện
này đợc lịch sử Turkmenistan ghi lại nh một trong những trang đen tối
nhất của toàn dân tộc. Ngời ta đã đếm đợc hơn 70 vạn xác chết quanh
ngôi thành. Vơng triều Samanids của nớc Khwarizm-nền văn minh cổ

xa, rực rỡ ở Trung á giờ chỉ còn lại một miền đất hoang vắng. Vua
Khwarizm-Mohammed chạy trốn, rồi chết trong tủi nhục tại một hòn đảo
nhỏ trên biển Caspian ( Lý Hải ). Nghệ thuật, những th viện phong phú,
nền nông nghiệp u việt, cung điện và giáo đờng... tất cả sạch không ,
Mác ( K.Mark ) đã viết nh vậy để nói về cuộc xâm lợc tàn bạo của
ngời Mông Cổ ở Trung á.
Một đạo quân Mông Cổ khác do các tớng Subutai, Jebe chỉ huy
tiến công về hớng Azerbaijan và Georgia. Sau khi chiếm Semakha thuộc
12
Armenia, đội quân viễn chinh vợt dãy Caucasus ( Cáp-ca-dơ ) kéo lên
phơng Bắc, và tràn vào vùng Kharza. Khu vực này và cả miền Đông Hắc
Hải đang ở trong tình trạng chiến loạn liên miên. Đế quốc Đông La Mã
( Byzantium ) đang vào hồi lụi tàn không đủ sức khống chế khu vực, thêm
vào đó các cuộc thập tự chinh ( Crusade ) chống lại ngời Hồi giáo ở Thổ
Nhĩ Kỳ ( Turkish ) và Ai Cập ( Egypt ) của ngời Tây Âu làm chiến tranh
xảy ra liên tục. Các nớc trong khu vực suy yếu trầm trọng, mỗi vùng đất
nhỏ cai quản bởi các lãnh chúa chứ không có một đế chế hùng mạnh thật
sự, chỉ có thế lực của ngời Mameluk ở Ai Cập là có khả năng ngăn chặn
bớc tiến công của quân xâm Mông Cổ. Năm 1223, lần đầu tiên ở chiến
trờng phơng Tây, quân đội Mông Cổ đụng độ với một lực lợng lớn do
các công tớc Kiev và Nga ( Vladimir, Smolen... ) chỉ huy tập hợp lại bởi
lời kêu gọi của thân vơng công quốc Kiev là Mstislav ( Mstislav III of
Kiev ). Liên quân Nga-Kiev gồm 80.000 ngời lập phòng tuyến chặn địch
tại bờ sông Kalka ( nằm trên lãnh thổ nớc Ucraina ngày nay ), nhng
ngay trong lúc nguy cấp đó, các công quốc vẫn bất hoà với nhau và kết
quả họ đã phải chịu thất bại thảm hại. Dòng sông Kalka hung dữ không
ngăn nổi vó ngựa của đội quân xâm lăng thiện chiến, chiến thuyền Nga bị
thiêu trụi, binh sỹ chạy thoát không quá một phần mời, tất cả 6 công tớc
đều bị bắt trong đó có cả Mstislav. Quân Mông Cổ không chỉ dừng lại ở
miền Nam nớc Nga mà tiếp tục tiến quân vào trung lu sông Volga, đây

là vùng lãnh thổ các công quốc khá mạnh của ngời Nga nh Muscovy,
Pskov. Tại đây, họ gặp sức chiến đấu mãnh liệt của những ngời Slav
( Xlavơ ) nh ngời Russian ( Nga ), Volga-Bulgarian, Lituanian ( ngày
nay thuộc lãnh thổ các nớc Belarus, Latvia, Litva ). Bị phục kích và do
quá ít về số lợng, quân Mông Cổ thất bại không thể tiếp tục tấn công và
buộc phải quay về.
13
Mùa thu năm 1225, Thành Cát T Hãn trở về Mông Cổ, sang
năm sau ông ta kéo quân đánh nớc Tây Hạ ( Xi Xia

