Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác đăng ký kinh doanh tại Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.7 KB, 83 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam
(11/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới
kinh tế nhằm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với chủ
trương đó, nền kinh tế đất nước ta đã có bước chuyển mình từ cơ chế quản lý
tập chung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường đa dạng về các thành phần
kinh tế cùng các hoạt động kinh doanh, góp phần mạnh mẽ vào việc giải
phóng thị trường, tăng quyền tự chủ kinh doanh của công dân. Vấn đề xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp luôn
được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Luật Doanh nghiệp năm 2005
được ban hành thực sự là một bước đột phá mới và nó có ý nghĩa quan trọng
trong điều kiện kinh tế đổi mới của Đảng ta về vấn đề doanh nghiệp nói riêng
và phát triển kinh tế thị trường nói chung, khẳng định một chủ trương phù
hợp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và mọi
công dân đầu tư, phát triền sản xuất.
Với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc những điểm mới của Luật
Doanh nghiệp đặc biệt là những điểm mới về đăng ký kinh doanh và thành lập
doanh nghiệp từ Luật Doanh nghiệp 1999 và thực tiễn áp dụng , tôi quyết
định chọn đề tài: “Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh đối với các loại hình
doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 – Thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Điện Biên” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của bài khóa luận tốt nghiêp, do điều kiện về thời gian và thời
lượng không cho phép tôi chỉ tập chung nghiên cứu về chế độ pháp lý đăng ký kinh
doanh với các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005:
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
1
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Điều kiện để được đăng ký kinh doanh


+ Hồ sơ đăng ký kinh doanh
+ Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh
+ Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh
Tôi tập trung nghiên cứu về chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh theo
quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, đánh giá phân tích về quyền thành lập và
đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở các quy định của pháp luật
nghiên cứu một cách tổng quát về thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Điện Biên
3. Kết cấu của đề tài:
Với đề tài nghiên cứu như trên, kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu,
mục lục, kết luận thì kết cấu của bài khóa luận có 3 chương:
Chương I: Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh đối với các loại hình
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005
Chương II: Thực tiễn hoạt động đăng ký kinh doanh của Phòng Đăng ký
kinh doanh tỉnh Điện Biên
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả của công tác đăng ký kinh doanh tại Điện Biên
Cuối cùng là phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu chuyên đề đã sử dụng phương pháp nghiên
cứu: Sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh chế độ pháp lý về đăng ký kinh
doanh theo các luật: Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luậ Công ty năm 1990, Luật
Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005. Từ đó đánh giá sự
chuyển biến pháp luật trong đăng ký kinh doanh. Sử dụng phương pháp tổng
hợp, khái quát vấn đề thành lý luận, phương pháp phân tích các vấn đề, từ đó tìm
ra các hạn chế, đưa ra các giải pháp kiến nghị.
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, bài khóa luận không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
2
Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH ĐỐI VỚI
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP NĂM 2005
I. ĐĂNG KÝ KINH DOANH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm- Đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm
Hiểu một cách thông thường doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế tiến
hành các hoạt động kinh tế theo một kế hoạch nhất định nhằm mục đích kiếm lợi
nhuận. Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa
hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng….
Định nghĩa về doanh nghiệp được quy định trong nhiều văn bản pháp luật.
Theo Luật Doanh nghiệp 1999 định nghĩa về doanh nghiêp : “ Doanh nghiệp là
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh (Điều 3 khoản 1 ). Đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra định
nghĩa về doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”
Như vậy, thuật ngữ “doanh nghiệp” được dùng để chỉ một chủ thể kinh
doanh độc lập có đủ những đặc trưng pháp lý và thỏa mãn những điều kiện do
pháp luật quy định. Trong thực tế, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
dưới nhiều mô hình cụ thể với những tên gọi khác nhau. Theo quy định của
Luật Doanh nghiệp 2005 phân loại thành các loại hình doanh nghiệp sau:
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
3
Chuyên đề tốt nghiệp
• Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp mà các thành viên
trong công ty (có thể là một tổ chức hay một cá nhân đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên) chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản

khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
• Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
• Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành
viên hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp
danh còn có các thành viên góp vốn.
• Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi
cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp
Những điểm đặc trưng về mặt pháp lý để phân biệt doanh nghiệp là một
“tổ chức kinh tế” với hộ kinh doanh, đặc biệt là phân biệt với các tổ chức không
phải là đơn vị kinh doanh như cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang
nhân dân, tổ chức xã hội đó là:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải có tên riêng. Tên riêng của doanh nghiệp là
yếu tố hình thức nhưng là dấu hiệu đầu tiên xác định tư cách chủ thể độc lập của
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
4
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp trên thương trường. Tên doanh nghiệp là cơ sở để nhà nước thực
hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và cũng là cơ sở phân biệt chủ thể
trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và với người tiêu dùng. Tên doanh nghiệp
được ghi trong con dấu của doanh nghiệp và mỗi chủ thể kinh doanh độc lập với
tư cách là doanh nghiệp, dù thuộc loại hình hoặc kinh doanh trong lĩnh vực nào
cũng được cấp và sử dụng một con dấu doanh nghiệp. Hộ kinh doanh cá thể, tuy
cũng là những chủ thể kinh doanh nhưng được phân biệt với doanh nghiệp là hộ

