Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

LUẬT THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.49 KB, 3 trang )

Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
Ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp năm 1999 thể hiện
sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lí của các doanh nghiệp ở Việt
Nam và khẳng định vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại
hình doanh nghiệp khác. Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 qui định : “Doanh
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.”
Dấu hiệu pháp lý đầu tiên để nhận diện doanh nghiệp tư nhân đó là doanh
nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ. Doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá
nhân duy nhất làm chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ
tài sản của một cá nhân duy nhất. Phần vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân do
chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh và được ghi chép
đầy đủ vào sổ kế toán doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh
nghiệp tư nhân vẫn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư vì vậy hầu như không
có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp
tư nhân và tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Trong mọi thời
điểm, sư thay đỏi về mức vốn kinh doanh đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới
giữa phần tài sản và vốn đưa vào kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ
doanh nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm thời. Điều này chứng tỏ không thể tách
bạch tài sản doanh nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân đó.
Do doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ nên chủ doanh nghiệp
có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp. Đây là một ưu điểm của mô hình doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh
nghiệp không phải chia sẻ quyền quản lí doanh nghiệp với bất kì đối tượng nào
1
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
khác và có toàn quyền quyết định đối với tài sản và việc tổ chức quản lí doanh
nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất.


Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân sẽ thuộc
về một mình chủ doanh nghiệp sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và
bên thứ ba do chỉ có một chủ sở hữu nên không phải phân chia lợi nhuận với ai
khác. Việc được hưởng toàn bộ lợi nhuận từ việc kinh doanh của doanh nghiệp
có nghĩa là chủ doanh nghiệp cũng phải chịu toàn bộ rủi ro trong kinh doanh.
Dấu hiệu pháp lý thứ hai là chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô
hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư
nhân, nguyên nhân là do không có sự độc lập về tài sản giữa chủ doanh nghiệp
và doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo
sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng
buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác. Nhưng chế đọ
chịu trách nhiệm tài sản vô hạn cũng là một hạn chế đối với mô hình doanh
nghiệp tư nhân bởi vì chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đã đăng kí mà
còn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp vốn
đăng kí không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Nếu tại
thời điểm hiện tại chủ doanh nghiệp không còn tài sản thì khoản nợ sẽ được
khoanh lại khi nào có tài sản sẽ tiếp tục trả nợ cho đến khi nào hết nợ thì thôi. Vì
đặc trưng pháp lý cơ bản này nên doanh nghiệp tư nhân còn phải chịu một số hạn
chế khác như không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào làm cho doanh
nghiệp không huy động được nguồn vốn, chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được
thành lập một doanh nghiệp tư nhân duy nhất. Điều này khiến cho không ít nhà
đầu tư không muốn kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân.
Dấu hiệu pháp lý thứ ba đó là doanh nghiệp tư nhân không có tư cách
pháp nhân, và là loại hình doanh nghiệp duy nhất không có tư cách pháp nhân.
2
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
Theo qui định tại điều 84 bộ Luật dân sự năm 2005 thì pháp nhân phải có đủ 4
điều kiện, và doanh nghiệp tư nhân không có điều kiện thứ 3 đó là phải có tài sản
độc lập với cá nhân, tổ chức khác, và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó

(Doanh nghiệp tư nhân không có sự tách biệt giữa tài sản chủ doanh nghiệp và
doanh nghiệp ) nên doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Điều này
khiến cho doanh nghiệp tư nhân gặp phải một số khó khăn nhất định và bị hạn
chế ít nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp luật hiện
hành.
3

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×