). Tây Hạ thất
thủ nhanh chóng, kinh đô Ninh Hạ ( Ning Xia ) bị cớp phá và thiêu huỷ.
Nhng đó cũng chính là chiến thắng cuối cùng của Thành Cát T Hãn,
tháng 8 năm 1227, ông ta chết trên đờng viễn chinh ở huyện Thanh Thuỷ
( tỉnh Cam Túc-Trung Quốc ). Cho tới lúc này lãnh thổ của Mông Cổ đã
vô cùng rông lớn, phía Đông giáp với bán đảo Triều Tiên, phía Tây trải dài
tới tận dãy Caucasus. Khi Thành Cát T Hãn chết, lãnh thổ của ông ta
đợc chia cho các con trai, những vùng đất ấy tiếng Mông Cổ gọi là
Ulus nghĩa là đất phong. Theo th tịch Trung Quốc Nguyên triều bí
sử , Thành Cát T Hãn đã chỉ định con trởng Oa Khoát Đài thừa kế ngôi
vị đại Hãn nhng sau khi ông ta qua đời, quyền lực thực tế rơi vào tay con
út là Đà Lôi. Năm 1235, thủ đô của đế quốc Đại Mông Cổ đợc xây dựng
bên bờ sông Orkhon lấy tên là Karakorum, kỷ nguyên mới của dân tộc
Mông Cổ bắt đầu nh thế, thấm đầy máu, nớc mắt và gió bụi chiến tranh.

2. Các Hãn quốc của ngời Mông Cổ đợc thành lập.
Sau khi Thành Cát T Hãn chết, các cuộc viễn chinh vẫn không
ngừng diễn ra. Nạn nhân đầu tiên là nớc Kim ở Bắc Trung Hoa, lần này
ngời Nữ Chân không thể dùng vàng bạc để đổi lấy hoà bình đợc nữa.
Năm 1232, Oa Khoát Đài và Đà Lôi tấn công vào Hà Nam, liên minh với

Nam Tống đánh Kim. Năm 1234, Thái Châu-thành trì cuối cùng của ngời
Kim thất thủ, vua Kim Ai Tông tự sát ở U Lan Hiên, Kim vong. Đã có
nhiều bài học lịch sử cho ngời Trung Hoa về sự tráo trở của kẻ thù, trớc
kia Tống giúp Kim diệt Liêu sau đó bị Kim bội ớc, nhmg họ vẫn không
chịu tỉnh ngộ. Lần này cũng thế, Tống giúp 20.000 quân và 300.000 thạch
lơng cho Mông Cổ vây thành Thái Châu mong đợc trả lại các vùng đất
14
của mình nhng khi diệt Kim xong rồi, quân Thát Đát quay sang diệt
Tống. Năm 1236, Oa Khoát Đài xua quân đánh Tống, cuộc chiến tranh 40
năm xâm lợc Nam Tống chính thức mở màn. Năm 1260, Hốt Tất Liệt-
cháu nội Thành Cát T Hãn lên ngôi đại Hãn tức vua Nguyên Thế Tổ
trong lịch sử Trung Hoa. Năm 1264, ông ta cho rời đô từ Karakorum về
Tây Kinh ( sau đổi tên là Đại Đô
,
ngày nay là thành phố Bắc Kinh ).
Năm 1268, quân Mông Cổ vây thành Tơng Dơng, Tơng Dơng cố thủ
đợc 5 năm thì mất ( 1273 ), thế Tống lúc này rất nguy. Hai năm sau,
Mông Cổ dẫn quân theo đờng Giang Đông tiến xuống miền Nam, thừa
tớng Giả Tự Đạo đốc suất 130.000 binh mã và 2500 chiến thuyền cự địch,
nhng Tống đã suy lắm rồi cha xáp chiến quân đội đã tan vỡ. Quân
Mông Thát khí thế nh cuồng phong chiếm hết thành này sang thành khác,
cuối cùng kinh đô Lâm An bị uy hiếp. Hai dũng tớng Văn Thiên Tờng
và Trơng Thế Kiệt chiêu mộ nghĩa binh chống giặc, nhng vận nhà Tống
đã đến lúc diệt vong không gì có thể thay đổi đợc. Năm 1276, Lâm An
thất thủ, vua Tống là Cung Đế bị bắt. Tể tớng Lục Tú Phu tôn Đoan Tông
rồi Quảng Vơng lên làm vua, chạy ra đảo Nhai Sơn ( Quảng Đông ).
Năm 1279, Văn Thiên Tờng bị bắt, quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn,
Lục Tú Phu biết không thể chống cự đợc nữa bèn cõng vua Tống nhảy
xuống biển tự sát. Sử sách chép lại rằng năm ấy có tới 100.000 ngời
Trung Hoa noi gơng đó cũng tự trầm chứ không chịu hàng giặc, đó có lẽ

