Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh_Luyện thi đại học môn Văn theo chuyên đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.18 KB, 23 trang )

Ôn thi Đại học môn Văn theo chuyên đề:
Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
Câu 1: Nêu giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật của Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh).
Gợi ý trả lời:
- Giá trị lịch sử:
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ
thực dân, phong kiến; là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của Việt Nam với thế
giới; là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập tự do trên đất nước ta.
- Giá trị nghệ thuật:
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận đặc sắc, mẫu mực; lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén,
bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, giọng văn đầy cảm xúc…
Câu 2: Giải thích vì sao mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn
Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
Gợi ý trả lời:
- Hồ Chí Minh trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Pháp để làm căn cứ pháp lý cho bản Tuyên ngôn của Việt Nam vì đây là những
bản Tuyên ngôn tiến bộ, được cả thế giới thừa nhận.
- Người trích dẫn bản Tuyên ngôn của Mỹ là để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và phe Đồng minh.
- Người trích Tuyên ngôn của Pháp để sau đó là buộc tội Pháp đã lợi dụng lá cờ “tự do, bình
đẳng, bác ái”đến cướp nước ta, làm trái với tinh thần tiến bộ của chính bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp.
- Hồ Chí Minh trích dẫn 2 bản Tuyên ngôn Độc lập của hai nước lớn là vì tác giả muốn tạo vị thế ngang
hàng của Việt Nam với các nước đó, có cơ sở pháp lí vững vàng kết hợp với lập luận khéo léo vừa thể
hiện thái độ trân trọng, tiếp nhận của người Việt vừa hàm ý cảnh báo Pháp và Mỹ đừng đi ngược lại
những gì của chính đất nước họ
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí
Minh.
Gợi ý trả lời:
1. Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập, nêu hai giá trị cơ bản của bản Tuyên
ngôn, đó là giá trị lịch sử và giá trị văn chương
Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí


Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hồ
Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà
Nội, Người thay mặt chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn
độc lập trước hàng chục vạn đồng bào. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa
Lịch sử vô cùng to lớn, vừa có giá trị văn chương cao.
2. Giá trị lịch sử
Về mặt lịch sử, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc:
kỉ nguyên của độc lập, tự do, đánh đổ chế độ phong kiến hàng mấy mươi thế kỉ, đánh đổ ách đô
hộ của thực dân Pháp hơn tám mươi năm, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Bán Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh còn là sự khẳng định tuyên bố với thế giới rằng
nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, không ai có quyền xâm phạm được.
So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất (Nam quốc sơn hà - Lí Thường Kiệt) và bản
Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai (Bình Ngô đại cao - Nguyễn Trãi) thì bản Tuyên ngôn Độc lập
của Hồ Chí Minh đã vươn lên một tầm cao mới, vượt hơn ở tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh
thần dân chủ, tự do có kết hợp với truyền thống yêu nước và tư tưởng nhân đạo của dân tộc.
3. Giá trị văn chương
Về mặt văn chương, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn, chưa tới một
ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và cô đọng.
Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong
phần một, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền để làm cơ sở pháp
lí cho bản Tuyên ngôn. Trong phần này Bác đã nêu lên hai bản Tuyên ngôn, đó là bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791 để khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người: “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc" (Tuyên
ngôn độc lập của nước Mĩ, 1776), “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Cách mạng
Pháp, 1791)
Việc dẫn hai bản tuyên ngôn này, Bác đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của ta ngang hàng

với các bản Tuyên ngôn của các nước lớn như Pháp và Mĩ. Từ đó khẳng định quyền thiêng liêng
của mỗi con người, Bác đã nâng lên thành quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc: “suy rộng ra, câu
ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản Tuyên ngôn. Nếu trong phần thứ nhất
Bác khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là quyền được sống,
được tự do, được độc lập và mưu cầu hạnh phúc thì trong phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, Bác
đã vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng
thật dã man, vô nhân đạo, đi ngược lại tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của cách mạng Pháp, vạch rõ bản chất gian xảo của bọn thực dân Pháp. Trong phần này Bác lại
nêu rõ tinh thần nhân đạo, yêu độc lập lự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc lập của
dân tộc ta. Đến phần thứ ba (phần cuối) Bác lại nói về kết quả của tinh thần yêu nước, yêu độc
lập tự do của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế giới rằng “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập”.
Như vậy, ta thấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có một kết câu, bố cục khá
chặt chẽ. Hơn nữa, lời lẽ của bản Tuyên ngôn khá hùng hồn, nhịp điệu câu văn khá dồn dập, sắc
cạnh. Có những câu văn thật ngắn gọn nhưng lại diễn đạt một ý nghĩa vô cùng phong phú như
câu “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu văn chỉ có chín từ thôi nhưng lại diễn đạt
được bao biến động của thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập này Bác đã sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ: điệp
từ, điệp ngữ như Bác sử dụng khá độc đáo điệp từ “sự thật”. Điệp từ này được Bác nhắc đi
nhắc lại nhiều lần để cho mọi người thấy rõ chân lí phải đi từ sự thật. Sự thật là điều chứng minh
rõ cho chân lí. Và từ đó Bác đã vạch trần cái luận điệu “bảo hộ Đông Dương", “khai hóa văn
minh" của thực dân Pháp; đồng thời cũng để khẳng định lòng yêu độc lập tự do, tinh thần quyết
tâm đấu tranh để giành và giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc. Cách dùng điệp từ này còn
làm cho bản Tuyên ngôn mang tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, Bác còn sử dụng rất thành
công phép liệt kê để vạch rõ tội ác của kẻ thù đã gieo rắc cho nhân dân ta, đất nước ta trên nhiều
lĩnh vực từ chính trị đến văn hóa, kinh tế
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác còn dùng phép tăng cấp: “ tuyên bố thoát li hẳn quan
hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất củ

mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Với phép tăng cấp này, Bác đã thể hiện cao độ
tinh thần độc lập tự chủ của cả dân tộc.
Qua những điều trình bày trên, ta thấy rõ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có một giá
trị văn chương lớn.
4. Khái quát lại giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn độc lập
Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn vừa có
giá trị văn chương cao. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là kết quả của bao nhiêu máu
đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Năm trong nhà tù,
trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản “Tuyên
ngôn độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu
nhân dân Việt Nam" (Trần Dân Tiên - Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh).
Câu 4: Phân tích phần tuyên ngôn trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị để giữ vững quyền tự do độc lập ấy. Để nêu rõ: Ý nghĩa
sâu sắc của phần tuyên ngôn- Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục
Gợi ý trả lời:
Giới thiệu kết cấu bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
Nhấn mạnh "phần tuyên ngôn" và hai yêu cầu của đề bài.
Ý nghĩa sâu sắc của phần tuyên ngôn
Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn độc lập rất sâu sắc và tiến bộ
Đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc
lập.
Đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa
Như vậy là cùng một lúc, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc
lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân để đưa nước Việt Nam sang một kỉ nguyên mới, kỉ
nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội (Bình Ngô đại cáo xưa kia. do lịch sử, chỉ mới giải
quyết được độc lập dân tộc).
Nội dung tuyên ngôn đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát
Tuyên bố thoát li và xóa bỏ mọi ràng buộc với Pháp (về quan hệ, hiệp ước, đặc quyền)
Tuyên bố với thế giới về độc lập và tự do của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên cả ba
phương diện:

Có quyền hưởng tự do và độc lập
Sự thật đã thành một nước tự do và độc lập.
Quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện đầy sức thuyết phục.
Lập luận chặt chẽ
Lời tổng kết tình hình trong một câu ngắn gọn, hàm súc: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị"
Nêu ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn độc lập bằng hai câu gọn, rõ.
Tuyên bố với Pháp: "thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp
đã kí về nước Việt Nam (về chứ không phải với), xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất
Việt Nam" (chữ dùng chính xác và dứt khoát).
Tranh thủ các nước Đồng minh (tin rằng , quyết không thể không) công nhận quyền độc lập của
dân tộc Việt Nam.
Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam một cách mạnh mẽ bằng những điệp ngữ
được láy đi láy lại ("Một dân tộc đã gan góc , dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập!")
Những điều trên đây là tiền đề về lí luận đồng thời cũng là để tạo không khí đưa bài văn đến cao
trào, đến lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng với thế giới về ba phương diện của một
nước Việt Nam tự do, độc lập.
Giọng văn hùng biện
Phần lập luận trên đây cũng cho ta thấy giọng văn hùng biện qua cách dùng từ, qua điệp ngữ, qua
lời văn trang trọng và giọng văn đanh thép, dứt khoát, khẳng định.
Tất cả các điểm trên đã làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ của "phần tuyên ngôn" trong bản
Tuyên ngôn độc lập lịch sử này. Đó là do tài nghệ của tác giả, nhưng nguồn gốc sâu xa lại chính
là ở tấm lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết và ý chí độc lập tự do đã trở thành máu thịt, tâm hồn
của người Việt.
Câu 5: Giá trị lịch sử và chất chính luận trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Gợi ý trả lời:
Theo chiều dài bốn ngàn năm của lịch sử dân tộc có nhiều dấu mốc đáng ghi nhớ gắn với sự
nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc lớn ấy là sự kiện Cách mạng tháng

Tám (1945) thành công, nước Việt Nam được khai sinh. Để tuyên bố với nhân dân cả nước và
thế giới biết nước Việt Nam từ nay độc lập, Hồ Chi Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập. Một văn
kiện đặc biệt vừa mang tính văn học, vừa mang tính lịch sử.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chù
Cộng hoà, mở ra một kỉ nguyên mới: Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ. Cả một vùng
trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: "Tôi
nói, đồng bào nghe rõ không?'. Tức thì một tiếng "có" của một triệu con người cùng đáp, vang
dậy như sấm.
"Việt Nam độc lập muôn năml" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hoà làm một,
vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:
"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải
để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy."
Có thể nói: Bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức
mạnh Việt Nam Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất,
tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt mờ đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lí lịch sử: "Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng
cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ năm 1776:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc".
Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791:
Ngươi ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi".

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: "Tất cả các dân tộc trên thế
giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung suớng và quyền tự do",
và đi tới khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao
cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lí tưởng thời đại về tự do, bình
đẳng, bắc ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng
liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu
chiến đấu của nhân dân ta, của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hô
Chí Minh.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch
vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ qua. Chúng
vô cùng xảo quyệt và dã man "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp
bức đồng bào ta". Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp
trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê
tờm về chính trị và bốn tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước doạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để trị;
đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bẳng rượu cồn và thuốc phiện "để làm
cho nòi giống ta suy nhược". Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân
"cuồng Minh":"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".
Hơn 500 năm sau. trong Tuyên ngôn Độc lập, người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chi Minh
viết:
“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu
nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ
"chúng" được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể mỉa mai (lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách dùng hình
ảnh (bể máu) - tất cả tạo nên :phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ,
đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho "dân
ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu;
độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, v.v Lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo

của chúng, tác giả căm giận viết: "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là
dân cày và dân buôn trở nên bần cùng". Hàng trăm thứ thuể vô lí ấy của thực dân Pháp đặt ra,
nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tờm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa
thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật. Pháp và Nhật đã
cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm hoạ năm Ất Dậu, 1945: "Từ đó, dân ta chịu
hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm
ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị, đến Bắc kì, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói.
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính
Pháp, quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng. Tác giả châm biếm lên án: "Chúng chẳng những không
"bảo hộ" được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật.". Thậm tệ và tàn
nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy "chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái
và Cao Bằng".
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
một sự thật lịch sử. Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trờ thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải
thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp
đang âm mưu tái chiếm Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố: "Sự thật là dân ta đã lấy
lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phài từ tay Pháp".
Tuyên ngôn độc lập có giả trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới:
"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: "Dân
ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc
lập". Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: "Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi
thế ki mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà".
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một
thế lực thù địch nào có thể lay chuỵền nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc
kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Đồng thời mạnh
mẽ tuyên bố: Thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước
Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tác giả tự hào nêu cao
truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định:

"Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập.
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề
thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức
mạnh Việt Nam:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lục luợng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Tuỵên ngôn độc lập đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ
Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: Viết
nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết như thế nào? Đối tượng của Tuyên ngôn
độc lập không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là nói với bọn
đế quốc, thực dân đang âm mưụ tái chiếm Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về
những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.
Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản Tuyên ngôn Độc lập là những bằng
chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội mà bao hàm nhiều ý nghĩa vạch trần tội ác,
như một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Đó là chính
sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.
Lời viết ngắn gọn, hàm súc, đẩy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện
chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vỉ'. Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác
và gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng có lúc xuất hiện
những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể
máu. Cách dùng từ ngữ nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác, vừa đanh thép: "thẳng tay
chém giết '', "thoát li hẳn ", "xoá bỏ hết ", "xoá bỏ tất cả ". Văn phong của Bác rất nhuần
nhị, uyển chuỵển trong cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp
tạo nên những câu văn đẹp, ý tường sâu sắc, đầy ấn tượng:
"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc, đã gan
góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải đuực tự do! Dân tộc
đó phải được độc lập!''.
Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số
48 phố Hàng Ngang - Hậ Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-

1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo
Tuyên ngôn Độc lập là những giờ phút sảng khoái nhất của Người.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập vừa có giá trị lịch sử to lớn, vừa mang những
nét tiêu biểu cho văn chương chính luận của Hồ Chi Minh. Nó vừa kế thừa, phát huy được giá trị
của lịch sử vừa mang tính thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập sẽ còn mãi trong lịch sử dân tộc
như dấu ấn khai sinh nước Việt Nam mới, và cũng là áng hùng văn góp phần làm phong phú
thêm kho tàng văn học Việt Nam.
Câu 6: Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn lại những câu ghi trong bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp: -Tất cả mọi người -Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng Hãy phân tích ý nghĩa của câu trên
Gợi ý trả lời:
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận. Mục đích của văn bản chính luận là thuyết phục
người khác bằng hệ thống lập luận, với những lí lẽ chắc chắn, những bằng chứng sống động. Trong tranh
luận, để bác bỏ một luận điệu của kẻ khác, cách hay nhất là dùng chính lí lẽ của họ.
Đối với dân tộc ta, bản Tuyên ngôn Độc lập mở đầu cho một thời đại mới. Vì thế, nó phải xuất
phát từ những nguyên tắc của thời đại. Nguyên tắc ấy, Hồ Chí Minh tìm thấy ở những bản Tuyên ngôn
Độc lập cùa nước Pháp và Mĩ, tức là những nước tư bản, đế quốc, họ còn là những nước Đồng minh.
Nguyên tắc ấy là gì? Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc (Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ) và Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng vè quyền lợi (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùa
Pháp). Từ những nguyên tắc ấy, Hồ Chí Minh suy rộng ra rằng Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do và khẳng định Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được. Như vậy, trích dẫn tuyên ngôn của các nước, Hồ Chí Minh nêu lên
quyền độc lập tự do của các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, là lẽ phải trong quan hệ quốc tế. Lẽ
phải ấy không phải do người Việt Nam nghĩ ra, mà chính là do các nước lớn đó xác lập.
-Việc trích dẫn các bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và Pháp thế hiện Hò Chí Minh là người hiểu biết
sâu sắc và rất trân trọng những giá trị tư tường, văn hóa lớn của nhân loại. Đồng thời, đây cũng là cách
nhắc khéo thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đừng phản bội lại tổ tiên, đừng đi ngược lại lá cờ nhân đạo mà
cha ông họ đã giương lên.

-Cách trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cùa nước
Pháp ở bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “cũng có nghĩa đặt ba cuộc cách
mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ
Chí Minh dường như muôn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa khi mở đầu tác
phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường,
Tống, Nguyên của “Bắc Quốc”.
Câu 7: Giá trị lịch sử và nhân văn của Tuyên ngôn Độc lập.
Gợi ý trả lời:
60 năm Quổc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là 60 năm dân tộc ta có
bản Tuyên ngôn Độc lập - áng thiên cổ hùng văn thứ ba, tiếp nối thơ Thần được tương truyền là của Lý
thường kiệt (thế kỉ XI) và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (thế kỉ XV)
Thông thường bất cứ tác phẩm văn học nào cũng gắn liền với số phận củạ một cá nhân nào
đó. Tuyên ngôn Độc lập lại là một trường hợp khác. Đáy là áng văn đặc biệt, có thể nhìn nhận từ nhiều
góc độ: sử học, văn học, triết học, pháp lí và lại gắn liền với số phận của cả một dân tộc, một quốc gia.
Một ngày ghi mãi sử xanh:
Trong vòng 10 ngày, từ 19-8-1945, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết trong mặt trận
Việt Minh, đã dựng lên tổng khởi nghĩa làm chủ toàn bộ đất nước. Sau Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào,
ngày 26-8 Hồ Chủ tịch trở về Hà Nội, chuẩn bị cho việc ra mắt chính quyền mới và chinh thức công bố
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam . Trên tầng hai của ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang, Bác Hồ đã chủ trì
phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng đầu tiên ở Hà Nội và bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn Độc
lập. Văn bàn này được Bác Hồ đọc giữa trưa ngày mùng hai tháng chín năm 1945, trước nửa triệu đồng
bào, tại quảng trường Ba Đình.
Một văn kiện lịch sử to lớn:
Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ có vẻn vẹn 1.120 từ. Thế nhưng, những giá trị lịch sử của nó lại hết sức
to lớn. Cho đến nay, không ai có thể tìm được một văn bản thứ hai, khái quát đầy đủ, toàn diện về lịch
sử Việt Nam của hơn 80 năm trước ngày độc lập. Ở đó, có những đánh giá khái quát: hơn 80 năm nay,
bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta.
Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Lại có những chi tiết thật cụ thể, điển
hình: Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Nam đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn
thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua

chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bàng.
Song, giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập không chỉ ở sự khái quát lịch sử. Với trí tuệ mẫn tiệp
đến kì lạ, Hồ Chủ Tịch đã phân tích thế cuộc trong và ngoài nước một cách sắc sảo và dự báo những gì sẽ
diễn ra sau đó. Vì thế, giữa Ba Đình, trên đất nước Việt Nam, Người “trịnh trọng tuyên bố với thế giới
rằng”: Nước Việt Nam có quyển hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, và độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy. Hai cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc ta sau đó đã được Bác Hồ
chuẩn bị tâm thế từ buổi trưa mùa thu lịch sử ấy! Điều này cũng giải thích vì sao sau khi viết xong
bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ dành cho ông Archimedes L. A Patti, một người Mĩ trong toán OSS, sau
này trở thành nhà báo nổi tiếng, vinh dự làm người đầu tiên được nghe toàn vộ văn kiện đặc biệt này
trước khi Người công bố với quốc dân và thế giới (Archimedes L. A Patti, Tại sao Việt Nam?).
Nền tảng của chủ nghĩa nhân văn mới.
Năm 1946, trả lời các nhà báo Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bực là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai củng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Sau này, khi đất nước bị chia cắt, Người nói: Miền Nam trong
trái tim tôi. Còn trước đó, ở Tuyên ngôn Độc lập, một văn bản chính trị, Bác Hồ vẫn không giấu tình cảm
của mình. Trái tim Người nghẹn ngào khi nói về những nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách đô hộ của
thực dân, phát xít: Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của dân ta trong bể máu Từ đó dân ta càng cực khổ,
nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Ki, hơn hai triệu đồng
bào ta chết đói. Nhưng trái tim ấy cũng vang lên sung sướng, tự hào khi: Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập Một dân tộc đã gan góc chống
ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải dược tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Hồ Chủ tịch là người yêu nước, dĩ nhiên phải chứa chất lòng căm thù thực dân Pháp. Song, Bác lại là
người có trái tim nhân hậu lớn. Trái tim ấy thuộc về truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trước thế giới,
Người nói về nhân nghĩa mà dân tộc này đã đối xử với kẻ thù cùa mình: đối với người Pháp, đồng bào
ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp
cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ
tính mạng và tài sản cho họ.
Không chỉ đấu tranh cho quyền độc lập, tự do của dân tộc, đất nước mình, Hồ Chí Minh còn khẳng

định: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do. Ngày nay, những lí lẽ như thế không phái xa lạ, nhưng không phải ở đâu trên trái
đất này cũng được tôn trọng. Còn 60 năm về trước, đây lại là điều hoàn toàn mới mẻ. Bác Hồ là vị lãnh
tụ đầu tiên trên thế giới đã gắn vấn đề quyền con người với quyền dân tộc. Ở Người, không có một chủ
nghĩa nhân đạo chung chung, trừu tượng, chủ nghĩa này được khởi thuỷ từ nhận định của K. Marx: Một
dân tộc đi áp bức dân tộc khác không phải là một dân tộc tự do. Và, cùng vì thể, không thể có quyền con
người khi quyền dân tộc chưa giành được. Chính chù nghĩa nhân đạo hiện thực và cách mạng này sẽ là
ngọn cờ tư tưởng cho phong trào giải phóng dán tộc ở các nước thuộc địa mấy mươi năm qua.
Với người cộng sản, lòng thương xót con người không chưa đủ. Tình thương ấy phải trở thành khát
vọng và hiện thực về cuộc sống tự do và hạnh phúc hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người như
thế.
Câu 8: Phân tích “phần tuyên ngôn” trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: Ý nghĩa sâu sắc của phần tuyên ngôn. Lập luận chật chẽ, giọng vân hùng biện đẩy sức
thuyết phục
Gợi ý trả lời:
1. Ý nghĩa sâu sắc của “phần tuyên ngôn” trong bản Tuyên ngôn Độc lập
a.Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập rất sâu sắc và tiến bộ.
-Đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập.
-Đánh đổ chế độ quán chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Như vậy là, cùng một lúc, Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: Độc lập cho
dân tộc và dân chủ cho nhân dân để đưa nước Việt Nam sang một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của độc lập
- tự do và chủ nghĩa xã hội (Bình ngô đại cáo xưa kia, do lịch sử, chỉ mới giải quyết được độc lập dân tộc).
b.Nội dung tuyên ngôn: đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát:
-Tuyên bố thoát li và xóa bỏ mọi điều với Pháp (về quan hệ, hiệp ước, đặc quyền).
-Tuyên bố với thế giới về độc lập và tự do của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên cả ba phương
diện.
+ Có quyền hưởng tự do và độc lập.
+ Sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
+ Quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
2. Lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng biện dầy sức thuyết phục.

