Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT TIỀM NĂNG DẦU KHÍ MỎ CÁ HEO VÀ SỬ TỬ BIỂN CỦA LÔ A THUỘC BỒN TRŨNG NAM CÔN SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 76 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 1 - Khóa 2005

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN























Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 2 - Khóa 2005



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN






















Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 3 - Khóa 2005

MỤC LỤC
MỤC LỤC 3

LỜI MỞ ĐẦU 5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 7
CHƯƠNG I: VỊ TRÍ ĐỊA LÍ – LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 8
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ 8
II. LỊCH SỬ THĂM DÒ LÔ A 9
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT 11
I. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO 11
II. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA TẦNG THẠCH HỌC 27
CHƯƠNG III: CÁC THÔNG SỐ ĐỊA VẬT LÝ 42
I. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN 42
II. CÁC THÔNG SỐ ĐỊA VẬT LÝ 47
CHƯƠNG IV: TRỮ LƯNG MỎ KHÍ CÁ HEO VÀ SƯ TỬ BIỂN 51
I. KHÁI NIÊM CHUNG VỀ TRỮ LƯNG 51
II. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN TRỮ LƯNG MỎ KHÍ CÁ HEO
VÀ SƯ TỬ BIỂN 63
Khúa Lun Tt Nghip GVHD: Ths.Phan Vn Kụng

SVTH: Nguyn Vn Sng Vụ - 4 - Khúa 2005


KET LUAN 72
TAỉI LIEU THAM KHAO 76
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 5 - Khóa 2005

LỜI MỞ ĐẦU

Dầu Khí là một nguồn năng lượng vô cùng quan trọng của nhân loại.
Nguồn tài nguyên này phục vụ và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi

con người, và hiện đang là vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia cả về kinh tế lẫn
chính trò.
Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế theo con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Ngành công nghiệp dầu khí đóng một vai trò hết sức là quan trọng.Vì vậy việc
phát hiện ra các mỏ dầu và mỏ khí có giá trò thương mại thì có ý nghóa rất lớn.
Do đó công tác khảo sát đặc điểm đòa chất và đánh giá tiềm năng dầu khí của
từng khu vực trên thềm lục đòa nước ta là một việc cần phải được đẩy nhanh
thực hiện.
Hai mỏ khí Cá Heo và Sư Tử Biển thuộc bồn trũng Nam Côn Sơn là một
trong những mỏ khí lớn của nước ta hiện nay. Trong khuôn khổ bài khóa luận
tốt nghiệp này em xin trình bài vấn đề “Đặc điểm đòa chất - tiềm năng dầu khí
mỏ Cá Heo và Sư Tử Biển của lô A thuộc bồn trũng Nam Côn Sơn”.
Để thực hiện khóa luận này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của
Thạc Só Phan Văn Kông cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nhân viên thuộc
Ban tìm kiếm thăm dò công ty PVEP. Em xin chân thành cám ơn sự chỉ bảo tận
tình của quý thầy và sự giúp đỡ tận tình của mọi người để em có thể hoàn
thành khóa luận này .
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 6 - Khóa 2005

Do thời gian có hạn cùng kiến thức còn nhiều hạn chế nên không thể tránh
những thiếu sót. Em kính mong được sự chỉ bảo của q thầy cô và góp ý của
các bạn .
Tp Hồ Chí Minh, Tháng 7 Năm2009
Sinh Viên Thực Hiện
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 7 - Khóa 2005


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CH: CÁ HEO
STB: SƯ TỬ BIỂN
DST: Thiết bò thử vỉa (Drill stem test)
MDT: Modular Formation Dynamic Test
RFT: Repeat Formation Test
GIIP: Trữ lượng khí tại chỗ (Gas initial in place)
LKG: Lowest Known Gas



Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 8 - Khóa 2005

CHƯƠNG I
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ – LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
0
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
Cá Heo và Sư Tử Biển là 2 mỏ khí lớn nằm kề nhau ở phía Nam trung
tâm của lô A, phía tây bồn trũng Nam Côn Sơn. Khí được chứa chủ yếu
trong hệ tầng Thông thuộc Miocene giữa và Dừa thuộc Miocene sớm.