là cuộc tự sát tập thể lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy vua quan nhà
Tống nhu nhợc, yếu hèn lúc nào cũng chỉ muốn cầu hoà, nhng nhân dân
lại anh dũng chiến đấu tới cùng. Suốt từ Đông sang Tây, không có dân tộc
nào chống quân Mông Cổ kiên cờng và quả cảm nh ngời Trung Hoa,
vậy nên Tống mất vào tay quân Thát Đát không phải là một điều đáng hổ
thẹn. Will Durant-một sử gia ngời Pháp kể rằng, ở thành Juning fu ,
15
ngời Hán đã cố gắng cầm cự với quân Mông Cổ tới khi tất cả ngời già
cả, tàn tật... bị ngời trong thành ăn thịt hết, còn ngời khoẻ mạnh thì chết
sạch vì chiến tranh, họ tự nổi lửa đốt thành, thà chết thiêu trong biển lửa
chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc. Những Lục Tú Phu, Văn Thiên
Tờng cùng hàng trăm vạn ngời Hán quả cảm khác đã viết nên trang sử
cuối cùng thật bi thảm mà cũng thật vẻ vang của nhà Tống. Có những vị
nh thế Tống cũng bớt tủi. Vị anh hùng của nhân dân Trung Hoa, Văn
Thiên Tờng khi bị bắt vẫn hiên ngang khẳng khái đón nhận cái chết, tinh
thần xả thân cho tổ quốc của ông đợc cô đọng trong bài thơ Chính khí
ca , tráng liệt nh cầu vồng vắt ngang bầu trời:
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thợng tắc vi nhật tinh
( Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dới đất là sông núi
Trên trời là nhật tinh )

ảnh: Tợng Alexander Nevsky tại
thành phố St.Peterburg-Nga.







16


Về phía Tây, quân Mông Cổ cũng thu đợc những thắng lợi vang dội trên
khắp các chiến trờng. Một trong những trọng điểm tấn công của họ là
vùng thảo nguyên sông Volga rộng lớn, mà trong đợt viễn chinh năm 1223
Thành Cát T Hãn còn cha chiếm đợc. Mùa xuân năm 1236, một đạo kỵ
binh 150.000 ngời ồ ạt kéo về phía Tây. Chỉ huy đạo quân là thống soái
Batu ( Bạt Đô