kinh doanh cá thể không bắt buộc phải đăng ký tên và không có con dấu.
Thứ hai, doanh nghiệp phải có tài sản. Mục đích chủ yếu và trước tiên của
doanh nghiệp là hoạt động kinh doanh với những đặc trưng là đầu tư tài sản và
để thu lợi về tài sản. Bởi vậy, điều kiện tiên quyết và cũng là nét đặc trưng lớn
của doanh nghiệp là phải có một mức độ tài sản nhất định. Tài sản là điều kiện
hoạt động và cũng là mục đích hoạt động của doanh nghiệp. Trong điều kiện của
cơ chế thị trường, không thể nói đến việc thành lập một doanh nghiệp, thậm chí
không thể thực hiện được một hoạt động kinh doanh thực sự trong bất kỳ lĩnh
vực nào, nếu hoàn toàn không có tài sản.
Thứ ba , doanh nghiệp phải có trụ sở giao dịch ổn định, bất cứ nhà đầu tư
nào thành lập chủ thể kinh doanh với tư cách doanh nghiệp, dù là Việt Nam hay
nước ngoài đều phải đăng ký ít nhất một địa chỉ giao dịch trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam. Các doanh nghiệp có trụ sở chính tại Việt Nam được đăng ký và thành
lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là các pháp nhân Việt Nam. Việc giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp trước
hết phải do Trọng tài hoặc tòa án và theo pháp luật.
Thứ tư, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục thành lập theo quy định của
pháp luật và mỗi doanh nghiệp, dù kinh doanh ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều
phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp ít nhất một Giấy chứng nhận
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
5
Chuyên đề tốt nghiệp
có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, giấy phép thành lập và hoạt động ( đối với doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm) nhưng nội dung giá trị là đăng ký thành lập doanh nghiệp (và
trong phạm vi bài chuyên đề chỉ nghiên cứu về đăng ký kinh doanh đối với các
loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Trong đó, nhà nước ghi nhận
những yếu tố chủ yếu cấu thành tư cách chủ thể của doanh nghiệp, phạm vi lĩnh
vực hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, đăng ký kinh doanh là cơ sở cho hoạt
động của doanh nghiệp đồng thời cũng là cơ sở cho việc thực hiện việc kiểm

soát, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thứ năm, mục tiêu của doanh nghiệp là để trực tiếp và chủ yếu thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Nói một cách khác, doanh nghiệp luôn luôn là một tổ
chức kinh tế hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động có thể thực hiện nhũng hoạt động nhằm các mục tiêu xã hội, không phải vì
mục đích lợi nhuận nhưng đó là sự kết hợp và không phải là mục tiêu bản chất
của doanh nghiệp.
2. Khái niệm về đăng ký kinh doanh. Mục đích, ý nghĩa
2.1. Đăng ký kinh doanh
Thuật ngữ “kinnh doanh” hay “thương mại” ( tiếng Anh là “bussines” hay
“trade”) xuất hiện từ thế kỷ XI cùng với sự hình thành và phát triển của các
thương nhân, phường hội buôn bán. Cho đến nay khái niệm “kinh doanh” có
nhiều cách hiểu khác nhau tùy theo từng góc độ.
Về mặt từ ngữ, từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích
thuật ngữ “kinh doanh” theo hai nghĩa: thứ nhất “kinh doanh” có nghĩa là “gây
dựng mở mang thêm”, và nghĩa thứ hai “tổ chức sản xuất, buôn bán, dịch vu,
nhằm mục đích sinh lợi”.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Dưới góc độ pháp lý: “kinh doanh là thực hiện liên tục một hoặc một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” ( Khoản 2, điều
4, Luật doanh nghiệp 2005).
Hành vi kinh doanh có các dấu hiệu sau:
- Hành vi phải mang tính chất nghề nghiệp. Tính chất nghề nghiệp được
thể hiện ở các đặc điểm chủ thể thực hiện hành vi khi tham gia thương trường
theo sự phân công lao động xã hội;các hành vi được tiến hành thường xuyên, ổn
định, đều đặn; có tính chất chuyên nghiệp cao và mang lại nguồn thu nhập chính
cho người thực hiện hành vi;