Hình 1.1: Vị trí khu vực nghiên cứu
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 9 - Khóa 2005

II. LỊCH SỬ THĂM DÒ LÔ A
Lô A là một phần của lô B ban đầu, sau này được PetroVietnam chia thành
2 lô, C và A, từ trước năm 1991 để đặt giá thăm dò mới. KNOC, đại diện tập
đoàn Hàn Quốc, đấu thầu được lô A vào năm 1992 dưới hợp đồng chia sẻ sản
phẩm. Trước đó, Exxon đã tiến hành khảo sát đòa chấn 2D phủ vùng lớn trong
đó có lô A. Năm 1985 và 1988, Vietsovpetro đã tập hợp chi tiết chung của
phần phía Đông, trở thành lô A.
Sau khi đấu thầu được lô A, KNOC tập hợp lại 5455 km dữ liệu đòa chấn
2D được thực hiện năm 1992, và thêm 277km dữ liệu đòa chấn 2D được thực
hiện năm 1994. Vào năm 1994, tuyến đòa chấn 3D hướng Bắc – Trung Tâm
của lô A cũng được thực hiện. Sau những khảo sát ban đầu ở mỏ khí Cá Heo
năm 1995, đòa chấn 3D ở mỏ khí Cá Heo và Sư Tử Biển được khảo sát năm
1996. Thêm nữa mặt cắt đòa chấn 2D được thực hiện vào năm 1996 ở phần
Tây – Bắc của lô A, và một số tuyến ở phần Đông Bắc và Trung Tâm của lô.
Giếng khoan đầu tiên được tập đoàn KNOC thực hiện là giếng RB – 1X
để thử sự có mặt của dầu, khí và condensate ở ba tập trong Miocene sớm. Nó
được xem như là giếng khoan thăm dò dầu khí. Vào năm 1994 và 1995, các
giếng Cá Heo - 1A và RVD – 1X được thực hiện và cả hai đều phát hiện có
mặt của khí và condensate. Năm sau đó, hơn 2 giếng nữa được thực hiện là
RN – 1RX và Sư Tử Biển – 2A. Hai giếng khoan tìm kiếm sau này cũng phát

hiện có mặt của khí và condensate. Vào năm 1997, thực hiện được giếng Cá
Heo – 1B, giếng đầu tiên nằm kề Cá Heo, được khoan và thử vỉa thành công
xác thực sự mở rộng của mỏ khí Cá Heo. Cho đến nay thì hầu hết giếng khoan
thăm dò được thực hiện bởi KNOC đều phát hiện được dầu, khí và
condensate.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 10 - Khóa 2005

Các giếng RB - 1X, Cá Heo – 1A, RVD – 1X, Sư Tử Biển – 1B và Cá Heo
– 2A được thử hydrocarbon. Giếng RN – 1RX phát hiện khí và condensate.
Các giếng khoan thăm dò, Cá Heo – 1A, Sư Tử Biển – 2A và Cá Heo –
1B được xem xét như là phát hiện thương mại. Phát hiện dầu ở giếng RB – 1X
thì nhỏ, các phát hiện khí ở giếng RVD – 1X, khí và condensate ở giếng RN -
1RX thì quá nhỏ và không có trữ lượng thương mại.
Cấu tạo Cá Heo và Sư Tử Biển là phức hệ liên quan đến 2 cấu trúc khép
kín nằm kề nhau. Cấu trúc Sư Tử Biển đóng kín theo bốn hướng trong các đá
thuộc Miocene trung và ba hướng, đứt gãy khép kín trong các đá Miocene
sớm. Cấu trúc Cá Heo đóng kín trong 3 hướng.
Mỏ khí Cá Heo được phát hiện bởi giếng khoan Cá Heo – 1A khoan năm
1994/1995. Mỏ khí Sư Tử Biển được phát hiện bởi giếng khoan Sư Tử Biển –
2A năm 1996. Cả hai giếng đều phát hiện khí và condensate trong hệ tầng
Dừa và Thông. Mỏ khí Cá Heo được khoan thẩm lượng bởi giếng khoan Cá
Heo – 1B năm 1997.
KNOC và các thành viên đã khoan 3 giếng ở vùng Cá Heo:2 giếng khoan
thăm dò và một giếng thẩm lượng cho mỏ Cá Heo. Cả 3 giếng đều được thử
vỉa, lẫy mẫu và đo log. Hai giếng phát hiện khí trong các mỏ nằm gần kề
nhau và có thể phát triển cùng nhau đó là mỏ Cá Heo và Sư Tử Biển.
KNOC đã khoan một giếng khoan thăm dò và một giếng khoan thẩm
lượng ở mỏ khí Cá Heo. Dự đoán cấu trúc hình thể đặc trưng, độ sâu mỏ, độ

