Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Phát triển du lịch làng nghề gốm Chu Đậu - Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.23 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ khi xã hội có phân chia giai cấp.
Trong suốt một thời gian dài, du lịch chịu sự chi phối của nhiều yếu tố kinh
tế - xã hội nên phát triển chậm chạp.
Trong xã hội hiện đại, du lịch dường như được “thức tỉnh” cùng với
sự tiến bộ về kinh tế và sự nhận thức của con người. Đặc biệt, khi đời sống
càng cao, trong nhịp sống gấp gáp, con người càng có nhu cầu tìm về những
nét truyền thống. Du lịch đồng quê, du lịch về nguồn, du lịch các làng
nghề….. cũng từ đó mà có nhiều điều kiện để hình thành và phát triển.
Thực tế, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nghề thủ công truyền thống
vẫn tồn tại và phát triển cùng với lịch sử dân tộc. Mỗi làng nghề, mỗi sản
phẩm đặc trưng và độc đáo, đã làm nên bức tranh đa dạng cho sắc màu văn
hóa của Việt Nam. Cũng nằm trong không gian văn hóa làng nghề thủ công
truyền thống, làng gốm Chu Đậu – tỉnh Hải Dương đang được “ đánh thức ”
tiềm năng.
Thôn Chu Đậu là một vùng quê yên bình bên tả ngạn sông Thái Bình,
thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Chu Đậu theo tiếng Hán có nghĩa
là bến thuyền đỗ. Những năm trước kia, cư dân ở đây chủ yếu sống bằng
nghề nông nên địa danh Chu Đậu ít được mọi người biết đến. Vẻ đẹp của
gốm Chu Đậu được phát hiện tình cờ, nhưng đến nay đã được ghi nhận ở cả
trong nước và quốc tế. Có 46 bảo tàng trên thế giới đang trưng bày các hiện
vật gốm Chu Đậu. Trong những cuộc bán đấu giá, chiếc bình gốm hoa lam
cao 54cm tại bảo tàng Topakisaray đã được trả giá tới một triệu USD. Hàng
trăm nghìn cổ vật gốm thu thập được qua các cuộc khai quật đã xác định
được Chu Đậu là trung tâm chuyên sản xuất gốm cao cấp từ thế kỷ 14 đến
thế kỷ 17. Đồng thời, hàng nghìn đồ gốm Chu đậu có trong nhiều bảo tàng ở
1
Việt Nam và nước ngoài đã xác nhận Chu Đậu là nơi làm gốm hàng đầu với
chất lượng cao, loại hình và kiểu dáng đa dạng. Theo các nhà khoa học, khi
chiến tranh Trịnh-Mạc xảy ra, vùng Nam Sách trong đó có làng gốm Chu


Đậu đã bị tàn phá. Các nghệ nhân làng gốm cũng đã phiêu bạt đến các vùng
khác, nên nghề gốm của Chu Đậu một thời gian dài bị thất truyền. Đây sẽ là
một điều đáng tiếc nếu như những giá trị quý báu của làng gốm không được
khôi phục và phát triển. Việc khôi phục và phát huy những giá trị này không
những góp phần phát triển du lịch cho tỉnh Hải Dương mà hơn thế, nó trực
tiếp đem lại những lợi ích về việc làm cho người dân địa phương, phần nào
cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn và bảo tồn những nét đẹp của một làng
nghề truyền thống. Trên thực tế, sự khai thác về làng gốm Chu Đậu chưa
thực sự tương xứng với tiềm năng du lịch vốn có của làng nghề. Vì vậy, luận
văn muốn đề cập sâu hơn tới vấn đề “Phát triển du lịch làng nghề gốm Chu
Đậu - Hải Dương”, với mong muốn góp phần nhỏ vào việc đưa hình ảnh
của quê hương mình tới được nhiều bạn bè hơn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
2.2. Ở Việt Nam
Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống luôn là đối tượng nghiên
cứu của nhiều lĩnh vực: Văn hóa, lịch sử, du lịch..... Trong du lịch, làngnghề
thủ công truyền thống được xem như là một yếu tố của tài nguyên du lịch. Vì
vậy, những nghiên cứu về các làng nghề thì có nhiều, nhưng nghiên cứu để
đánh giá nó như một tài nguyên cho ngành du lịch thì hầu như rất ít. Đối với
nghề gốm nói riêng, cũng đã thấy nhiều cuốn sách tìm hiểu và tôn vinh nghề
gốm. Tuy nhiên, các nghiên cứu hầu hết chỉ tập trung vào nghiên cứu một số
làng nghề thủ công nổi tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà, Bình Dương..... và nhìn
nhận nó dưới góc độ văn hóa hoặc kinh tế.
2
Đầu thế kỷ XX một số học giả người Pháp nghiên cứu như cuốn: “Bàn
về người Bắc Kỳ” của Đumuchiê nhưng chỉ những nhận định khái quát về sự
phát triển gốm Việt Nam.
Năm 1976, tác giả Phạm Văn Kính với bài “Một số nghề thủ công thế
kỷ XIV, nghề dệt, nghề gốm, nghề khai khoáng luyện kim”, viết về tình hình