- Hành vi phải thực hiện một cách độc lập. Các chủ thể nhân danh chính
mình để tiến hành hoạt động kinh doanh, tự quyết định và chịu trách nhiệm trước
mọi vấn đề liên quan.
- Hành vi có mục đích sinh lợi.
Bên cạnh đó có cách hiểu kinh doanh là để kiếm tiền (Business to make
money), nhiều ý kiến đã quan niệm kinh doanh theo một nghĩa rộng hơn: Kinh
doanh để mang lại lợi ích cho cộng đồng ( hay kinh doanh xã hội- social
business).
Từ ý tưởng kinh doanh, để thực hiện hoạt động kinh doanh, chủ thể phải
tiến hành hoạt động đăng ký kinh doanh kinh doanh với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích từ “ đăng ký” dưới hai nội dung:
1: Chính thức ghi vào văn bản của cơ quan pháp luật những thông tin
cần thiết về sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm dứt những quan hệ pháp
lý nhất định.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
7
Chuyên đề tốt nghiệp
2: Bằng chứng công nhận bắt đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện
hoặc hiện tượng pháp luật.
Từ cách định nghĩa trên, ta có thể xem xét thuật ngữ “đăng ký kinh doanh”
dưới những phương diện khác nhau:
- Về phương diện kinh tế: đăng ký kinh doanh là hoạt động của doanh
nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi
nhuận về cho các doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Vì vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp chưa thực sự có, song chi phí trong quá trình đăng ký kinh
doanh thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp
và được khấu trừ trong khi tính thuế.
- Về phương diện quản lý nhà nước: đăng ký kinh doanh được coi là biện

pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký kinh doanh là hoạt động quản lý đầu tiên
của Nhà nước đối với doanh nghiệp, nó sẽ tạo điều kiện để Nhà nước có thể thực
hiện các hoạt động quản lý tiếp theo của mình khi doanh nghiệp đi vào sản xuất.
- Về phương diện chính trị: Đăng ký kinh doanh được hiểu là quyền tự do
dân chủ của công dân. Tuy nhiên quyền này phải được hiểu là tự do trong
“khuôn khổ”, dân chủ tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền đăng ký
kinh doanh cũng đồng thời là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh
của công dân có nội hàm bao gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình
thức kinh doanh và tự do đăng ký kinh doanh. Bất cứ một cá nhân tổ chức nào có
đủ điều kiện để kinh doanh đều có thể đăng ký với nhà nước để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
8
Chuyên đề tốt nghiệp
- Về phương diện pháp lý: Đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý mà
theo đó nhà đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến
hoạt động của mình và được Nhà nước thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Như vậy theo định nghĩa này, đăng ký kinh doanh được hiểu là một hoạt
động pháp lý bao gồm hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký
kinh doanh. Theo đó, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai
báo theo đúng quy định của pháp luật với các nội dung cụ thể, còn các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh đồng thời
cấp cho chủ thể đăng ký kinh doanh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể kinh
doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước
công nhận và bảo hộ.
2.2. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh
“Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh” là tổng hợp những quy định pháp
luật quy định về giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; điều

kiện đăng ký kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh, các biện pháp chế tài để
đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được thực hiện đúng pháp luật nhằm điều
chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký kinh doanh và những vấn
đề liên quan.
Xét về mặt nội dung: Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh là tổng hợp
các quy định về:
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ( Business registration) là “chứng
chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân, tổ chức thỏa mãn các
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
9
Chuyên đề tốt nghiệp
điều kiện do pháp luật quy định để tiến hành hoạt động kinh doanh”. Việc cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là công nhận chính thức sự ra đời của
doanh nghiệp đồng thời với sự công nhận đó đã làm phát sinh mối quan hệ pháp
lý về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, bản chất của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sự ghi nhận
của nhà nước đối với nhà đầu tư về nghĩa vụ bảo hộ quyền kinh doanh của nhà
đầu tư qua hình thức doanh nghiệp mà nhà đầu tư tự lựa chọn và trong phạm vi
đã được nhà nước giới hạn đăng ký.
Các thông tin được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ
được cơ quan đăng ký kinh doanh ghi vào sổ theo dõi và quản lý, giúp nhà nước
nắm bắt được các doanh nghiệp ngay từ khi mới thành lập. Kết hợp với chế độ
báo cáo định kỳ của doanh nghiệp và sự kiểm tra của nhà nước, nhà nước có
được những thông tin chính xác về từng doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình
thành lập, hoạt động, cho đến khi giải thể, phá sản. Sử dụng nghiệp vụ phân tích,
thống kê, Nhà nước sẽ có những số liệu về tình hình kinh tế, xã hội được phản
ánh qua tình hình hoạt động doanh nghiệp, từ đó kịp thời đề ra những chính sách
vĩ mô, điều tiết hợp lý.
2.3. Ý nghĩa
Đăng ký là thủ tục khai sinh ra doanh nghiệp. Nói cách khác, thông qua