sâu của ranh giới khí – nước và sự liên tục của mỏ trong giếng khoan thẩm
lượng.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 11 - Khóa 2005

CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT MỎ
0
I. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO
I.1 Vò trí, giới hạn bồn trũng Nam Côn Sơn
Bồn trũng Nam Côn Sơn phát triển chồng trên các cấu trúc của nền
Indochina bò hoạt hóa mạnh mẽ trong Phanerozoi và hoạt hóa magma kiến tạo
trong Mesozoi muộn. Cộng ứng với quá trình này ở phía Đông nền Indochina
– Vùng biển rìa Đông Việt Nam xảy ra quá trình giãn đáy biển rìa vào
Oligocene với trục tách giãn phát triển theo phương Đông Bắc-Tây Nam. Quá
trình tách, giãn đáy Biển Đông đã đẩy rời xa hai khối vi lục đòa Hoàng Sa,
Trường Sa và kiến sinh phá huỷ (Taphrogeny) trên cùng thềm lục đòa phía
Nam, từ đó phát triển các trầm tích Kainozoi tương ứng. Đới Nam Côn Sơn
với hai đới trũng sâu: trũng Bắc và trũng Trung Tâm có hướng trục sụt lún
cùng hướng trục giãn đáy Biển Đông và nằm phù hợp trực tiếp trên phương
kéo dài của trục giãn đáy Biển Đông là bằng chứng của sự ảnh hưởng này.





Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kông

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vô - 12 - Khóa 2005




Hình 2.1 : Sô ñoà vò trí boàn truõng Nam Coân Sôn

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 13 - Khóa 2005


Hình 2.2: Bản đồ cấu trúc bề mặt móng trước Kainozoi bồn trũng Nam Côn
Sơn
Bồn trũng Nam Côn Sơn là bồn trũng không được khép kín, nói chỉ
được giới hạn về phía Bắc bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây và phía Nam là đới
nâng Khorat-Natuna. Còn ranh giới phía Đông Bắc với bồn trũng Phú Khánh
và phía Đông với bồn trũng Tư Chính-Vũng Mây vẫn chưa được xác đònh.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 14 - Khóa 2005

Ở phía Đông bồn trũng Nam Côn Sơn tồn tại hệ đứt gãy được Ngô
Thường San (năm 1980) gọi là đứt gãy kinh tuyến 109
o
. Đứt gãy này được
phát hiện trên các tài liệu đòa chấn ở thềm lục đòa miền Trung và vùng biển
Phan Rang. Tại khu vực nghiên cứu, đứt gãy này đóng vai trò ngăn cách giữa
thềm và sườn lục đòa hiện đại. Phương đứt gãy kéo dài xuống phía Nam còn
chưa đủ tài liệu khẳng đònh, song có lẽ nó còn tiếp tục phát triển rồi nhập và
các hệ đứt gãy chờ, nghòch Bắc Palawan.
Đới nâng Côn Sơn có dạng một phức hệ nếp lồi phát triển kéo dài theo

phương Đông Bắc. Ở phía Tây Nam được gắn liền với đới nâng Khorat-
Natuna, nhô cao và lộ ra ở đảo Côn Sơn, sau đó chìm dần ở phạm vi các lô 02,
03 và rồi lại nâng cao ở Cù Lao Dung mà ta gọi là đới nâng Phú Quý. Đới
nâng Côn Sơn chủ yếu cấu tạo bởi các đá xâm nhập và phun trào trung tính,
axit thuộc đá núi lửa rìa Đông lục đòa Châu Á tuổi Mesozoi muộn.
Đới nâng Khorat-Natuna kéo dài từ Thái Lan qua Tây Nam Việt Nam
Borneo theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và là một bộ phận của lục đòa Sunda
cổ. Đới nâng được cấu thành bởi tập hợp các thành tạo lục nguyên tuổi
Carbon – Permi, Jura – Creta và các đá biến chất Paleozoi, Mesozoi cũng như
các đá magma axit – trung tính tuổi Kainozoi, nằm trong đai núi lửa miền
Đông Á.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 15 - Khóa 2005


