Tải bản đầy đủ (.ppt) (28 trang)

Lịch sử phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 28 trang )

Lịch sử phát triển tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử:
1.Bối cảnh lịch sử và tiểu sử
2.Nội dung những tư tưởng giáo dục
cơ bản của Khổng Tử
3. Bài học
Bối cảnh lịch sử
Thời Xuân Thu
(772-481 TCN)
Chính trị-xã hội
- Thời kì rối loạn nhất trong lịch sử
Trung Hoa

Sự chuyển biến về kinh tế và xã hội

Sự bùng nổ các cuộc chính biến
Sự hưng thịnh của học thuật“Chư tử
bách gia”
Văn hoá- Giáo dục

Thời kì hoàng kim
của văn hoá và triết học

Sự hưng thịnh của
hoc thuật“chư tử bách gia”

Sự cần thiết của đạo học
»


Quản Trọng


Khổng
Tử
(551-479 TCN)
Gia cảnh

Tên là Khâu, tự Trọng Ni

Sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 TCN tại làng
Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ( tỉnh
Sơn Đông, Trung Quốc)

Dòng dõi quí tộc sa sút từ nước Tống dời
đến nước Lỗ.

Cha là Thúc Lương Ngột-võ quan(cháu 13
đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà
Thương

Mẹ họ Nhan, tên Trưng Tại
- Năm 3tuổi mồ côi cha sống với mẹ trong
cảnh nghèo khó
- Năm 15 tuổi lập chí học tập
- Năm 19 tuổi cưới vợ, vợ là con thượng quan
nước Tống
- Năm 20 tuổi sinh một con trai đặt tên là Bá
Ngư
Đức tính Khổng Tử
-
Thông minh, ham học
-

Tìm hiểu tận cùng sự việc
-
Ôn hoà, nghiêm trang, khiêm tốn cẩn
thận
-
Đề cao lễ nhạc, tin vào Thiên mệnh
Thời kì tham chính và dạy học

-Từ năm 19 tuổi – 34 tuổi làm chức quan nhỏ
và mở lớp dạy học trò (mở lớp năm 22 tuổi)
- Từ năm 34 tuổi dẫn học trò đi khắp các nước
trong vùng để truyền bá tư tưởng và tìm người
dùng các tư tưởng đó (kéo dài gần 20 năm)
- Năm 51 tuổi quay lại nước Lỗ và được vua Lỗ
mời ra làm quan chức Trung Đô Tể
- Một năm sau giữ chức Tư Không, rồi thăng
lên Đại Tư Khấu (Hình Bộ Thượng Thư) coi
việc hình án
- Bốn năm sau làm Nhiếp Tướng Sự( Tướng
Quốc), coi việc chính trị trong nước
- Sau 3 tháng nước Lỗ trở nên thịnh trỊ.
- Bị li gián, gièm pha, ông từ quan và đi chu du
các nước chư hầu
-
14 năm: cùng học trò đi chu du các nước chư
hầu nhưng không thành công
- 68 tuổi: quay về nước Lỗ mở mang việc dạy
học và soạn sách
- Viết sách Xuân Thu
- Tạ thế ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, thọ

73 tuổi
Các triều đại phong tặng
- Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng
Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương
- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài
là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương
- Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng
Ngài là Chí Thánh Tiên Sư.
- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong Ngài là
Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương
Thánh Sư Khổng Phu Tử.
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
* Quan điểm giáo dục
* Phương pháp học
* Cách thức giáo dục
Các nguyên tắc cơ bản sau:

Học nhi tri chi

Đại học chi đạo

Tại minh minh đức

Tại thân dân

Tại chi ư chi thiện
Quan điểm giáo dục
Quan điểm giáo dục

"Học nhi tri chi" : Do học mà biết


"Đại học chi đạo": ": nghĩa là học cho đến
mức biến hóa được dân, đổi được phong tục
tập quán của dân, làm cho người gần thì
khâm phục, người xa thì yêu mến.

"Tại minh minh đức": nghĩa là học đến mức
thấu hiểu được các nguyên lý của trời đất,
thấu hiểu mọi chân tơ kẽ tóc.
Quan điểm giáo dục

"Tại thân dân": Tức là sự học phải xuất phát
từ tinh thần yêu dân mà học, học cho dân,
cho con người.