việc đăng ký thành lập doanh nghiệp thì tư cách của doanh nghiệp mới được thừa
nhận và mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp. Như
vậy việc đăng ký thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa lớn trong không những đối
với cơ quan nhà nước mà còn có ý nghĩa đối với chính các chủ thể tiến hành hoạt
động kinh doanh.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
10
Chuyên đề tốt nghiệp
- Đối với nhà nước: Việc quy định thành lập và đăng ký kinh doanh là thể
hiện sự bảo hộ của Nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh
doanh nói chung và các chủ doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời nhà nước thực
hiện chức năng quản lý cơ cấu của các thành phần kinh tế xã hội, kiểm soát các
hoạt động kinh tế theo hướng đã đặt ra.
Đăng ký kinh doanh giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được các yếu
tố mới trong kinh doanh để từ đó có những chủ trương, biện pháp khuyến khích
hoặc hạn chế phù hợp, giúp Nhà nước can thiệp một cách kịp thời và có mức độ
vào nền kinh tế, bảo đảm có được một nền kinh tế hiện đại nhưng không xa rời
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đã đặt ra.
- Đối với chủ thể đăng ký kinh doanh: Sau khi được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, có quyền tiến
hành các hoạt động kinh doanh như đã đăng ký dưới sự bảo hộ của pháp luật
( tức là tư cách chủ thể của doanh nghiệp được xác lập). Thành lập doanh nghiệp
cũng chính là cơ sở chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu các cơ quan
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như đảm bảo tính pháp lý đối
với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về mặt xã hội: Đăng ký kinh doanh còn nhằm công khai hóa các hoạt
động của doanh nghiệp trước công chúng. Xã hội có được các thông tin và các
đảm bảo về tư cách pháp lý của doanh nghiệp và nó tạo ra niềm tin ở các bạn
hàng khi thực hiện giao dịch. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để một doanh
nghiệp tồn tại và phát triển.

- Thành lập doanh nghiệp còn có ý nghĩa kinh tế là khi bước vào các hoạt
động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp với một tư cách là một thành viên trong
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
11
Chuyên đề tốt nghiệp
các cơ cấu của các thành phần kinh tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp
phần vào sự phát triển của xã hội.
- Như vậy, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp có một ý nghĩa vô cùng
quan trọng không chỉ đối với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân doanh nghiệp
mà còn có ý nghĩa đối với việc bảo đảm trật tự quản lý nhà nước và bảo vệ lợi
ích cho các chủ thể khác trong xã hội. Chính vì lẽ đó, viêc đăng ký thành lập
doanh nghiệp vừa là một nhu cầu tất yếu, vừa là đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối
với mỗi doanh nghiệp khi gia nhập thị trường.
II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH – TỪ LUẬT DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ LUẬT CÔNG TY NĂM 1990 ĐẾN LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2005
1. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty năm 1990
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 được Quốc hội
thông qua tháng 12 năm 1990 và được sửa đổi một số điều vào tháng 6 năm
1994. Thực tế đã xác nhận, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được
ban hành là một cột mốc quan trọng và có ý nghĩa trong quá trình đổi mới kinh
tế, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam. Trước hết, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã khuyến khích
tạo điều kiện thuận lợi cho những người có tài sản đầu tư vào kinh doanh, thu hút
nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư để đưa họ vào kinh doanh, tạo cho họ một
môi trường thuận lợi để họ sử dụng tài sản, tiền vốn và năng lực của mình vừa
mang lại lợi ích cho cá nhân, gia đình mình và toàn xã hội.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47

12
Chuyên đề tốt nghiệp
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời đáp ứng được yêu cầu
chính đáng của những người muốn đầu tư vào kinh doanh. Trong những phạm vi
quy định của mình. Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty là cơ sở pháp lý
đảm bảo quyền tự do kinh doanh - một trong những quyền cơ bản đã được công
nhận. Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời góp phần quan trọng vào
sự hoàn thiện pháp luật kinh tế.
1.1. Thủ tục đăng ký kinh doanh
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty còn quá nhiều thủ tục phiền
hà và kém hiệu quả. Đây là một trong những vấn đề quan trọng mà chủ đầu tư
than phiền nhiều nhất. Những sự phiền hà và kém hiệu quả trong thủ tục hành
chính thể hiện nhiều nhất ở các quy định về thủ tục cấp phép thành lập và thủ tục
đăng ký kinh doanh.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty, việc thành
lập và đăng ký kinh doanh phải thực hiện qua hai bước:
- Bước thứ nhất: Các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi định đặt trụ sở chính.
- Bước thứ hai: Sau khi được cấp phép thành lập, công ty phải đăng ký
kinh doanh tại cơ quan Trọng tài kinh tế ( sau này chuyển sang Ủy ban kế hoạch
tỉnh ) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
1.2. Thủ tục cấp phép
Thực chất, đây là một quyết định hành chính của những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép một cá nhân hoặc một tổ chức nào đó được thành lập
doanh nghiệp hoặc được tiến hành một hoạt động kinh doanh nào đó: Việc cấp
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
13
Chuyên đề tốt nghiệp
giấy phép thành lập là một biện pháp quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh, hạn chế hoạt động kinh doanh trái pháp luật, đồng thời thông qua