Hình 2.3: Các ranh giới kiến tạo của bồn trũng Nam Côn Sơn
I.2 Các đơn vò cấu trúc
Trên cơ sở các thông số về chiều dày, thành phần và sự phân bố các
thành tạo trầm tích cũng như các hệ thống đứt gãy, cấu trúc của bồn trũng
Nam Côn Sơn được phân chia thành một số đơn vò sau:
Đới phân dò phía Tây (C)
Đới nằm trong phía Tây bồn trũng trên các lô 27, 28,29 và nữa phần
Tây các lô 19, 20, 21, 22. Ranh giới phía Đông của đới được lấy theo hệ đứt
gãy Sông Đồng Nai. Đặc trưng cấu trúc của đới là sự sụt nghiêng khu vực về
phía Đông theo kiểu xếp chồng do kết quả hoạt động đứt gãy-khối chủ yếu
theo hướng Bắc-Nam, tạo thành các trũng hẹp sâu ở cánh Tây của các đứt
gãy, đặc biệt là đứt gãy lớn đi kèm các dải nâng. Dựa vào đặc điểm cấu trúc
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng


SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 16 - Khóa 2005

của móng, đới phân dò phía Tây được phân thành 2 đơn vò (phụ đới) có đặc
trưng cấu trúc tương đối khác nhau, ranh giới chia là đứt gãy Sông Hậu.
Phụ đới rìa Tây (C1)
Phụ đới này phát triển ở cánh Tây đứt gãy Sông Hậu và tiếp giáp trực
tiếp với đới nâng Khorat-Natuna phương á kinh tuyến. Đòa hình móng trước
Kainozoi khá bình ổn, tạo đơn nghiêng, đổ dần về phía Đông. Trong các trũng
hẹp sâu kề đứt gãy Sông Hậu có khả năng tồn tại đầy đủ lát cắt trầm tích
Kainozoi với chiều dày khoảng 3.500-4.000m.
Phụ đới phân dò phía Tây (C2)
Nằm trong hai đứt gãy Sông Hậu và Sông Đồng Nai là phụ đới phân dò
phía Tây. Hoạt động đứt gãy ở phụ đới này thể hiện mạnh hơn ở phụ đới Rìa
Tây. Ngoài các đứt gãy theo phương kinh tuyến chiếm ưu thế còn phát triển
các hệ đứt gãy phương Đông Bắc-Tây Nam, Đông-Tây. Đòa hình móng phân
dò phức tạp. Quá trình nâng-sụt dạng khối và phân dò mạnh mẽ. Phụ đới này
gồm các trũng hẹp sâu và các dải nâng xen kẽ. Trũng sâu nhất 6.000m. Ở nữa
phía Đông của phụ đới có mặt đầy đủ lát cắt trầm tích của phức hệ cấu trúc
lớp phủ, ngoại trừ trên dải nâng cấu tao 28a, 29a, ở cánh Đông đứt gãy Sông
Hậu vắng mặt trầm tích Oligocene và Miocene dưới.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 17 - Khóa 2005