phát triển của một số nghề thủ công truyền thống qua các thời kỳ. Thủ công
nghiệp thời kỳ này chỉ là nghề phụ gia đình, bên cạnh nghề chính là nghề nông.
Năm 1977, nhóm tác giả Tạ Phong Châu, Nguyễn Quang Vinh,
Nghiêm Đa Văn trong tác phẩm “Truyện các ngành nghề” đã lược tả lịch sử
hình thành và phát triển của một số nghề thủ công khác nhau ở Việt Nam như
nghề làm gốm, lụa... Đối với nghề gốm, chủ yếu đề cập đến làng gốm nổi
tiếng Bát Tràng.
Năm 1988, trong tác phẩm “Những bàn tay tài hoa của cha ông, hai tác
giả Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc đã đề cập đến nhiều nghề thủ
công, trong đó có nghề gốm, nhưng đó cũng chỉ là những nhận định khái
quát, sơ bộ về sự phát triển gốm Việt Nam.
Năm 1992, Phan Đại Doãn với tác phẩm “Làng Việt Nam – một số vấn
đề kinh tế xã hội” đã đề cập đến nhiều khía cạnh của làng xã Việt Nam, như
kinh tế nông thôn, tôn giáo, văn hóa, ... Tác giả có một phần nhỏ trình bày về
thủ công nghiệp làng quê. Đặc điểm nổi bật của thủ công nghiệp truyền thống
là sự kết hợp giữa nông nghiệp với thủ công nghiệp ở nhiều cấp độ và sắc thái
khác nhau. Sự hình thành các làng nghề là biểu hiện của trình độ phân công
lao động xã hội, thủ công nghiệp nhà nước tách ra khỏi nông nghiệp nhưng
không triệt để.
Năm 1996, tác giả Tô Ngọc Hân trong bài “Làng nghề thủ công truyền
thống và những vấn đề cấp bách đặt ra” đã khẳng định sự đa dạng của nghề
truyền thống Việt Nam và nêu lên thực trạng của nghề truyền thống hiện nay.
Tác giả cũng đã đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển nghề thủ công
truyền thống.
3
Năm 1998, cuốn “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của tác
giả Bùi Văn Vượng là cuốn sách viết về làng nghề thủ công một cách toàn diện
nhất. Tác giả đưa ra những khái niệm về nghề cổ truyền, làng nghề truyền
thống và đề cập đến vị trí của làng nghề thủ công trong lịch sử Việt Nam.
Đối với gốm Chu Đậu, là một trung tâm sản xuất gốm đã từng nổi tiếng