) con trởng của Jotri, cháu Thành Cát T Hãn, viên
lão tớng Subutai làm tiên phong. Tháng 12 năm 1237, Batu tấn công công
quốc Ryazan, đại công tớc Yury Igorevic bị giết. Năm sau, quân Mông
Cổ chiếm đợc hai công quốc Vladimir, Muscoy, đại công tớc Yury II bị
hạ sát, các thành phố Moscow ( Mát-xcơ-va ) Suzdal và Kolomna bị thiêu
trụi. Tiếp sau đó một loạt 14 thị trấn Nga nh Rostov, Yaroslav, Dmiterov...
bị quân Tartar ( Tartar hay Tác-ta là tên gọi một bộ lạc Mông Cổ nhng sử
sách phơng Tây dùng từ này để chỉ tất cả những ngời Mông Cổ nói
chung ) giày xéo. Tháng 3 năm 1238, Bạt Đô định tiến quân về hớng
Nogvorod-công quốc mạnh nhất của ngời Nga dới sự trị vì của Đại Thân
Vơng Alexander Nevsky ( 1219-1263 ), nhng họ đã gặp phải sự chiến
đấu ngoan cờng của ngời Nga nên buộc phải rút lui.
Năm 1239, Bạt Đô đổi hớng tấn công xuống phía Tây Nam vào
Crimea và Mordovia. Các thành phố Pereyaslav rồi Chernigov lần lợt bị
tàn phá. Năm 1240, quân Mông Cổ tấn công thành Kiev, cha bao giờ
ngời Châu Âu phải đơng đầu với một đội quân khổng lồ nh thế, thân

vơng Mikhain sợ hãi bỏ trốn sang Hungary, bá tớc Dmitri giữ thành. Sử
sách Nga chép lại rằng: quân Mông Cổ bao vây dày đặc xung quanh
thành Kiev, tiếng các cỗ xe, tiếng bò rống, ngựa kêu, tiếng những ngời dã
man gào thét... lớn tới mức trong thành ngời ta không nghe đợc gì lời nói
17
chuyện của nhau ngoài những tiếng ầm ầm khủng khiếp . Ngày 6-12-1240,
thành phố Kiev bị chiếm, vô số binh sỹ và thờng dân bị tàn sát, hàng
nghìn ngời bị bắt làm nô lệ. Một cánh quân Mông Cổ khác do Baidar chỉ
huy tiến vào Balan, họ đánh tan 30.000 liên quân Đức-Balan do Đại công
tớc Henrich II chỉ huy ở Wahlsalt-Balan ngày 9-4-1241. Sau đó, cánh
quân này hợp với đại quân của Bạt Đô tiến đánh Hungary. Tháng 7 năm đó
thủ đô Budapest của Hungary thất thủ, bọn xâm lợc tàn bạo chặt đầu phụ
nữ và nớng ngời trên lửa để tra khảo tìm chỗ giấu của cải. Biên niên sử
châu Âu ghi lại rằng, sau 1 năm quân Tartar ở Hungary dân số nớc này
chỉ còn lại hơn một nửa, các thành thị gần nh bị xoá sổ, đây đó chỉ lác đác
những làng mạc nghèo khổ, đói rách. Quân Mông Cổ truy kích ông vua
mới 6 tuổi của Hungary là Béla IV ( 1235-1270 ) tới tận bờ biển Serbia, cả
châu Âu chấn động, Giáo Hoàng Gregoa IX kêu gọi các đoàn Thập Tự
Chinh chống lại quân Mông Cổ, các bài cầu kinh xin cứu vớt khỏi quân
Tartar xuất hiện. Tuy nhiên sức chiến đấu của nhân dân các nớc Nga,
Balan, Hungary, Tiệp Khắc... đã làm quân Mông Cổ suy yếu đi nhiều
không thể tiếp tục tấn công đợc nữa. Thậm chí mùa xuân năm 1242, Bạt
Đô đã phải rút khỏi lãnh thổ Balan và Hungary, tuy nhiên với công quốc
Kiev, vùng thảo nguyên sông Volga và đất Kharza ( miền cực Nam của
nớc Nga ngày nay nằm ở bờ Đông Bắc biển Đen ) mới chiếm đợc, đất
phong Ulus của gia tộc Jotri đã trở nên vô cùng rộng lớn lập thành một
Hãn quốc mới gọi là Hãn Kim Trớng ( phơng Tây gọi là Golden Horde )
hoặc còn có tên gọi khác là Khâm Sát Hãn Quốc