Hình 2.4: Bản đồ các yếu tố cấu trúc bồn trũng Nam Côn Sơn


Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng


SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 18 - Khóa 2005

Đới phân dò chuyển tiếp (B)
Đới này có ranh giới phía Tây là đứt gãy Sông Đồng Nai, phía Đông và
Đông Bắc là hệ đứt gãy Hồng – Tây Mãng Cầu. Ranh giới phía Bắc Tây Bắc
được lấy theo đường đẳng sâu móng 1.000m của đới nâng Côn Sơn. Ranh giới
phía Nam là khối móng nhô cao (phần cuối của đới nâng Natuna) với độ sâu
1.000-1.500m. Đới mang đặc tính cấu trúc chuyển tiếp từ đới phân dò phía Tây
kéo sang phía Đông và từ đới nâng Côn Sơn kéo xuống phía Nam. Đới bò chia
cắt bởi các hệ đứt gãy phương Bắc – Nam, Đông Bắc – Tây Nam và Đông-
Tây.
Đòa hình móng phân dò thể hiện đặc tính sụt lún dạng bậc, sâu dần từ
đới nâng Côn Sơn về phía Đông Nam và từ phía Nam (cận Natuna) lên phía
Bắc, nơi sâu nhất thuộc vùng tiếp nối của các lô A với 12-W (khoảng
7.000m). Đới phân dò chuyển tiếp được chia thành 2 đơn vò cấu trúc (phụ đới
sau) sau:
Phân đới phân dò phía Bắc (B1)
Đây là phần phát triển dọc rìa Đông Nam của đới nâng Côn Sơn, với
hệ đứt gãy ưu thế có phương Đông Bắc-Tây Nam và á kinh tuyến. Nhìn
chung, các đứt gãy có biên độ tăng dần theo vò trí từ Tây sang Đông (từ vài
trăm mét đến 1.000-2.000m). Đòa hình móng có dạng bậc thang, chìm nhanh
về Đông Nam, sâu nhất 6.000m. Phủ trên móng chủ yếu là các trầm tích từ
Miocene đến Đệ tứ. Các trầm tích Oligocene có bề dày không lớn và vắng
mặt ở phần Tây, Tây Bắc của phụ đới, nói chung bò vát mỏng nhanh theo
hướng từ Đông sang Tây và Đông Nam lên Tây Bắc. Trong phụ đới này đã
phát hiện các cấu trúc vòm kề đứt gãy, phương Đông Bắc-Tây Nam và thường
bò đứt gãy phân cắt thành các khối.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 19 - Khóa 2005


Phần Nam của phụ đới có mặt một số cấu tạo hướng vó tuyến. Đòa hình
móng thể hiện đặc tính sụt lún từ từ theo hướng Tây sang Đông và từ Bắc
xuống Nam.
Phụ đới cận Natuna (B2)
Đặc trưng của phụ đới cân Natuna là cấu trúc dạng khối, chiều sâu của
móng khoảng 5.000m đến 5.500m. Tại đây phát triển hai hệ thống đứt gãy
kinh tuyến và á vó tuyến. Trong phụ đới này đã phát hiện nhiều cấu trúc vòm.
Đới sụt phía Đông (A)
Gồm diện tích rộng lớn ở trung tâm và phần Đông bồn trũng Nam Côn
Sơn, với đặc tính kiến tạo sụt lún, đứt gãy hoạt động nhiều pha chiếm ưu thế.
Đòa hình móng phân dò mạnh với chiều sâu thay đổi từ 2.500m trên phụ đới
nâng Mãng Cầu đến hơn 10.000m ở trung tâm của trũng sâu. Mặt khác ở
trung tâm các trũng sâu, đặc trưng cấu trúc của móng chưa được xác đònh. Đới
sụt phía Đông được phân chia làm 5 đơn vò cấu trúc (phụ đới) sau:
Phụ đới Trũng Bắc (A1)
Nằm ở giữa phụ đới nâng Mãng Cầu (ở phía Nam) và phụ đới phân dò
Bắc (ở phía Tây) là phụ trũng Bắc. Nó phát triển như một trũng giữa đới nâng
tới cuối Miocene giữa – đầu Miocene muộn: Ranh giới phía Đông của phụ đới
chưa được xác đònh rõ. Phụ đới này được đặc trưng bởi phương cấu trúc và đứt
gãy Đông Bắc – Tây Nam có biên độ từ vài trăm đến hơn 1.000m. Các đứt
gãy đã chia cắt móng, tạo đòa hình không cân xứng, dốc đứng ớ cánh Nam và
Tây Nam, thoải dần ở cánh Bắc – Tây Bắc. Bề dày trầm tích kainozoi thay
đổi từ 4.000m đến 10.000m và có mặt đầy đủ các trầm tích từ Eocene –
Oligocene đến Đệ Tứ. Trên phần rìa Tây Bắc phụ đới trũng này phát hiện
được các cấu trúc vòm nâng kề đứt gãy, còn ở phần phía Đông ngoài các vòm
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 20 - Khóa 2005