a. Lập luận chặt chẽ.
- Lời tổng kết tình hình trong một câu ngắn gọn, hàm súc: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
- Nêu ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập bằng hai câu gọn, rõ.
-Tuyên bố với Pháp: “thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước
Việt Nam (về chứ không phải với), xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam (chữ dùng
chính xác và dứt khoát).
- Tranh thủ các nước Đồng minh (“tin rằng” , “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân
Việt Nam”.
- Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam một cách mạnh mẽ bằng những điệp ngữ được
láy đi láy lại (“Một dân tộc đã gan góc ; dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”).
Những điều trên đây là tiền đề về lí luận đồng thời cũng là để tạo không khí đưa bài văn đến cao
trào, đến lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng với thế giới về ba phương diện của một nước
Việt Nam tự do, độc lập.
b. Giọng văn hùng biện: Phần lập luận trên đây cũng đã cho ta thấy rõ giọng văn hùng biện qua cách
dùng từ, qua điệp ngữ, qua lời văn trang trọng và giọng văn đanh thép, dứt khoát, khẳng định.
Tất cả đã làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ của “phần tuyên ngôn” trong bản Tuyên ngôn Độc
lập lịch sử này. Đó là do tài nghệ của tác giả, nhưng nguồn gốc sâu xa lại chính là ở tấm lòng yêu nước
nồng nàn, tha thiết và ý chí độc lập tự do đã trở thành máu thịt tâm hồn của người viết.
Câu 9: Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao
tay: chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích đế làm sáng tỏ điều đó.
Gợi ý trả lời:
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận.
Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa
nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài.
Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác
không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”.
Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ,

người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thông tư tưởng và văn hoá
của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng”
bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều
này).
Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhận đạo
của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xám lược Việt Nam.
Đoạn mở đầu bản Tuvên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng
trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang
hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc
Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của
Pháp (1791).
Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập cùa Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu
ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối
với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng
ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng
đã chứng tỏ điều này).
Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc,
lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu
mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ
Câu 10: Có ý kiến đánh giá: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện đầy sức thuyết phục”. Hãy phân tích
để làm sáng tỏ nhận định trên
Gợi ý trả lời:
Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện những áng văn bất hủ,
đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những bản tuyên ngôn nổi
tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc Lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền cùa Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó
là Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và Tuyên ngôn Độc lập tự do Chủ tịch Hồ Chí Minh
soạn thảo và đọc ngày 2-9- 1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử.

Tuyên ngôn Độc lập cùa Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có trị lịch sử to lớn, một
bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết
phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả của “bao nhiêu hi vọng,gắng
sức và tin tường” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội . Tại căn nhà số 48 phố
Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó. Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 50 vạn đồng bào.
Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng ta sẽ
không hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu không trở lại với không khí chinh trị căng thẳng,
nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ.
Cho đến đầu mùa thu năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển mau lẹ. Cuộc Chiến tranh
thế giới lần thứ hai đang đi vào những ngày cuối. Sự cáo chung của phe phát xít và sự toàn thắng của
quân Đồng minh sẽ là một két cục không thể đảo ngược. Chớp lấy thời cơ đó, nhân dân ta, dưới sự tổ
chức và chỉ đạo của Việt Minh đã vùng lên cướp lấy chính quyền. Chỉ trong vòng một tuần lễ “sao vàng
năm cánh” không còn là “mộng” nữa mà đã tung bay khắp ôba miền. Nhưng cũng chính lúc này, nhiều
đế quốc bắt đầu nhòm ngó Đông Dương và không giấu giếm ý đồ thôn tính nước ta. Hội nghị Posdame
tháng 7-1945 đã quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Chính phủ Pháp cho
tướng De Gaulle đại diện, tuyên bố : sẽ tổ chức “Liên bang Đông Dương” thành năm nước! Không thể
chần chừ, Việt Nam cần phải tuyên bố độc lập!
Bản Tuyên Ngôn, vì thế đã đóng vai trò hoàn tất một sứ mệnh lịch sử. Không còn nghi ngờ gì nữa,
sự ra đời đúng lúc của bản Tuyèn ngôn Độc lập đã chặn đứng ảm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân
Pháp chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam các đế quốc khác, mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa
ở châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao địa vị của dân tộc ta trên trường quốc tế.
Bản Tuyên ngôn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, năm năm cướp
bóc, giày xéo của phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy bản Tuyên ngôn
Độc lập đã thực sự khai sinh ra một. nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Bên cạnh những giá trị to lớn đã nói ở trên, bản Tuyên ngôn còn là một bản văn chính luận tiêu biểu
xuất sắc. Nó đã được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt Nam
đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng

hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết Hồ Chí Minh - Người con ưu tú của dân tộc - và bởi tự
bản thân tác phẩm - tiếng nói chân lí cùa thời đại.
Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của
Bản Tuyến ngôn Độc lập. ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có bố cục ngắn gọn, súc
tích như vậy.
Trước hết, là một thông điệp chính trị, bản Tuyên ngôn nhằm hướng tới những mục đích thức thời,
quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sôi, lửa bỏng. Trong một tình thế như vậy, sự ngắn gọn,
mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thông tin nhanh chóng và triệt để. Tất nhiên, không phải sự ngắn gọn nào
cũng tạo nên tính chất súc tích, cô đọng và không phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh.
Bản Tuyên ngôn dường như chỉ xoáy sâu vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính
líu tới Việt Nam của thực dân Pháp; thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền
độc lập đó.
Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn,
sáng sủa.
Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế
giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù, cho nên, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu bằng
việc viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của hai cường quốc Pháp và Mĩ, từ đó suy rộng ra về quyền
độc lập dân tộc (bên cạnh quyền con người và quyền công dân) như một lẽ phải không ai chối cãi được.
Vậy mà hơn 80 năm, thực dân Pháp (đã bất chấp lẽ phải ấy; chúng lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái
để nô dịch nhân dân ta. Hành động của chúng là sự chà đạp lên chân lí, trái với đạo lí và chính nghĩa, đi
ngược lại những lời tuyên ngôn mà Cách mạng Pháp đã đề ra. Không chỉ tố cáo những tội ác của thực
dân Pháp, tác giả bản Tuyên ngôn còn vạch trần bộ mặt phản bội của chúng, khẳng định một cách dứt
khoát quyền tự do, độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam.
Tất cả những lí lẽ và bằng chứng đưa ra đều được cấu trúc trong một hệ thống lập luận chặt chẽ, đanh
thép nhằm chống lại những ngụy thuyết thực dân, những mưu đồ xám lược của các lực lượng đế quốc
nhằm giữ vững chính quyền - vấn đề quan trọng nhất đối với vận mệnh dân tộc ta lúc bấy giờ.
Điều cần nói là, bản Tuyên ngôn đã không khởi đầu bằng việc nêu lên truyền thống chống ngoại xâm bảo
vệ chủ quyền dân tộc từng chói ngời trong sử sách qua các triều đại Đinh, Lí, Trần, Lê mà xuất phát từ
các nguyên tắc do chính các nước tư bản đã nêu ra và thừa nhận, đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng
minh. Rõ ràng trong lập luận, tác giả bản Tuyên ngôn vừa chứng tỏ sự tôn trọng thành quả văn hóa cùa