trong lịch sử, nhưng vì nhiều lý do nghề gốm đã bị thất truyền và mới bắt đầu
được khôi phục trong những năm gần đây. Vì vậy, những nghiên cứu về gốm
Chu Đậu trên cả nước có rất ít. Trên thực tế, mới chỉ có một số bài báo đề cập
đến sự hồi sinh của làng nghề, như:
Năm 1999, nhóm tác giả Trịnh Thị Hòa, Đinh Văn Thắng, Hoàng Nghị
trong cuốn “Gốm Việt Nam tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh” cũng đề cập đến một số sản phẩm gốm Chu Đậu được trưng bày tại
Bảo tàng lịch sử Việt Nam và TP. Hồ Chí Minh. Những sản phẩm này chủ
yếu được trục vớt từ con tàu đắm ở Cù lao Chàm.
Năm 2000, tác giả Hà Văn Cẩn (Viện khảo cổ học) trong luận án tiến
sỹ của mình với nhan đề “Các trung tâm sản xuất gốm sứ cổ ở Hải Dương”,
tác giả đề cập đến 3 trung tâm gốm sứ cổ của Hải Dương: xóm Hống (Chí
Linh), Chu Đậu (Nam Sách) và Hợp Lễ (Bình Giang). Với trung tâm gốm
Chu Đậu, dưới góc độ khảo cổ học, tác giả chủ yếu đi vào tìm hiểu quá trình
khai quật, phân tích thành phần hóa học trong xương gốm, loại hình đồ gốm
men và dừng lại ở thế kỷ 17.
2.3. Ở Hải Dương
Tìm hiểu về gốm Chu Đậu, không thể không nhắc tới những nghiên
cứu của nhà nghiên cứu sử học Tăng Bá Hoành. Ông là người trực tiếp tham
gia chỉ đạo các cuộc khai quật gốm cổ Chu Đậu. Vì vậy, có thể nói, sự hồi
sinh của làng gốm có sự góp công của ông. Như vậy, hầu hết các nghiên cứu
về gốm Chu Đậu tại tỉnh đều do ông giới thiệu đến bạn đọc. Năm 1984,
trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học”, ông đã thông báo một số phá
4
hiện về các địa điểm gốm ở Hải Dương. Trong những dòng thông báo ngắn
của mình, tác giả đã sơ lược giới thiệu vài nét về các địa điểm như: Cậy,
Chu Đậu, bến Ninh Xá.
Trong những năm sau: 1985, 1987, 1995, công tác tìm hiểu và nghiên
cứu các nghề thủ công truyền thống trên địa bàn tỉnh Hải Hưng được triển
khai trên phạm vi rộng, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu ở Sở Văn

hóa – Thông tin tỉnh Hải Hưng, đã ra mắt bạn đọc 3 tập: “Nghề cổ truyền”
do Tăng Bá Hoành chủ biên. Nội dung cuốn sách tập 1 và 2 mô tả lần lượt
36 nghề cổ truyền của tỉnh Hải hưng, trong đó có nêu nghề gốm Chu Đậu ở
Nam Sách, mới chỉ là những nét phác thảo ban đầu chủ yếu mô tả quá trình
5 lần khai quật.
Năm 1993, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng xuất bản cuốn “Gốm Chu Đậu”,
chủ biên là tác giả Tăng Bá Hoành. Cuốn sách chủ yếu giới thiệu 13 địa
điểm sản xuất gốm cổ mới được phát hiện ở Hải Dương, trong đó, đề cập
đến sản xuất gốm ở Chu Đậu như quá trình phát hiện, khai quật, sản phẩm
chính và giới thiệu bộ sưu tập gốm của nghệ nhân Đặng Huyền Thông (thế
kỷ XVI). Cuốn sách nghiên cứu dừng lại ở thế kỷ XVII.
Ngoài ra, còn có một số bài báo in trên các tạp chí, có nhắc đến sự phát
triển của làng gốm Chu Đậu trong tổng quan ngành du lịch, như: “Du lịch với
làng gốm Chu Đậu” của tác giả Hạ Bá Đình (Tạp chí Thương mại 2004),
“Khi doanh nghiệp đánh thức một làng nghề” (Tạp chí Lao động xã hội
2005). Nhìn chung, những tài liệu nhìn nhận làng gốm Chu Đậu như một
điểm đến du lịch còn rất ít.
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát
triển du lịch làng nghề Gốm Chu Đậu Hải Dương - một làng nghề đã trải
qua nhiều thăng trầm trong việc tìm lại nghề cổ truyền của ông cha mình. Sự
5
nhin nhận và đánh giá đúng tiềm năng du lịch không chỉ góp phần thu hút
khách đến thăm quan làng gốm mà còn góp phần nâng cao đời sống, việc
làm cho cộng đồng địa phương, đa dạng hóa sản phẩm du lịch và tăng hiệu
quả từ hoạt động du lịch của tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ
+ Đúc kết một số cơ sở lý luận về phát triển du lịch, du lịch làng nghề
và nghề thủ công truyền thống.