kề áp đứt gãy còn phát hiện được một số nâng dạng vòm. Các cấu trúc vòm
nâng đều có độ sâu chôn vùi lớn.
Phụ đới nâng Mãng Cầu (A2)
Phụ đới nâng Mãng Cầu gồm các lô 04 – 2, 04 – 3, một phần các lô 05
– 1a, 10 và 11 – 1. Phụ đới nâng Mãng Cầu phát triển kéo dài hướng Đông
Bắc – Tây Nam dọc hệ thống đứt gãy cùng phương ở phía Bắc. Trong quá
trình tiến hóa phụ đới bò chia cắt thành nhiều khối bởi các hệ đứt gãy chủ yếu
có phương Đông Bắc – Tây Nam và á kinh tuyến. Đòa hình móng phân dò
mạnh, biến đối từ 2.500m ở phía Tây đến 7.000m ở phần rìa Đông phụ đới.
Thành phần móng chủ yếu là các thành tạo granit, granodiorit tuổi Mesozoi
muộn. Nhiều cấu tạo vòm, bán vòm và thành tạo carbonate phát triển kế thừa
trên các khối móng ở đây.
Trong suốt quá trình phát triển đòa chất từ Eocene đến Miocene, phụ
đới nâng Mãng Cầu đóng vai trò như một dải nâng giữa trũng, ngăn cách giữa
hai trũng lớn nhất ở bồn trũng Nam Côn Sơn (phụ đới trũng Bắc và phụ đới
trũng Trung Tâm). Nhưng từ Pliocene đến Đệ Tứ nó tham gia vào quá trình
lún chìm khu vực chung của bồn trũng – giai đoạn phát triển thềm lục đòa hiện
đại.
Phụ đới trũng Trung Tâm (A3)
Phụ đới này nằm giữa 2 phụ đới: Phụ đới nâng Dừa (ở phía Nam) và
phụ đới nâng Mãng Cầu (ở phía Bắc), chiếm một diện tích rộng lớn gồm các
lô 05-1, 05-2, 05-3 và một phần các lô 11,12-E, 06. Ranh giới phía Đông còn
chưa đủ tài liệu để xác đònh cụ thể.
Phụ đới trung tâm phát triển chủ yếu theo phương Đông – Đông Bắc,
mở rộng về Đông, thu hẹp dần về Tây. Theo hướng từ tây sang Đông trũng có
dạng lòng máng, trũng có xu hướng chuyển trục lún chìm từ á vó tuyết sang á
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 21 - Khóa 2005


kinh. Phụ đới trũng Trung Tâm có bề dày trầm tích Kainozoi dày từ 5.000-
14.000m và có đầy đủ các trầm tích từ Eocene – Oligocene đến Đệ Tứ. Trên
phụ đới này đã phát hiện được nhiều cấu trúc vòm, vòm kề dứt gãy, song độ
sâu chôn vùi của các cấu trúc này khá lớn. Ngoài ra, tồn tại nhiều cấu trúc
dạng khối đứt gãy, dạng vòm cuốn và dạng hình hoa.
Phụ đới nâng Dừa (A4)
Phụ đới nâng Dừa giữ vai trò ngăn cách giữ phụ đới trũng Trung Tâm
và phụ đới trũng Nam, phát triển theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Trên phụ
đới này phát hiện nhiều cấu trúc vòm nâng liên quan đến thành tạo carbonate.
Phụ đới trũng Nam (A5)
Nằm ở phía Nam, Đông Nam bồn trũng Nam Côn Sơn thuộc diện tích
các lô 06,07,12-E và 13, phía Tây tiếp giáp với phụ đới cận Natuna. Ranh giới
phía Đông chưa xác đònh cụ thể, song có lẽ được lưu thông với trũng phía Tây
bồn trũng Sarawak. Chiều sâu của móng ở đây thay đổi từ 4.000 đến 6.000m.