nhân loại, vừa ngầm buộc các cường quỗc phải tự ngẫm lại mình mà thừa nhận quyền độc lập của dân
tộc Việt Nam.
Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng hàng loạt sự
phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn, chúng cũng không thể nào chối
cãi được.
Để đánh tan những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như
một ngụy thuyết để rắp tâm quay trở lại thống trị đất nước ta, một lần nữa, tác giả vạch rõ: “Mùa thu
năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương đế mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực
đân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật.
( ) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa cùa
Pháp nữa.
( ) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, với sự thấu hiểu tình hình chính trị một cách sâu sắc, bằng
những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo trạng đanh thép lên án mạnh
mẽ tội ác của thực dân Pháp.
Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của bản Tuyên ngôn còn là ở sự chính xác và giàu sức biểu cảm của
hệ thông ngôn từ, chẳng hạn sau khi viện dẫn hai bản Tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai
bản Tuyên ngôn đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho
nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu ”, “chúng ràng buộc ( ), chúng bóc lột ( ), chúng cướp ( ), chúng giữ độc quyền ( ), chúng còn
nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ”. Khi tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, bản Tuyên
ngôn có những từ vừa chính xác, vừa chọn lọc: “xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ không
phải với) nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam ”. Ngoài ra,
việc sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng, vừa
bảo đảm chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người
nghe nhận ra và thừa nhận chân lí.
Tất cả những điều đó đã khẳng định trình độ nghệ thuật xuất sắc của tác giả, đưa Tuyên ngôn Độc
lập trở thành mẫu mực của thể văn chính luận.
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn đồng

thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập - mở đầu cho kỉ nguyên độc lập,
tự do, tạo điều kiện cho mọi thay đổi căn bản của đời sống dân tộc trong đó có văn học.
Câu 11: Phân tích “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh
Gợi ý trả lời:
Trong số những tác phẩm của Bác có những kiệt tác sánh ngang với các thiên cổ hùng văn
của dân tộc thì Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn
thống thiết, có lí luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe-
Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của
những con người anh hùng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trong những hải đảo xa
xôi, trên máy chém, trên chiến trường. “Bản tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi
vong, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).Tuyên
ngôn Độc lập mở đầu là nêu thẳng vấn đề. Người nêu những căn cứ pháp lí, “những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Đó là những câu tuyên bố nổi tiếng được Bác rút ra từ hai bản tuyên
ngôn nổi tiếng của Pháp và Mĩ. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi
người đều sinh ra… mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật tính phổ biến của những lẽ phải, Người
còn nêu những lời trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta
sinh ra… về quyền lợi). Cách nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ
ra tôn trọng chân lí chung dù chân lí ấy của các nước đang là kẻ thù gây ra. Cách nêu dẫn chứng
ấy cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà
đạp lên chân lí, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Đó là cách dùng lí lẽ của
kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng gậy ông đập lưng ông. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều
nhấn mạnh quyền con người, Bác nói thêm về quyền dân tộc. Câu nói của Người mở đầu cho
trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang
hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.Bác lập luận như vậy là để kết tội thực dân Pháp. Những lời
bất hủ trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực
dân Pháp. “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi kết thúc một cách
khai quát tôị ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên những dẫn chứng cụ thể để lật mật nạ
“bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho…
dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như:
“Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác

chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự
tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước… chúng tắm các
cuộc… bể máu”.Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc
lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày và dân buôn trở
nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy là Bác
muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ nền Độc lập.
Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì luôn
thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một ke thù là thực dân Pháp
nhưng tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập lụân đanh thép cùng với
những dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết đường lẩn tránh tội ác.Tội ác lớn nhất của thực dân
Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căm cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quì gối đầu hàng, mở cửa
nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân
ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc
Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”.Tác giả cũng không bỏ xót nhữung tội ác khác của bọn thực
dân Pháp như “trong năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn
nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.”Người kết tội thực dân Pháp một
cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tan bạo, dã man của thực dân Pháp,
lột mặt nạ “khai hoá’, “bảo hộ” của chúng trước nhân dân thế giới, khơI lòng căm thù của nhân
dân ta với thực dân Pháp.Tác giả biếu dương sức mạnh dân tộc tỏngcông cuộc chống thực dân
phong kiến và giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn
văn này diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác
dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Biểu dương
truyền thống bất khuất của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý
chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.Tiếp theo, Người
nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng
của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt minh đã đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp
và phát xít Nhật và đã giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của
đất nước bẳng những câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”.Trên cơ sở ấy, Người tuyên bố
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá

bỏ trên đất nước Việt Nam…”Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độp
lập. Người nêu lời thề “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cảI để giữ
vững quyền tự do Độc lập ấy”- Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm
huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách của một dân tộc đang vùng dậy chống đế
quốc, thực dân phong kiến, giành Độc lập tự do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu
tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do và Độc lập và nhân
dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền Độc lập của dân tộc Việt Nam.Tuyên
ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lích sử. Nó là bản văn quan trọng bậc nhất của nước ta.
Để có được Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm
chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai
đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: ki
nguyên Độc lập tự do.Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, thống
thiết, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế giới và các
thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hích tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi
Câu 12: Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Gợi ý trả lời:
Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng trong niềm sung sướng hân hoan cách mạng tháng Tám thành
công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa họ qua ngưỡng cửa tối
tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp,
trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản
tuyên ngôn được Hồ chủ tịch viết ra trong một tâm trạng vui sướng nhất. Bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ,
bằng những xúc cảm mãnh liệt, người đã truyền đến triệu trái tim nhân dân những rung động sâu xa và
thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ
quyền của nước ta.
Toàn văn bản tuyên ngôn không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ nhưng vô cùng
chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo
một bố cục chặt chẽ mạch lạc
Phần đầu bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai

bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản “Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền" của Pháp có dụng ý sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau khi nước Mỹ đấu
tranh giành độc lập thành công. Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” cũng ra đời trong chiến
thắng của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những thị dân và nông dân phản kháng lại áp bức, bất
công. Lời lẽ của hai bản tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lý, lại đại diện cho những cuộc
cách mạng có tính tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới, mang tính công pháp
quốc tế, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy sự hiểu biết và cân
nhắc kĩ càng của vị Chủ tịch trích dẫn những chân lý đó. Hơn thế Người còn vận dụng sáng tạo: “Suy rộng
ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả dân lộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do". Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một
cách tổng quát và cũng đầy thuyết phục. Điều đáng nói hơn nữa là ngay ở đoạn đầu này, cũng chính là
lời trích dẫn bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” đã tỏa ra sức chiến đấu mạnh mẽ và tiềm tàng
của Tuyên ngôn độc lập. Bởi vì chính phủ Pháp, chính phủ phụng sự cho tinh thần của "Tuyên ngôn nhân
quyền" đầy lẽ phải kia lại đang thi hành những hành động trái ngược hẳn; “Thế mà hơn tám mươi năm
nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính
nghĩa”. Rõ ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày một cách hiển nhiên: bản chất của
thực dân Pháp ở Việt Nam là trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa, kết thúc phần này là một câu khẳng
định ngắn gọn và đầy sức thuyết phục.
Mở rộng hơn, phần hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất
nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng tước đoạt tự do chính trị “tuyệt đối
không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào ", uchúng thẳng tay chém giết những người
tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng", “chúng thi hành những luật pháp dã man", "chúng lập ba chế độ
khác nhau ở Trunq, Nam, Bắc, để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết" Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả xé toang chiêu bài "khai hóa, bảo hộ" giả
dối bịp bợm bấy lâu chúng dùng để che đậy những việc làm xấu xa độc ác. Từ những hành động tàn
nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết những người tù chính trị tác giả dẫn dắt chúng
ta đến những hành động nhân đạo. Chúng ta chống phát xít, chúng ta đứng về phía mặt trận dân chủ
chống phát xít, chúng ta có vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới chính do sức mạnh tự thân của dân
tộc.
Tự do vừa giành được ấy thật vô giá, để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hy

sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Ấy thế mà vẫn còn bao nhiêu thế lực thù trong giặc ngoài đến,
lúc bấy giờ đang tăm tia bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ, hiểu được điều
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới,
đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh
dấu thắng lợi đầu tiên của một nước thuộc địa châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn
chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn ở lý lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính
xác, mạnh mẽ, ở câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích
lệ, động viên tinh thần nhân dân, và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.
Câu 13: Anh (chị) hãy phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ
Chí Minh.
Gợi ý trả lời:
1.Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập, nêu hai giá trị cơ bản của bản Tuyên ngôn, đó
là giá trị lịch sử và giá trị văn chương
Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã soạn
thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Người thay mặt chính
phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng chục vạn đồng
bào. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa Lịch sử vô cùng to lớn, vừa có giá trị văn
chương cao.
2. Giá trị lịch sử
Về mặt lịch sử, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: kỉ nguyên của
độc lập, tự do, đánh đổ chế độ phong kiến hàng mấy mươi thế kỉ, đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp
hơn tám mươi năm, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh Việt Nam.
Bán Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh còn là sự khẳng định tuyên bố với thế giới rằng nước Việt Nam
là một nước độc lập, có chủ quyền, không ai có quyền xâm phạm được.
So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất (Nam quốc sơn hà - Lí Thường Kiệt) và bản Tuyên ngôn Độc
lập lần thứ hai (Bình Ngô đại cao - Nguyễn Trãi) thì bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã vươn lên
một tầm cao mới, vượt hơn ở tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh thần dân chủ, tự do có kết hợp với

truyền thống yêu nước và tư tưởng nhân đạo của dân tộc.
3. Giá trị văn chương
Về mặt văn chương, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn, chưa tới một ngàn chữ
nhưng vô cùng chặt chẽ và cô đọng.
Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong phần một, Hồ
Chí Minh đã nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền để làm cơ sở pháp lí cho bản Tuyên
ngôn. Trong phần này Bác đã nêu lên hai bản Tuyên ngôn, đó là bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ
năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định
quyền thiêng liêng của mỗi con người: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền được mưu cầu hạnh phúc" (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, 1776), “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và
dân quyền của Cách mạng Pháp, 1791)
Việc dẫn hai bản tuyên ngôn này, Bác đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của ta ngang hàng với các
bản Tuyên ngôn của các nước lớn như Pháp và Mĩ. Từ đó khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con
người, Bác đã nâng lên thành
quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc: “suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản Tuyên ngôn. Nếu trong phần thứ nhất Bác
khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là quyền được sống, được tự do,
được độc lập và mưu cầu hạnh phúc thì trong phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, Bác đã vạch rõ tội ác
của thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng thật dã man, vô nhân
đạo, đi ngược lại tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, vạch rõ
bản chất gian xảo của bọn thực dân Pháp. Trong phần này Bác lại nêu rõ tinh thần nhân đạo, yêu độc lập
lự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc lập của dân tộc ta. Đến phần thứ ba (phần cuối) Bác lại
nói về kết quả của tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế
giới rằng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc
lập”.
Như vậy, ta thấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có một kết câu, bố cục khá chặt chẽ.
Hơn nữa, lời lẽ của bản Tuyên ngôn khá hùng hồn, nhịp điệu câu văn khá dồn dập, sắc cạnh. Có những