việc cấp giấy phép, Nhà nước nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế trong các
ngành, các lĩnh vực từ đó và có các chính sách thích hợp điều tiết nền kinh
tế.Ngoài ra, việc cấp giấy phép còn góp phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
người kinh doanh và người tiêu dùng.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, thủ tục cấp phép thành
lập còn có nhiều hạn chế:
- Kinh doanh là quyền tự do của tổ chức cá nhân. Nhà nước chỉ thừa nhận
và bảo hộ quyền kinh doanh hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do vậy, tự do thành
lập doanh nghiệp không thể do Nhà nước ban phát thông qua cơ chế xin - cho.
Việc quy định cơ chế này là rào cản của quyền tự do kinh doanh mà biểu hiện
trước hết nó là quyền tự do thành lập doanh nghiệp.
- Quy định của pháp luật về việc cấp giấy phép còn rất tản mạn và phân
tán. Chỉ riêng việc cấp giấy phép có hai loại: Cấp giấy phép thành lập doanh
nghiệp tư nhân và các công ty; cấp giấy phép hoạt động được thực hiện đối với
các tổ chức tín dụng. Thẩm quyền cấp giấy phép rất phân tán: Giấy phép thành
lập công ty thì do chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương cấp. Còn một số ngành nghề đặc biệt được quy định trong Điều 11 của Luật
doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty, việc quyết định có cấp giấy phép hay
không lại thuộc về Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, đối với việc xin giấy phép
thành lập công ty, đã có 3 cơ quan có thẩm quyền cấp, ba cơ quan này phân tán
từ Trung ương đến địa phương. Đó là chưa kể, khi xem xét cấp giấy phép thành
lập công ty theo thẩm quyền của mình, đối với những ngành nghề trong phạm vi
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Điều 11, Ủy ban nhân dân tỉnh còn phải trao đổi với các Bộ chủ quản ngành để
thống nhất ý kiến.
- Thủ tục cấp phép và hình thức cấp phép còn chưa ổn định hay có thể nói
thường bị thay đổi. Luật do Quốc hội ban hành đã có hiệu lực có nghĩa là ở địa
phương phải triển khai áp dụng. Nhưng các Bộ, Ngành lại không có văn bản

hướng dẫn kịp thời nên buộc các địa phương ra văn bản để tạm hướng dẫn cho
công dân. Văn bản hướng dẫn này được áp dụng được một thời gian thì các
Chính phủ, các Bộ, các nghành lại có văn bản hướng dẫn chính thức. Địa phương
lại phải sửa đổi văn bản của mình để phù hợp với quy định của Trung ương.
Điều bày làm cho người kinh doanh mất nhiều thời gian và công sức cho việc
hợp thức hóa công việc kinh doanh của mình, gây tâm lý không tin tưởng vào
tính ổn định, nhất quán trong chính sách, pháp luật của nước ta.
Trong việc xin phép thành lập doanh nghiệp, một vấn đề nổi cộm trong
thực tế sáu năm áp dụng Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty và là vốn
pháp định. Vốn pháp định quy định trong cả hai Nghị định 221 /HĐBT ngày
23/12/1991 ban hành quy định của Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hóa một số điều
trong Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và Nghị định số 222/HĐBT ngày
23/12/1991 ban hành quy định của Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hóa một số điều
trong Luật công ty năm bao gồm 18 ngành nghề. Danh mục 18 ngành nghề là
không đủ so với yêu cầu của thực tiễn
1
. Việc liệt kê danh mục này vừa không đầy
đủ không khoa học lại không chặt chẽ. Xã hội ngày càng phát triển, quan hệ xã
hội ngày càng đa dạng và phức tạp cho nên phát sinh nhiều hoạt động sản xuất
kinh doanh đa dạng và phong phú. Trong khi đó, luật này quy định bằng cách liệt
kê danh mục thì lại không khoa học. Bởi có những ngành nghề mà thời gian này
1
Danh mục vốn pháp định ban hành kèm theo nghị định số 22- HĐ TB ngày 23 tháng 7 năm 1991
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
15
Chuyên đề tốt nghiệp
chưa phát sinh nhưng chỉ một thời gian ngắn sau lại phát triển rầm rộ.
Mức vốn pháp định khi thành lập doanh nghiệp được quy định hai Nghị
định 221 /HĐBT ngày 23/12/1991 ban hành quy định của Hội đồng Bộ trưởng cụ
thể hóa một số điều trong Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định số

222/HĐBT ngày 23/12/1991 quy định cụ thể hóa một số điều của Luật Công ty
còn chưa đủ, không phù hợp với thực tế. Sự phát triển của các ngành nghề không
phụ thuộc vào quy định pháp luật mà nó tuân theo quy luật cung cầu của thị
trường. Việc quy định vốn pháp định là nhằm để thực hiện sự đảm bảo tối thiểu
về tài sản của chủ doanh nghiệp đối với khách hàng. Mức vốn pháp định quá
thấp sẽ không đủ để thực hiện sự bảo đảm đó.Từ đó cho thấy việc quy định vốn
pháp định và ban hành danh mục vốn pháp định là điều kiện quyết định cho
thành lập hay không thành lập doanh nghiệp là một điều không hợp lý.
Về thủ tục đăng ký kinh doanh: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp tư
nhân và Luật Công ty sau thủ tục xin cấp phép thành lập là đến thủ tục đăng ký
kinh doanh. Việc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp
giấy phép thành lập doanh nghiệp là xác định người xin phép có đủ các điều kiện
thành lập doanh nghiệp sau đó doanh nghiệp tiến hành đăng ký kinh doanh tại
Trọng tài kinh tế ( sau này là Ủy ban kế hoạch) tỉnh, thành phố và được cơ quan
cấp giấy này cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trước khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được ban hành,
việc đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp được tiến hành hết sức tràn lan,
ngành nào cấp nào cũng có quyền cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
thuộc cấp mình quản lý. Quy định trên tạo nên một thực trạng hết sức lộn xộn,
tùy tiện ngay trong việc xác định chức năng kinh doanh, ngành nghề kinh doanh
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
16
Chuyên đề tốt nghiệp
đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh… Việc nhà nước ban hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Công ty trong đó quy định thống nhất thẩm quyền, trách
nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh là một sự đổi mới trong quá trình sắp xếp
lại các doanh nghiệp. Từ đó đến nay, công tác đăng ký kinh doanh tập trung vào
một cơ quan, trước là Trọng tài Kinh tế tỉnh, thành phố và sau khi Luật Doanh
nghiệp và Luật Công ty được sửa đổi vào tháng 6 năm 1994 thì cơ quan đăng ký
kinh doanh là Ủ ban kế hoạch tỉnh (nay là Sở Kế hoạch và Đầu tư). Chế định