( Kipchak

Khan Ulus ). Hãn quốc mới đóng đô ở thành Surai bên bờ sông Volga, gần
địa điểm thành phố Volgograd ngày nay. Thực tế Khâm Sát Hãn Quốc này
đã tồn tại độc lập so với Đại Hãn ở Mông Cổ.
18
Năm 1241, Oa Khoát Đài và Sát Hợp Thai cùng qua đời, tình
hình Mông Cổ trở nên phức tạp, ngôi vị Đại Hãn bỏ trống trong 5 năm, vợ
của Oa Khoát Đài là Toregene phải nhiếp chính. Đại hội Kuriltai 1246 cử
Quý Do

( Guyuk ) lên ngôi đại Hãn nhng Bạt Đô ra mặt chống đối
không chịu tuyên thệ trung thành. Năm 1248, trong khi cha kịp đem quân
hỏi tội Bạt Đô, Quý Do đột nhiên lâm trọng bệnh bệnh qua đời. Gia tộc
Jotri và gia tộc Tolui liên kết cử Mông Kha

( Mongke ) con trởng
của Đà Lôi lên làm đại Hãn. Mông Kha đem quân đánh dẹp lãnh địa của
gia tộc Oa Khoát Đài và Sát Hợp Thai-những kẻ đã chống đối mình khiến
cho hai vơng thất này suy yếu, lãnh địa Ulus ở Trung á không còn rộng
lớn nh trớc nữa. Trên vùng lãnh thổ cũ của vơng quốc Khwarizm và
miền cao nguyên Tây Tạng họ thành lập thêm một Hãn quốc nhỏ gọi là Sát
Hợp Đài Hãn Quốc

( Tragatai Khan Ulus ).
Mông Kha đã giành ngôi đại Hãn và cai quản một vùng rộng lớp
nhng ông ta vẫn cha thoả mãn. Các kế hoạch xâm lợc mới lại tiếp tục
đợc vạch ra. Mục tiêu tiếp theo là miền cao nguyên Iran. Năm 1253,
Mông Kha cử em là Húc Liệt Ngột

( Hulegu hay Hulagu ) tấn
công Ba T. Miền đất Iran trớc đây cũng đã bị các tớng Mông Cổ Baiju,

Eljigidai xâm lợc nhiều lần từ đợt viễn chinh năm 1231. Ngày 2-1-1256,
Hulegu vợt sông Amu-daria , tấn công Ixmail-miền đất cuối cùng của
ngời Ba T còn độc lập. Sau khi tiêu diệt Ixmail, Hulegu dẫn đại quân
tiến về vùng Lỡng Hà lúc đó thuộc lãnh thổ của Khalipha ( vua Hồi giáo )
al-Mustasim. Nhng bản thân ông ta và cận thần đều là những kẻ bất tài
hèn nhát khiến Hulegu dễ dàng chiếm đợc kinh đô Baghdad. Ngày 15-2-
1258, quân Mông Cổ tiến vào thành Baghdad nổi tiếng, cớp bóc của cải,
đốt phá cung điện, đền thờ và tàn sát c dân. Hulegu ra lệnh bỏ al-
19
Mustasim vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết. Thế tấn công vũ bão của
Hulegu cuối cùng bị chặn lại ở Syria, thủ lĩnh ngời Mameluk ở Ai Cập là
Saif ad-Din Khutuz ( có sách ghi là Qutuz ) đã đánh bại quân Mông Cổ
dới sự chỉ huy của mãnh tớng Kitbukha trong trận Ain-jalut lịch sử.