câu văn thật ngắn gọn nhưng lại diễn đạt một ý nghĩa vô cùng phong phú như câu “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu văn chỉ có chín từ thôi nhưng lại diễn đạt được bao biến động của thời
điểm lịch sử lúc bấy giờ.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập này Bác đã sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ: điệp từ,
điệp ngữ như Bác sử dụng khá độc đáo điệp từ “sự thật”. Điệp từ này được Bác nhắc đi nhắc lại nhiều
lần để cho mọi người thấy rõ chân lí phải đi từ sự thật. Sự thật là điều chứng minh rõ cho chân lí. Và từ
đó Bác đã vạch trần cái luận điệu “bảo hộ Đông Dương", “khai hóa văn minh" của thực dân Pháp; đồng
thời cũng để khẳng định lòng yêu độc lập tự do, tinh thần quyết tâm đấu tranh để giành và giữ vững nền
độc lập tự do của dân tộc. Cách dùng điệp từ này còn làm cho bản Tuyên ngôn mang tính thuyết phục
cao. Bên cạnh đó, Bác còn sử dụng rất thành công phép liệt kê để vạch rõ tội ác của kẻ thù đã gieo rắc
cho nhân dân ta, đất nước ta trên nhiều lĩnh vực từ chính trị đến văn hóa, kinh tế
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác còn dùng phép tăng cấp: “ tuyên bố thoát li hẳn quan hệ
với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất củ mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Với phép tăng cấp này, Bác đã thể hiện cao độ tinh thần độc
lập tự chủ của cả dân tộc.
Qua những điều trình bày trên, ta thấy rõ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có một giá trị văn chương
lớn.
4. Khái quát lại giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn độc lập
Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn vừa có
giá trị văn chương cao. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ,
bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Năm trong nhà tù, trong trại tập
trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản “Tuyên ngôn độc lập” là kết
quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân
Tiên - Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh).
Câu 14: Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập. Nêu một vài cảm nhận của anh (chị) về phong
cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuvên ngôn độc lập này.
Gợi ý trả lời:
19/8/1945 chính quyền ở Thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23/8 tại Huế, trước mười
lăm vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25/7 hơn tám mươi vạn đồng bào Sài Gòn,
Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách

mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài tám mươi năm cùng với chế độ phong
kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2/9/1945 tại quảng ưường Ba Đình. Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một
kỉ nguyên mới độc lập, tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói,
đồng bào nghe rõ không". Tức thì một tiếng “có" của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
“Việt Nam độc lập muôn năm" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một,
vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng
tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh
Việt Nam Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách lập trung nhất, tiêu biểu nhất
phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư", Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai
câu nói trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi".
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, và đi tới
khẳng định: “Đó là những lẽ không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí
Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến
một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân
tộc. Và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam

dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc trích dẫn còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ
trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của Tuyên
ngôn Độc lập trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng
trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch
trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đốt với nhân dân ta trong gần một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng
vô cùng xảo quyệt và dã man "'lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức
đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh
vực về chính trị, kinh tế và những tội ác khác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị
và bốn tội ác cực kỳ dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, luật pháp dã man, chia để trị;
đàn áp và khủng bố"; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện để làm cho
nòi giống ta suy nhược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân “cuồng Minh":
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn năm trăm năm sau,
trong Tuyên ngôn độc lập, người hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh viết.“Chúng lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi chúng ta. Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ
“chúng" đưực nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai "lập ra nhà tù nhiều hơn
trường học". Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng “thẳng tay chém giết", cách dùng hình ảnh “bể máu''
– tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng
hồn đầy sức thuyết phục.
Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho “dân ta nghèo
nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều"; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền in
giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.v v lên án chính sách sưu thế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm
giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên
bần cùng”. Hàng trăm thứ thuế vô lý của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê
tởm:
“ Các hạng thuế, các làng tăng mãi

Hết đinh điền rồi lại trâu bò
Thuế diêm, thuế rượu, thuế bò, thuế xe
Thuế sản vật, thuế chè, thuế thuốc
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế bè tre gỗ, thuế thuyền bán buôn
Thuế đến cả phấn son đường phố
Thuế những anh thuốc lọ gậy mòn
Thuế gò, thuế bãi thuế cồn
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn
Thuế dầu, mật, thuế sơn mọi lối
Thuế gạo rau, thuế muối, thuếbông
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ
Các dạng thuế kể chi cho xiết
Thuế xí kia mới thiệt lạ lùng!
Làm cho thập thất cửu không
Làm cho đau đớn khốn cùng không thôi,.!
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940,
thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật". Pháp và Nhật đã câu kết với nhau, bóc
lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và
Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị
đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói.
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, “quân
Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng". Tác giả châm biếm lên án: “Chúng chẳng những không bảo hộ được ta,
trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa trước khi rút
chạy “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Bằng cách lập luận chặt chẽ. đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch
sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp
nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu “tái chiếm" Đông
Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bô: "sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ
không phải từ tay Pháp".
Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một nhà
nước mới ra đời: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hòa”.
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một thế
lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các
nước Đồng minh “công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam". Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố:
“thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất
cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Tác giả tự hào nêu cao truyền thông anh hùng bất
khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập".
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng
liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tư do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt
Nam.

×