đăng ký kinh doanh mới đã tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục khai sinh cho các
doanh nghiệp đồng thời giúp Nhà nước quản lý được các hoạt động kinh doanh
trên thương trường.
Tóm lại, những quy định cơ bản về thành lập doanh nghiệp trong Luật
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 có một số đặc điểm nổi bật
như sau:
- Thứ nhất, đây là quy định đầu tiên trong văn bản pháp luật đề cập đến
vấn để thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Thứ hai, mặc dù thủ tục đăng ký kinh doanh của công ty và doanh
nghiệp tư nhân là tương tự nhau nhưng những vấn đề lại được quy định trong hai
văn bản Luật khác nhau.
- Thứ ba, cơ chế “ xin- cho” và cơ chế “ tiền kiểm” là đặc trưng nổi bật của
pháp luật về thành lập doanh nghiệp, nó thể hiện cách thức kiểm soát, quản lý chặt
chẽ của nhà nước thời kì đầu thừa nhận và khuyến khích nền kinh tế đa thành phần.
- Cuối cùng song hành với các quyết định thành lập doanh nghiệp tư nhân,
công ty là các quy định riêng về thành lập doanh nghiệp nhà nước, thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
17
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 1999
Ngay trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, ngày 21/12/1990 Quốc
hội khóa VIII đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật Doanh nghiệp tư nhân
và Luật Công ty. Hai đạo luật này tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển khu vực
kinh tế tư nhân ở nước ta, là một mốc quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong
quá trình đổi mới kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần. Trong hơn tám năm
thi hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty cả nước đã có hơn 35.000
doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng số vốn khoảng 17 tỷ đồng. Tuy nhiên
với tính thời sự và tầm quan trọng của một công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng

và Nhà nước đã đề ra thì những quy định của Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân đã không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và
không phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Điều
đó đòi hỏi phải có sự sửa đổi hai đạo luật này để đi tới một đạo luật chung thống
nhất theo quan điểm chỉ đạo là “giải phóng và phát triển mọi lực lượng, mọi tiềm
năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, không giới hạn về
quy mô, địa bàn hoạt động trong lĩnh vực mà pháp luật không cấm…”
Pháp luật Nhà nước ta quy định và bảo hộ quyền tự do kinh doanh của
công dân, song quyền tự do phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Thực tiễn
thi hành Luật Doanh nghiệp tư nhân trong những năm qua đặt ra những yêu cầu
phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý hợp lý có khả
năng khuyến khích và định hướng cho kinh tế tư nhân nói riêng và nền sản xuất
xã hội nói chung phát triển. Chính vì những lẽ đó mà ngày 12/6/1999 Quốc hội
đã ban hành Luật Doanh nghiệp.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Tại Luật Doanh nghiệp năm 1999, vấn đề thành lập và đăng ký kinh doanh
của các doanh nghiệp được quy định trong chương hai, gồm có 16 điều, ghi nhận
việc đăng ký kinh doanh hoàn toàn là quyền của chủ thể kinh doanh, luật cũng
quy định rất cụ thể các loại ngành nghề kinh doanh để người kinh doanh đăng ký
lựa chọn trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh của họ. Mặt khác, điều kiện
và thủ tục đăng ký kinh doanh được đơn giản hóa một cách tối đa theo tinh thần
xóa bỏ cơ chế “xin - cho” trước đây, gộp hai khâu xin phép thành lập và đăng ký
kinh doanh thành một khâu đăng ký kinh doanh, bỏ vốn pháp định với nhiều
ngành nghề và bước đầu xây dựng một cơ quan chuyên trách đăng ký kinh doanh
thống nhất trong cả nước, đi cùng với nó là cơ chế giám sát hoạt động của doanh
nghiệp sau đăng ký kinh doanh.
2.1. Điều kiện thành lập và quản lý doanh nghiệp