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 22 - Khóa 2005

I.3 Lòch sử phát triển đòa chất
Lòch sử phát triển bồn trũng Nam Côn Sơn gắn liền với quá trình tách
giãn Biển Đông và có thể được chia làm 3 giai đoạn chính: Giai đoạn trước
tách giãn (Paleocene - Eocene), giai đoạn đồng tách giãn (Oligocene), giai
đoạn sau tách giãn (Miocene sớm (?) – Đệ Tứ).
a. Giai đoạn trước tạo Rift (Paleocene – Eocene)
Trong giai đoạn này chế độ kiến tạo toàn khu vực nhìn chung bình ổn,
xảy ra quá trình bào mòn và san bằng đòa hình cổ, tuy nhiên một đôi nơi vẫn
có thể tồn tại những trũng giữa núi. Ở phần trung tâm của bồn trũng có khả
năng tồn tại các thành tạo molas, vụn núi lửa và các đá núi lửa có tuổi Eocene
như đã bắt gặp trên lục đòa.


Hình 2.5: Mô hình quá trình hình thành bồn trũng trong giai đoạn Paleocene –
Eocene
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 23 - Khóa 2005

b. Giai đoạn đồng tạo Rift (Oligocene)
Do đặc điểm cấu trúc đòa chất phức tạp nên còn tồn tại những quan
điểm khác nhau về giai đoạn tạo rift của bồn trũng Nam Côn Sơn.
Đây là giai đoạn chính thành tạo bồn trũng gắn liền với giãn đáy Biển
Đông. Sự mở rộng của Biển Đông về phía Đông cùng với hoạt động tích cực
của hệ thống đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam đã làm xuất hiện đòa hào Trung
Tâm của bồn trũng kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và dọc theo các
đứt gãy này đã có phun trào hoạt động. Các thành tạo trầm tích Oligocene
gồm các trầm tích vụn chủ yếu thành tạo trong các môi trường đầm hồ và đới
nước lợ ven bờ (brackish littoral zone) với các tập sét kết, bột kết dày xen kẽ
cát kết hạt mòn và môi trường đồng bằng châu thổ thấp (lower delta plain)
gồm các kết hạt mòn, bột kết, sét kết với các lớp than mỏng. Pha kiến tạo vào
cuối Oligocene đã chấm dứt giai đoạn này và làm thay đổi bình đồ cấu trúc
của bồn trũng, hình thành bất chỉnh hợp khu vực cuối Oligocene – đầu
Miocene.
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 24 - Khóa 2005


Hình 2.6: Mô hình quá trình hình thành bồn trũng trong giai đọan Oligocene –
Miocene
c. Giai đoạn sau tạo Rift (Miocene sớm (?)-Đệ Tứ)

Do ảnh hưởng của sự giãn đáy và tiếp tục mở rộng Biển Đông, đồng
thời kèm theo sự nâng cao mực nước biển đã gây nên hiện tượng biển tiến,
diện tích trầm đọng được mở rộng đã hình thành hệ tầng Dừa và hệ tầng
Thông-Mãng Cầu phân bố rộng rãi trong bồn trũng từ Tây sang Đông. Song ở
phía Đông của bồn trũng do ảnh hưởng của pha căng giãn xảy ra chủ yếu vào
Miocene giữa mà một số nhà nghiên cứu gọi là thời kỳ phát triển rift muộn,
tạo thành các trầm tích có tướng từ biển nông đến biển sâu, trong đó trầm tích
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Ths.Phan Văn Kơng

SVTH: Nguyễn Văn Săng Vơ - 25 - Khóa 2005

carbonate phổ biến khá rộng rãi ở các lô phía Đông của bồn trũng (các lô
04,05 và 06).
Trong giai đoạn này nhìn chung chế độ kiến tạo khá bình ổn hơn so với
giai đoạn trước. Song ở một số nơi vẫn quan sát thấy sự nâng lên bào mòn và
cắt cụt một số cấu trúc dương đã có (ở các lô 04,05). Về cơ bản chế độ kiến
tạo oằn võng và lún chìm nhiệt, cũng như các pha biển tiến và ngập lụt khống
chế trên diện tích toàn bồn trũng. Hầu hết các đứt gãy đều kết thúc hoạt động
vào cuối Miocene. Trong Pliocene – Đệ Tứ phát triển thềm lục đòa, bình đồ
cấu trúc không còn mang tính kế thừa các giai đoạn trước ranh giới giữa các
trũng gần như được đồng nhất trên toàn khu vực.

×