+ Phân tích hiện trạng làng nghề gốm Chu Đậu Hải Dương và thực
trạng khai thác phát triển du lịch.
+ Đề xuất một vài giải pháp và kiến nghị nhằm khai thác có hiệu quả
từ hoạt động du lịch làng gốm Chu Đậu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: Làng nghề gốm Chu Đậu trong mối quan hệ, phát triển
kinh tế - xã hội trong đó có du lịch của Hải Dương.
+ Thời gian: khai thác phát triển du lịch chủ yếu trong giai đoạn 2004 -
2009.
+ Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động du lịch dựa trên cơ sở làng nghề
thủ công truyền thống - làng gốm Chu Đậu – huyện Nam Sách - Hải Dương.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Khi nghiên cứu một vấn đề cụ thể nào đó phải đặt nó trong vị trí
tương quan với các vấn đề, các yếu tố trong hệ thống cao hơn và trong cấp
phân vị thấp hơn. Khi nghiên cứu du lịch làng gốm Chu Đậu – huyện Nam
Sách phải đặt trong mối quan hệ với sự phát triển chung của du lịch tỉnh Hải
Dương. Trong mối quan hệ này làng Chu Đậu chỉ là một đơn vị phân cấp
rất nhỏ, nhưng có đặc điểm, qui luật vận động, phát triển riêng và luôn có
6
mối quan hệ qua lại, chặt chẽ với các hệ thống khác, phải vận dộng theo qui
luật của toàn hệ thống.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Hệ thống lãnh thổ du lịch là hệ thống xã hội được tạo thành bởi các
thành tố: tự nhiên, văn hoá, lịch sử, con người có mối quan hệ qua lại, mật
thiết gắn bó với nhau một cách hoàn chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh
giá các nguồn lực du lịch thường được nhìn nhận trong mối quan hệ về mặt
không gian hay lãnh thổ nhất định để đạt được những giá trị đồng bộ về các
mặt kinh tế - xã hội và môi trường.

4.1.3. Quan điểm lịch sử và viễn cảnh
Vận dụng quan điểm lịch sử và viễn cảnh khi nghiên cứu đề tài:
- Chú ý khía cạnh nguồn gốc phát sinh, lịch sử khai thác làng gốm
Chu Đậu - tỉnh Hải Dương.
- Phân tích sự tiềm năng du lịch trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế
giới và hoàn cảnh thực tế của làng gốm Chu Đậu, tỉnh Hải Dương.
4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Sự phát triển của bất cứ ngành kinh tế nào cũng gắn liền với vấn đề
môi trường, điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành du lịch nơi môi
trường được xem là yếu tố sống còn, quyết định sự tồn tại của hoạt động du
lịch [35]. Quan điểm phát triển du lịch bền vững được vận dụng khi nghiên
cứu lãnh thổ du lịch Hải Dương nói chung và làng gốm Chu Đậu nói riêng
được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Có triển vọng phát triển lâu dài.
- Không gây lãng phí tài nguyên và bảo vệ được sự đa dạng tự nhiên,
văn hoá, xã hội; thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt
động du lịch.
- Phát triển du lịch được thống nhất trong qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương.
7
- Thường xuyên nghiên cứu tình hình và có điều chỉnh kịp thời.
4.2. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu
4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lí số liệu
Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu, số liệu được giúp cho người
nghiên cứu có cách nhìn tổng quan về vấn đề và đây là phương pháp sử
dụng nhiều, đóng vai trò cơ sở, điều kiện cần thiết để phục vụ trong các đề
tài nghiên cứu khoa học. Cũng chính vì đóng vai trò cơ sở nên phương pháp
này ảnh hưởng tới các kết quả nghiên cứu, tính chính xác, mức độ khoa học.
Phương pháp này thực hiện nhằm nghiên cứu, xử lí các tài liệu trong
phòng dựa trên cơ sở các số liệu, tư liệu, tài liệu từ các nguồn khác nhau và