Thành lập doanh nghiệp là quyền của nhà đầu tư nhưng không phải bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền thành lập doanh nghiệp. Để đảm
bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích của
cộng đồng xã hội, pháp luật có quy định hạn chế quyền thành lập, quản lý doanh
nghiệp đối với một số đối tượng.
Tại Điều 9 Luật Doanh nghiệp quy định các đối tượng không được quyền
thành lập, quản lý doanh nghiệp bao gồm:
- Cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài
sản của nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi
riêng cho cơ quan đơn vị mình;
- Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân dân chuyên nghiệp, công dân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân: sĩ quan hạ sĩ quan chuyên nghiệp
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân;
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Người chưa thành niên; người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự;
- Người đang truy cứu trách nhiệm dân sự hoặc đang chấp hành hình phạt tù
hoặc bị Tòa án vì phạm các tội buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh
doanh trốn thuế , lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật;
- Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh,
Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội
đồng thành viên của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không được quyền thành
lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ
một năm đến ba năm, kể từ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, trừ các trường hợp
quy định Luật phá sản của doanh nghiệp;
- Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam.
Ngoài điều kiện về chủ thể kinh doanh thì Luật Doanh nghiệp còn đề cập đến vấn

đề vốn kinh doanh. Vốn là nhu cầu không thể thiểu đối với mọi doanh nghiệp
khi tiến hành các hoạt động của doanh nghiệp. Vốn vừa là tiền đề để khai thác
các hoạt động kinh doanh của mình, vừa là cơ sở để đảm bảo thực hiện các nghĩa
vụ tài sản của doanh nghiệp phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Để đảm bảo khả
năng thực tế cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình,
pháp luật phải quy định mức vốn tối thiểu như một đòi hỏi bắt buộc đối với các
doanh nghiệp khi muốn tiến hành đăng ký kinh doanh. Quy mô vốn đó được xây
dựng dựa trên yêu cầu và đặc thù của từng ngành nghề kinh doanh, từng loại
hình doanh nghiệp và được gọi chung là vốn pháp định.
Ngành nghề kinh doanh cũng là một trong những vấn đề mà các doanh
nghiệp quan tâm. Để quản lý việc đăng ký kinh doanh có hiệu quả thì Nhà
nước đã có những quy định cụ thể về ngành, nghề kinh doanh như: ngành,
nghề cấm kinh doanh; ngành nghề kinh doanh có điều kiện; ngành nghề kinh
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
20
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh phải có vốn pháp định; ngành nghề kinh doanh phải có giấp phép hoặc
chứng chỉ hành nghề
2
.
2.2. Thẩm quyền thành lập doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã quy định một chế độ một cửa, đơn giản
hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt xóa bỏ cơ chế “xin - cho” chuyển sang cơ
chế “đăng ký” đã thừa nhận hoàn toàn quyền tự chủ cho các nhà đầu tư, cơ quan
Nhà nước chỉ là người “ghi nhận” mà không có quyền cho phép như trước kia.
Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Điều 3 Nghị định số
02/2000/NĐ - CP của Chính phủ ngày 3/2/2000 về đăng ký kinh doanh. Theo đó
cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và ở quận huyện, thành phố thuộc tỉnh bao gồm:

- Phòng Đăng ký kinh doanh trong Sở Kế hoạch và Đầu tư ( gọi chung là
Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh ).
- Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân huyện ( gọi chung là
Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện ).
2.3. Thủ tục tiến hành đăng ký kinh doanh
Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh được pháp luật quy định cụ thể
tại Điều 12 Luật Doanh nghiệp và được cụ thể hóa tại Điều 8 Nghị định số
02/2000/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh qua
các bước sau:
- Thứ nhất là nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh: Theo quy định tại khoản 1
Điều 8 Nghị định số 02/2000/NĐ - CP thì: “Người thành lập doanh nghiệp hoặc
2
Danh mục cần chứng chỉ hành nghề được quy định tại điều 6 nghị định 02/2000/NĐ- CP ngày 03 tháng 02
năm 2000 hướng dẫn thi hành một số điều của luật Doanh nghiệp 1999
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
21
Chuyên đề tốt nghiệp
người đại diện nộp đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 7 Nghị định này tại phòng
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính”.
- Thứ hai là tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh: Theo Khoản 2,3 Điều 12
Luật Doanh nghiệp thì: cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu
người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ quy
định tại Luật Doanh nghiệp đối với từng loại hình doanh nghiệp. Cơ quan đăng
ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh
và cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký kinh
doanh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh thì phải thông báo bằng văn bản cho người thành lập
doanh nghiệp biết.
- Cuối cùng là thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: Theo quy
định tại khoản 1 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì các doanh nghiệp

