Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Đánh giá về sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO về dịch vụ quảng cáo và tổ chức hội chợ triển lãm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.6 KB, 10 trang )

1
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO VÀ HỘI CHỢ TRIỂN LÃM QUỐC TẾ 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................10
1. MỞ ĐẦU
Trong 2 năm qua, sau khi chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện các cam kết của
mình với tổ chức này trong tất cả các lĩnh vực như thuế, phi thuế, sở hữu trí tuệ,
dịch vụ… Sự nghiêm túc của Việt Nam được các thành viên WTO và cộng đồng
doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao và đó cũng là một trong những
nguyên nhân quan trọng góp phần tạo ra kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầy
ấn tượng trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, như ở nhiều thành viên mới gia nhập WTO khác, quá trình thực
thi cam kết ở Việt Nam cũng đã gặp một số vướng mắc gây khó khăn không nhỏ
cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan. Những vướng mắc
này chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực còn khá mới và hết sức
phức tạp, không chỉ với nước ta mà còn với nhiều nước khác trên thế giới. Nguyên
nhân chủ yếu có lẽ bắt nguồn từ việc hệ thống pháp luật của ta đã hoàn toàn tương
thích với các quy định của WTO về lĩnh vực này hay chưa.
1
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO VÀ HỘI CHỢ TRIỂN LÃM QUỐC TẾ 2012
Nhận thức được vấn đề trên, với bài tập học kỳ môn Pháp luật về Quảng cáo
và Hội chợ triển lãm quốc tế, em xin chọn đề tài: “Đánh giá về sự tương thích của
pháp luật Việt Nam với các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam trong
khuôn khổ WTO về dịch vụ quảng cáo và tổ chức hội chợ triển lãm quốc tế” với
mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này. Sau đây là toàn bộ nội
dung chính trong bài làm của em
2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Khái quát chung
2.1.1 Khái niệm thương mại dịch vụ
Trong khuôn khổ của GATT/WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ


năm 1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định
chung về Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là
GATS). Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống
thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh
vực thương mại hàng hóa như trước đó. Đối với nước ta, thương mại dịch vụ là
một thuật ngữ còn khá mới mẻ.
Dịch vụ là một khái niệm rất rộng, từ việc đáp ứng nhu cầu cá nhân đến việc
phục vụ cho một ngành sản xuất, là một ngành kinh tế độc lập, hiện nay đang
chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và không ngừng được tăng cao.
Như vậy, có thể hiểu dịch vụ là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào
đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
1
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO VÀ HỘI CHỢ TRIỂN LÃM QUỐC TẾ 2012
Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua, bán
hàng hóa và dịch vụ. Luật thương mại quốc tế lại coi hoạt động đầu tư, tín dụng và
chuyển giao công nghệ cũng là hoạt động thương mại. Trong ngành thương mại có
ba lĩnh vực chính, đó là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại
đầu tư, trong đó thương mại dịch vụ là hoạt động mua bán các loại dịch vụ. Trong
hoạt động thương mại lại có các loại hoạt động hỗ trợ như xúc tiến thương mại,
dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại là các dịch vụ phục vụ cho việc mua bán
hàng hóa và dịch vụ, như maketing chẳng hạn.
Ban Thư ký WTO phân thương mại dịch vụ thành 12 khu vực bao gồm: 1.
Dịch vụ kinh doanh; 2. Dịch vụ thông tin; 3. Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật; 4. Dịch
vụ kinh tiêu; 5. Dịch vụ đào tạo; 6. Dịch vụ môi trường; 7. Dịch vụ tài chính; 8.
Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội; 9. Dịch vụ du lịch và các hoạt động có
liên quan; 10. Dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao; 11. Dịch vụ vận tải; 12. Các dịch
vụ khác.
Từ 12 khu vực trên đây lại chia thành 155 tiểu khu vực. Theo GATS thương
mại dịch vụ bao gồm các dịch vụ ở bất kỳ khu vực nào trừ dịch vụ do yêu cầu của
chính phủ, là những dịch vụ không dựa trên kinh doanh hoặc cạnh tranh.