từ thực tế. Tổng quan tài liệu có được cho phép kế thừa các nghiên cứu có
trước, sử dụng các thông tin đã được kiểm nghiệm, cập nhật những vấn đề
trong và ngoài nước. Việc phân loại, phân nhóm và phân tích dữ liệu sẽ giúp
cho việc phát hiện những vấn đề trọng tâm và những yếu tố khác cần được
tiếp cận của vấn đề nghiên cứu.
Để phục vụ cho việc hoàn thành luận văn này, tác giả đã thu thập các tài
liệu sau:
- Các tài liệu nghiên cứu chung về làng nghề truyền thống; các tài liệu
phục vụ cho việc xác định cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài, tiềm năng và
thực trạng khai thác làng nghề gốm Chu Đậu; tài liệu về chủ chương chính
sách liên quan đến nội dung nghiên cứu: Các văn bản pháp lí của Tổng cục
du lịch về việc phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và các văn
bản có liên quan trực tiếp tới việc phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương như:
“ Tổng kết đề án phát triển du lịch Hải Dương giai đoạn 1996 – 2010;
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Hải
Dương giai đoạn 2011 – 2015”.....
4.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học
8
Khảo sát và xử lí số liệu ngoài thực địa là một trong những phương
pháp truyền thống, đặc trưng quan trọng nhất của Địa lí học. Sử dụng phương
pháp này giúp cho ta tránh được những kết luận, quyết định chủ quan, vội
vàng, thiếu cơ sở thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu, điều tra thực địa được
sử dụng để thu thập, bổ sung tư liệu về hiện trạng tài nguyên du lịch và nó có
vai trò đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội có liên
quan tới hoạt động phát triển du lịch.
Đối với luận văn phương pháp thực nghiệm nhằm bổ sung thêm
nguồn tư liệu vàphương pháp này như sau:
- Tiến hành khảo sát, điều tra thực địa tại làng gốm Chu Đậu. Tại đây,
tác giả tiến hành quan sát, mô tả, chụp ảnh và tiếp xúc với các nghệ nhân của
nghề gốm, với khách du lịch đến làng gốm.

- Tiến hành gặp gỡ, trao đổi với một số khách du lịch ở nơi khác để nhằm
mục đích điều tra mức độ quan tâm của khách du lịch đến gốm Chu Đậu.
- Tiến hành gặp gỡ, trao đổi với chính quyền địa phương, cơ quan quản
lí và phát triển du lịch (sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Hải Dương).
4.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Phương pháp này được vận dụng vào luận văn nhằm làm tăng tính
chân thực cho những khảo sát của luân văn. Đồng thời, việc trao đổi, tiếp
xúc với các chuyên gia sẽ giúp cho tác giả có cái nhìn toàn diện và sâu sắc
hơn về sự hồi sinh của dòng gốm cổ Chu Đậu. Tác giả đã có dịp được trao
đổi với Tiến sỹ sử học Tăng Bá Hoành – người trực tiếp tham gia chỉ đạo
việc khai quật gốm cổ Chu Đậu, nghệ nhân Hạ Bá Đình.
4.2.4. Phương pháp bản đồ
Việc thành lập bản đồ nhằm gắn các số liệu, tài liệu đã được thu thập
và xử lí với không gian lãnh thổ cụ thể. Để xây dựng bản đồ tác giả sử dụng
kĩ thuật GIS với phần mềm Mapinfo 9.0 và Arc Gis 9.2.
9
Trên cơ sở bản đồ nền là bản các bản đồ đã được quét dạng ảnh: bản
đồ hành chính, giao thông, thuỷ văn...thiết kế các lớp dữ liệu mới dựa vào
các số liệu, tài liệu đã tổng hợp được, biên tập, kiểm tra và bổ sung các dữ
liệu...kết quả cuối cùng là thành lập được các bản đồ tỉ lệ 1: 440.000 bao
gồm:
+ Bản đồ chính: Bản đồ hiện trạng khai thác điểm tuyến du lịch tỉnh
Hải Dương; Bản đồ các làng nghề Hải Dương; Sơ đồ làng gốm Chu Đậu;
Bản đồ dự kiến quy hoạch làng gốm cổ Chu Đậu.
5. Những đóng góp mới của luận văn:
+ Làm nổi bật vai trò của làng nghề thủ công trong phát triển du lịch.
+ Phân tích những giá trị cần được bảo tồn của làng gốm Chu Đậu
hiện nay.
+ Thấy rõ tiềm năng khai thác cho du lịch từ làng nghề gốm Chu Đậu.
+ Đưa ra một số kiến nghị để khai thác hiều quả hơn tiềm năng du