Lợc đồ lãnh thổ Y Lợi Hãn Quốc năm 1294 ( Il Khan Empire )
Nếu nh vì không thể thôn tính Đại Việt, Hốt Tất Liệt đành từ bỏ
dã tâm xâm lợc vùng Đông Nam á thì chiến thắng này của ngời Ai Cập
cũng đã làm Hulegu không thể tiếp tục xâm chiếm các quốc gia Hồi giáo ở
Bắc Phi. Hulegu quay về Iran, sát nhập thêm các nớc ở miền Caucasus
nh Azerbaijan, Goregia, Armenia vào bản đồ quốc gia của mình, cùng với
miền Lỡng Hà trù phú hợp thành một Hãn quốc mới có tên là Y Lợi Hãn
Quốc

( Il Khan Ulus ). Hãn quốc này cũng đã thoát ly khỏi
chính quy

ền trung ơng của Đại Hãn Mông Cổ.
20

4 Hãn quốc và những con đờng xâm lợc của ngời Mông Cổ

Cho tới giữa thế kỷ XIII, hầu hết lục địa Châu á rộng lớn và một
phần Đông Âu đã trở thành thuộc địa của ngời Mông Cổ, bờ cõi của đế
quốc trải dài từ miền viễn Đông xa xôi tới tận bờ Địa Trung Hải. Lịch sử
21
loài ngời cha từng chứng kiến một đế quốc hùng mạnh và hung bạo đến
thế. Sử sách cũng nói rằng, ngời Mông Cổ là một dân tộc dã man sống
bên cạnh những dân tộc văn minh. Ngời dã man trọng võ bị nên thôn tính
đợc những quốc gia văn minh bằng bạo lực, nhng trong thời bình họ lại
bị thứ văn hoá đặc sắc, sống động của những dân tộc ấy chinh phục lại.
Ngời Mông Cổ xây dựng đế quốc của mình khi trong đầu chẳng có gì
ngoài những chiến thuật quân sự. Họ không biết gì về tổ chức nhà nớc,
nhà Nguyên của Đại Hãn cái gì cũng phải học của Trung Hoa. Từ chế độ
chính trị, tổ chức chính quyền... tới thuế khoá, từ lễ nghi triều đình, tên
hiệu của vua... tới việc cúng tế trời đất, thờ cúng tổ tiên, nhất nhất họ đều
học theo Nho giáo của ngời Trung Hoa. ấy thế nhng Hốt Tất Liệt lại
luôn miệt thị Nho học, xếp nhà nho vào hạng cùng đinh chỉ đứng trên ăn
mày. Xem ra Hốt Tất Liệt quả thật chẳng có chủ trơng gì cả, sự thật trong
mắt ông ta dân Trung Hoa chỉ là một bầy nô lệ để bóc lột chứ thâm tâm
ông ta cũng chẳng muốn cai trị gì họ. ở các Hãn quốc khác, tình trạng có
đỡ bi đát hơn vì quân Mông Cổ chỉ kỳ thị mỗi ngời Trung Hoa mà thôi
nhng cũng không khá hơn là mấy. Ngời Mông Cổ buộc phải sử dụng
ngời nớc ngoài để làm việc trong bộ máy chính quyền, tạo nên tình trạng
cai trị siêu quốc giới, tới Marco Polo một ngời Italia cũng làm quan cho
nhà Nguyên đợc, nh thế có lợi cho sự thống trị của quân Mông Cổ nhng
lại có hại cho dân bị trị tức là cho đế quốc của ngời Thát Đát. Sự lúng
túng trong quản lý nhà nớc, bất công, tàn ác trong cai trị làm nhân dân
thuộc địa nổi dậy khắp nơi, các Hãn quốc lúc nào cũng ở trong tình trạng
hỗn loạn. Ngời Mông Cổ cũng không có văn tự, chiếm đợc Tây Tạng, họ
mợn chữ của ngời Duy Ngô Nhĩ, chiếm đợc Trung Hoa, họ học chữ
Hán, qua Tây á lại dùng chữ ả rập, nhà s Lạt Ma Tây Tạng là Bát Tu Ba