được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu có đủ các điều kiện sau:
+ Ngành nghề kinh doanh không thuộc đối tượng cấm kinh doanh;
+ Tên doanh nghiệp được đặt đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 24 của
Luật Doanh nghiệp;
+ Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định của pháp luật ;
+ Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.
Tóm lại, những quy định về đăng ký kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
1999 có những đặc thù sau:
- Đầu tiên đó là những quy định thống nhất thủ tục thành lập, đăng ký kinh
doanh cho các doanh nghiệp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, và doanh nghiệp tư nhân.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
22
Chuyên đề tốt nghiệp
- Thứ hai, đó là việc thực hiện các chủ trương cải cách hành chính mạnh
mẽ với các quy định mới về thành lập doanh nghiệp như: bãi bỏ thủ tục xin phép
( tức là xóa bỏ cơ chế xin- cho ), bỏ quy định về vốn pháp định,quy định việc cá
nhân tự kê khai và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về thủ tục đăng ký kinh
doanh đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy định về hồ sơ doanh nghiệp…
- Cuối cùng, song song với quy định của Luật Doanh nghiệp 1999, thì
các quy định về thành lập doanh nghiệp nhà nước ghi nhận trong các văn bản
luật riêng là Luật Doanh nghiệp nhà nước ( năm 1995 và năm 2003 ) và các
quy định về cấp giấy phép đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài cũng áp dụng
quy định riêng trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sửa
đổi bổ sung năm 2000).
3. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005
Sau hai thập niên đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi
mang tính đột phát, phát triển, năng động, hiệu quả. Nhất là sau khi Luật
Doanh nghiệp năm 1999 được ban hành, môi trường kinh doanh ở nước ta trở

nên thông thoáng hơn, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
được bình đẳng hơn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh; các nhà đầu tư
nước ngoài càng chú ý đến đầu tư tại Việt Nam. Luật Doanh nghiệp năm
1999 được triển khai thực hiện, góp phần phát huy được nội lực trong việc
xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên Luật Doanh
nghiệp năm 1999 chỉ mới “vực dậy” được khu vực kinh tế tư nhân trong nước,
luật vẫn còn một khoảng cách nhất định về chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài; vẫn còn tồn
tại, khiếm khuyết, thiếu nhất quán, thiếu minh bạch, thiếu sự bình đẳng đối
với các doanh nghiệp nói chung.
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Trước sự thay đổi và phát triển của xã hội như vậy, ngày 29/11/2005
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2005 điều
chỉnh tất cả các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong phạm vi
cả nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88 /2006/NĐ - CP ngày
29/08/2006 về đăng ký kinh doanh nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư
trong và ngoài nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Việc ban hành thống nhất Luật Doanh nghiệp đã trở thành giải pháp cơ
bản cần thiết đáp ứng yêu cầu nội tại khách quan về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khai thác mạnh mẽ mọi nguồn lực
trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế, khơi dậy tính năng động, tự tin của
các doanh nghiệp, doanh nhân, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
- một động lực quan trọng của sự phát triển. Việc ban hành một đạo luật thống
nhất để điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp là bước tiến quan trọng, tạo
khung pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, ổn định, minh
bạch và phù hợp, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế cho tất cả các
doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu.

Nội dung chính của Luật Doanh nghiệp năm 2005 bao gồm các vấn
đề sau:
Thứ nhất về điều kiện đăng ký kinh doanh
Kinh doanh là quyền tự do của mọi công dân và được pháp luật bảo vệ.
Nhưng không phải mọi chủ thể trong xã hội đều có thể tự do kinh doanh mà
bất chấp các điều kiện. Để bảo vệ cho chính các chủ thể đó cũng như các chủ
thể khác trong xã hội, pháp luật cũng đặt ra các điều kiện đăng ký kinh doanh
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
24
Chuyên đề tốt nghiệp
buộc các chủ thể phải tuân theo như: điều kiện về chủ thể kinh doanh, điều
kiện về ngành nghề kinh doanh,…
Thứ hai là đến thủ tục đăng ký kinh doanh
Khi nói đến thủ tục đăng ký kinh doanh có nghĩa là nói đến trình tự, thủ
tục mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kinh doanh và các
doanh nghiệp muốn đăng ký kinh doanh phải thực hiện khi đăng ký kinh
doanh. Thủ tục đăng ký kinh doanh thường quy định một số vấn đề như: nộp
hồ sơ đăng ký kinh doanh, tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Các thủ tục này được pháp luật quy định
một cách chặt chẽ và áp dụng thống nhất cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp để đảm bảo sự công bằng , minh bạch cho môi trường kinh doanh
trong xã hội.
Thứ ba là việc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh.
Hoạt động đăng ký kinh doanh chỉ có thể được thực hiện tốt nếu có
được một hệ thống các cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức hợp lý và
hiệu quả. Việc nhà nước thiết lập hệ thống các cơ quan đăng ký kinh doanh,
với sự phân định rõ ràng chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của chúng có một ý
nghĩa rất to lớn. Nó vừa đảm bảo thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận tiện cho
người dân khi phải tiếp xúc với cơ quan công quyền trong việc đăng ký kinh
doanh. Thông qua đó, Nhà nước cũng có thể kiểm soát tốt hơn hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp.
Tóm lại, quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 có một số điểm nổi bật
như sau:
Thứ nhất, quy định về thủ tục thành lập áp dụng thống nhất cho mọi
Đặng Duy Trường Luật kinh doanh 47
25

×