Thương mại dịch vụ là một bộ phận hợp thành của thương mại quốc tế, nó liên
quan đến hoạt động thương mại vượt qua biên giới quốc gia, theo các phương thức
chủ yếu sau đây:
Cung cấp dịch vụ qua biên giới; Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài; Hiện diện
thương mại và Hiện diện của thể nhân. Trong bốn phương thức trên đây thì phương
thức 3 – Hiện diện thương mại có vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong
thương mại dịch vụ, đây là hình thức hoạt động thông qua liên doanh, chi nhánh
hoặc công ty 100% vốn nước ngoài (FDI) để cung cấp dịch vụ trong nước (ngoại
trừ dịch vụ du lịch và vận chuyển), thứ đến là phương thức 1 – Thương mại dịch
vụ giữa các nước. Phương thức 2 – Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài có vị trí quan
1
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO VÀ HỘI CHỢ TRIỂN LÃM QUỐC TẾ 2012
trọng trong du lịch quốc tế. Phương thức 4 – Hiện diện thể nhân có tỷ trọng không
đáng kể trong thương mại dịch vụ, nhưng đối với các nước đang phát triển như
nước ta cũng rất quan trọng trong việc xuất khẩu lao động và thuê chuyên gia nước
ngoài.
2.1.2 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ trong WTO
Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ được nêu tại 03 nhóm văn
bản sau đây:
• Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam (cam kết cụ thể trong từng ngành
dịch vụ có cam kết);
• Cam kết về minh bạch hoá và không phân biệt đối xử trong Phần về dịch
vụ trong Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO;
• Hiệp định GATS (về các vấn đề chung).
Về thứ tự áp dụng, ưu tiên áp dụng quy định nhóm (i), nếu nhóm (i) không quy
định thì mới áp dụng nhóm (ii), nếu cả nhóm (i) và (ii) không quy định thì áp dụng
quy định của nhóm (iii).
Từ các văn bản này (đặc biệt là Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam), doanh
nghiệp sẽ có thông tin về các điều kiện cạnh tranh và mở cửa thị trường dịch vụ mà
mình quan tâm để từ đó có điều chỉnh thích hợp đối với kế hoạch kinh doanh

Trong Biểu cam kết dịch vụ của mình, Việt Nam đã đưa ra cam kết mở cửa
(phải cho phép doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam tối thiểu ở
mức như đã cam kết) đối với 11 ngành dịch vụ (bao gồm khoảng 110 phân ngành
dịch vụ): 1. Dịch vụ kinh doanh; 2. Dịch vụ thông tin; 3. Dịch vụ xây dựng và các
dịch vụ liên quan; 4. Dịch vụ phân phối; 5. Dịch vụ giáo dục; 6. Dịch vụ môi
1
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO VÀ HỘI CHỢ TRIỂN LÃM QUỐC TẾ 2012
trường; 7. Dịch vụ tài chính; 8. Dịch vụ y tế và xã hội; 9. Dịch vụ du lịch; 10. Dịch
vụ văn hóa, giải trí và thể thao; 11. Dịch vụ vận tải.
Như vậy, so sánh với phân loại các ngành dịch vụ của WTO (12 ngành với
khoảng 155 phân ngành), ngành dịch vụ duy nhất mà Việt Nam không cam kết là
"các dịch vụ khác".
2.2 Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quy định của WTO
và cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO về dịch vụ quảng
cáo và tổ chức hội chợ triển lãm quốc tế
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nghĩa vụ và cam
kết của Việt Nam tại WTO về thương mại dịch vụ khá phức tạp cả về cấp độ hiệu
lực của văn bản lẫn phạm vi điều chỉnh. Về mặt hình thức văn bản, hệ thống văn
bản pháp luật về thương mại dịch vụ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật ở
tất cả các cấp độ khác nhau từ Luật, Pháp lệnh do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội ban hành đến Nghị định, Quyết định do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
ban hành, và các văn bản chuyên ngành của các Bộ, ngành. Về phạm vi điều chỉnh,
các văn bản quy phạm pháp luật này điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau như: đầu
tư, doanh nghiệp, khiếu nại tố cáo, cạnh tranh, xuất nhập cảnh… đến những lĩnh
vực dịch vụ cụ thể như: kinh doanh bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, kế toán, du
lịch, điều kiện hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ cụ thể…
+ Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cam kết của Việt
Nam tại WTO về thương mại dịch vụ về cơ bản đã được điều chỉnh lớn và thống
nhất với các quy định chung của WTO được nêu tại Hiệp định chung về Thương
mại dịch vụ (Hiệp định GATS) và các văn kiện cam kết của Việt Nam với WTO.

Ngay sau khi trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã nhanh chóng điều chỉnh tiếp
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để đáp ứng với các cam kết của mình

×