cố sáng tác cho họ một loại chữ riêng nhng thất bại. Tóm lại ngời Mông
22
Cổ vẫn chẳng có văn tự thống nhất, mỗi nơi, mỗi lúc một loại, sắc lệnh nhà
nớc ban ra, điều luật, thuế khoá... không biết phải làm thế nào, tất cả đều
truyền khẩu, mỗi ngời hiểu một kiểu. Hiển nhiên nh vậy thì việc cai trị
trở nên vô cùng khó khăn, quốc gia vô cùng rối loạn. Lại nữa, ngời Mông
Cổ, cũng chẳng có tín ngỡng, họ chẳng biết lấy cái gì để đoàn kết các dân
tộc bị mình thống trị. Họ học theo tất cả tôn giáo của các dân tộc xung
quanh, nhiều nhất là theo Phật giáo Lạt Ma, thứ đến là Hồi giáo, cũng có
ngời theo Kitô giáo nhng tuyệt nhiên họ chừa lại Phật giáo Đại Thừa
Trung Hoa, có lẽ thứ đó cao siêu quá đối với họ. Chính vì thế, cho dù ngời
Mông Cổ ở đâu họ cũng bị đồng hoá với c dân nơi ấy. Ví dụ nh ngời
Mông Cổ ở Trung á tất cả đều bị Tuốc hoá và cải theo đạo Hồi, đến nỗi
ngời ta chẳng thể phân biệt nổi đâu là ngời Tuốc, đâu là ngời Tartar.
Hốt Tất Liệt cũng nhìn trớc đợc điều này, ông cấm ngời Mông Cổ
không đợc Hán hóa, nhng cấm sao đợc. Thứ văn hoá của những kẻ bị
nô dịch rực rỡ và hấp dẫn quá, dân Mông Cổ làm sao mà không thích cho
đợc. Thế hệ đầu, họ còn giữ đợc bản chất vũ dũng chứ sang những đời
sau, sinh trởng ở Trung Hoa, thích ở lâu đài hơn lều trại, thích ăn nem, ăn
chả hơn uống sữa dê... thành ra họ trở nên yếu đuối nhu nhợc, sợ khó, sợ
khổ. Vì vậy nhà Nguyên làm chủ Trung Hoa cha đầy 90 năm đã bị đuổi
về đồng cỏ. Các Hãn quốc kia cũng chẳng hơn gì, chỉ giữ đợc thuộc địa
chừng 100 năm. Chỉ có Khâm Sát hãn Quốc ở miền thảo nguyên hoang vu
mới giữ đợc quốc gia trong hơn hai thế kỷ rồi mới bị ngời Nga diệt. Nói
thế không phải là đế quốc Mông Cổ chẳng đóng góp đợc gì cho lịch sử
nhân loại. Dù là vô tình nhng chính nhờ Mông Cổ mở rộng cơng thổ mà
văn hoá Đông-Tây đợc dịp giao lu dễ dàng. Cha bao giờ việc đi lại từ
Trung Quốc tới châu Âu lại yên ổn nh vậy, con đờng tơ lụa cũng không
còn bị ngời ả Rập chặn cớp nữa, vì thế thơng nhân hai bên thông
23