"Tại chi ư chi thiện": tức là học cho tới hoàn
thiện.
Phương pháp học

Nghe rồi nghĩ, nghĩ rồi làm

Học không chán

Học cũ biết mới

Học cả người dưới mình

Học đi đôi với hành

Nghe rồi nghĩ, nghĩ rồi làm : Theo Khổng Tử,

người học phải: Nghe - Nghĩ - Làm. Ông nói:
"Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi"
(Học mà không suy nghĩ thì mờ mịt, suy nghĩ mà
không học thì nguy hại), "Học nhi thời tập chi,
bất diệc duyệt hồ?" :( học mà thực hành theo
điều mình học há chẳng vui sao?)
Phương pháp học

Học không chán
Cách học của ông là: "Mặc nhi thức tri, học
nhi bất yếm". (Lặng lẽ mà ghi nhớ lấy, học mà
không chán). Người học phải tạo được hứng thú
trong việc học thì sự học mới không chán

Học cũ biết mới
Người học phải: "Ôn cố nhi tri tân, khả vi sư
hỹ" (Ôn cũ biết mới, đáng làm thầy vậy). Theo
ông người học phải học nữa, học mãi, nhà bác
học không ngừng học. Học điều xưa để áp dụng
cho thời nay, đó là người khéo vận dụng tri thức
Phương pháp học
Phương pháp học

Học cả người dưới mình
Đối với người học phải học tất cả các tầng
lớp người trong xã hội, ai cũng có điều hay điều
dở, vậy ta hãy học điều hay của họ thậm chí
phải học kể cả kẻ dưới mình: "Học bất xỉ hạ vấn"
(Không thẹn học người dưới)
* Học đi đôi với hành

Khổng Tử chú trọng đến giáo dục đạo đức :
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, nhưng vẫn không coi nhẹ
việc tinh thông nghề nghiệp. Ông khuyên môn
đệ của mình “để chí vào cái đạo, giữ lấy cái đức,
dựa vào cái nhân, tinh thông nghề nghiệp” (Luận
ngữ ).
Cách thức giáo dục

Nhận thức về giáo dục

Việc học không phân biệt đẳng cấp

Thầy - trò phối hợp đồng bộ

Dạy không mệt

Giáo dục phù hợp đối tượng
Cách thức giáo dục

Nhận thức về giáo dục : Khổng Tử rất coi
trọng việc giáo dục, coi đó là cái gốc sâu xa,
lâu bền để đào tạo ra con người nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín (ngũ thường), thực hiện được
mối quan hệ “Tam cương” là cho đạo trời, đạo
người hoà hợp trong một xã hội thanh bình.
Cách thức giáo dục

Việc học không phân biệt đẳng cấp
Khổng Tử chủ trương "Hữu giáo vô loại"
(việc giáo dục không phân biệt đẳng cấp) nghĩa

là không phân biệt xuất thân giàu, nghèo, sang,
hèn, không phân biệt nơi ở, đều có thể tiến hành
giáo dục, đả phá sự lủng đoạn của lãnh chúa
quý tộc chủ nô đối với giáo dục
Cách thức giáo dục

Thầy - trò phối hợp đồng bộ
- Việc học không chỉ là học cho trò mà còn là cơ
hội để thầy cũng học nên ông đưa ra học thuyết:
"Giáo học bán" (Việc dạy và việc học, mỗi người
một nửa).
- Người thầy đưa ra một vấn đề, học trò phải lật
ngược vấn đề trở lại thành 3 vấn đề (Cử nhất
phản tam). Người thầy đưa ra 1 mệnh đề người
học phải ít nhất suy ra 3 vấn đề để nhận thức.
Học như vậy mới sâu sắc.
Cách thức giáo dục

Dạy không mệt
Theo quan niệm của Khổng Tử, người dậy
học phải thật tâm huyết với sự nghiệp giáo dục
nên mới: "Hối nhân bất quyện" (dạy người
không chán).

Giáo dục phù hợp đối tượng
Trong dạy học Khổng Tử chủ trương “Dạy dỗ
học trò, nếu học trò không phẫn vì không hiểu
được thì thầy không giảng, không hậm hực vì
không nói ra được thì thầy không khơi gợi”.

×