thơng buôn bán qua lại rất tấp nập. Ai cũng thừa nhận trong thời kỳ này
ngời châu Âu đã học đợc nhiều cái lợi từ phơng Đông. Đó là cách chế
tạo hoả dợc, la bàn, là nghề in, cách dùng giấy bạc, những phát minh y
học... trớ trêu thay chính những thứ đó lại giúp đỡ đắc lực cho ngời
phơng Tây trong công cuộc chinh phục phơng Đông thời kỳ thực dân sau
này. Nhng nói đi cũng phải nói lại, ngời Trung Hoa không chỉ truyền bá
văn hoá của mình mà họ cũng thu về đợc nhiều cái lợi nhờ giao lu với
các quốc gia bên ngoài. Họ đã học đợc cách làm đồ sứ Thất Bảo, cách nấu
rợu, cách dệt thảm... từ ngời ả Rập, các môn vẽ bản đồ, thiên văn học...
từ ngời phơng Tây. Thế nên sử gia Pháp Lombard gọi Trung Hoa thời
Nguyên là cái lò văn hóa ( crenset culturel ), còn ngời đồng hơng
của ông Simon Leys thì cho rằng nếu hai triều đại Minh, Thanh tiếp theo
biết noi gơng khai quan mở cửa nh thời nhà Nguyên thì Trung Quốc
hẳn đã tiến bộ chẳng thua gì phơng Tây.
Ngời Mông Cổ vốn rất ít, hầu hết họ lại sống ở miền đồng cỏ
quê hơng, ngay ở lãnh thổ nhà Nguyên, ngời Mông Cổ tính luôn cả các
tộc du mục phơng Bắc nh Khiết Đan, Nữ Chân, Duy Ngô Nhĩ... cũng
cha tới 1 triệu, thực tế họ cũng chẳng cần xâm chiếm đất khác vì nhu cầu
mu sinh. Vậy mà Hốt Tất Liệt vẫn cha thoả mãn, ông ta lại tiếp tục vạch
ra các kế hoạch viễn chinh mới ở những miền rừng núi và hải đảo xa xôi.
Thật trớ trêu cho những tham vọng đó, khi các đế chế hùng mạnh từ Đông
sang Tây, đều lần lợt khuất phục dới vó ngựa xâm lăng của những đoàn
kỵ binh Mông Cổ, thì vài dân tộc nhỏ bé miền viễn Đông nh Đại Việt,
Champa hay đảo quốc Nhật Bản lại hiên ngang chống chọi tới cùng và
chiến thắng lũ cớp nớc hung bạo.



24


B¶n ®å ®Þa lý NhËt B¶n
25

Chơng II


Nhật Bản hai lần kháng chiến
chống quân xâm lợc Mông-Nguyên

I. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản những năm trớc chiến tranh:
1. Mạc phủ Kamakura.
Những năm cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII đợc nhắc đến trong
lịch sử Nhật Bản nh một thời kỳ đầy dãy biến động với những cuộc chiến
tranh khốc liệt, những cải cách mạnh mẽ và sự ra đời của một thể chế quân
sự tập quyền vững mạnh. Năm 1189, sau nhiều năm dài nội chiến,
Minamoto Yoritomo ( 1147 - 1199 ) bằng chiến thắng trớc phái quân sự
đối nghịch là dòng họ Taira đã lập nên chính quyền Mạc Phủ Kamakura.
Đây là một chính quyền phong kiến thống nhất trên toàn quốc, đặt dới
quyền lực chỉ huy của các thủ lĩnh quân sự mà cơ quan đại diện là Mạc Phủ
( Bakufu ) đóng tại thành phố Kamakura. Lần đầu tiên trong lịch sử nhiều
thế kỷ, Nhật Bản có một nhà nớc pháp quyền mạnh và ổn định nh thế.
Điều này là một khác biệt hoàn toàn so với các thời kỳ trớc nh thời đại
Nara hay Heiyan, nơi hoàng gia và các dòng họ đại quý tộc có vai trò chính
yếu đối với nền chính trị quốc gia. Thời kỳ Kamakura, ngời đại diện cho
tầng lớp thống trị không còn là giới đại quý tộc dân sự mà thay vào đó là
các dòng họ quân phiệt với thủ lĩnh tối cao là Yoritomo của họ Minamoto.
Phái quân sự lên nắm chính quyền, theo đó họ thiết lập một hệ thống quản
lý nhà nớc từ trung ơng tới các địa phơng với hai chức danh chủ yếu là
chỉ huy cảnh sát ( Shugo ) lo việc trị an và quản lý đất đai ( Jitò ) lo

×