lịch của làng nghề gốm Chu Đậu.
6. Cấu trúc luận văn.
Chương 1: Một số cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch gắn
với làng nghề thủ công truyền thống
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch làng nghề gốm Chu
Đậu - Hải Dương.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả hoạt động du lịch của
làng gốm Chu Đậu
10
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch, tài nguyên du lịch và các loại hình
du lịch.
1.1.1. Du lịch
1.1.1.1. Du lịch
Ngày nay, du lịch đang phát triển rất mạnh mẽ và trở thành hoạt động
không thể thiếu của toàn xã hội. Thuật ngữ “du lịch” xuất hiện từ rất lâu và
có rất nhiều nghiên cứu. Cũng vì vậy, có rất nhiều cách định nghĩa khác
nhau về du lịch do các nhà nghiên cứu có các cách tiếp cận và quan điểm
riêng.Có người cho rằng du lịch chỉ là sự đi chơi của các cá nhân trong một
khoảng cách nhất định về địa lý. Một số khác khi đề cập đến khái niệm du
lịch thì lại quan tâm đến sự lưu trú qua đêm của du khách. Ngoài ra, du lịch
còn được mô tả một cách đa dạng, gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí, thỏa
mãn các nhu cầu khác của con người, về cơ bản, tất cả các hoạt động di
chuyển của con người ở trong hay ngoài nước đều bao hàm trong đó ý nghĩa
du lịch (trừ việc nhập cư, cư trú chính trị, đi tìm việc làm hay xâm lược).
Theo Machaud nhà địa lý học người Pháp, khái niệm về du lịch được hiểu:
“Du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất và tiêu thụ, phục vụ cho việc
đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường xuyên với lý do giải trí,

kinh doanh, sức khỏe, hội họp, thể thao và tôn giáo” [Giáo trình kinh tế du
lịch – NXB LĐ – XH - 2004]. Còn rất nhiều quan điểm khác nhau về du lịch
của các học giả khác nhau trong và ngoài nước, nhưng khái niệm về du lịch
được sử dụng phổ biến ở Việt Nam là của I.I. Pirogionic, theo ông Du lịch
là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi, liên quan tới sự di
chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi
11
chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn
hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và
văn hoá.
Khái niệm du lịch được định nghĩa trong Luật Du lịch Việt Nam
(2005): Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.[luật du
lịch 2oo5]
Như vậy, định nghĩa về du lịch được chứa đựng những nội dung cơ
bản sau:
- Là sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên của khách nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng.
- Cùng với mục đích du lịch là việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa và dịch vụ ở điểm đến của khách.
- Là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế
có liên quan đến khách du lịch.
1.1.1.2. Khách du lịch
Luật Du lịch Việt Nam quy định “khánh du lịch là người đi du lịch
hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để
nhận thu nhập ở nơi đến”. Trong đó, phân ra khách du lịch nội địa và khách
du lịch quốc tế.
- Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài
thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

- Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch: công dân Việt Nam, người nước ngoài
thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
12
1.1.1.3. Tài nguyên du lịch
* Khái niệm tài nguyên du lịch:
Ngành du lịch là một trong những ngành định hướng tài nguyên rõ
rệt. Tài nguyên du lịch có ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ du lịch,
đến việc hình thành chuyên môn hóa các vùng du lịch, hiệu quả kinh tế cuả
hoạt động du lịch cũng như sự tồn tại và phát triển của ngành du lịch. Mặc
dù, những ảnh hưởng này chịu sự chi phối của các nhân tố kinh tế - xã hội
(phương thức sản xuất, tính chất của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển
kinh tế - văn hóa và nhu cầu du lịch) nhưng tài nguyên du lịch vẫn đóng vai
trò cơ bản trong sự phát triển ngành du lịch. Do đó, tài nguyên du lịch được
tách ra thành một phân hệ riêng trong hệ thống lãnh thổ du lịch. Rõ ràng,
việc đưa ra khái niệm thế nào là tài nguyên du lịch có ý nghĩa quan trọng,
góp phần định hướng cho sự phát triển của ngành du lịch trong những chặng
đường tiếp theo.
Về thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối
tượng văn hóa, lịch sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng
của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch.
Theo quy định tại điểm 3, điều 10 Luật Pháp lệnh Du lịch năm 2005,
tài nguyên Du lịch được hiểu: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên,
di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động, sáng
tạo của con người có thể sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố
cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch, nhằm tạo ra sự hấp dẫn
du lịch”. [Luật du lịch – 2oo5]
Như vậy, tài nguyên du lịch có thể coi là tiền đề để phát triển du lịch.
Thực tế đã chứng minh, tài nguyên du lịch càng đặc sắc, càng phong phú thì
sức hấp dẫn và hiệu quả du lịch càng cao.

Trên sơ sở đó, có thể hiểu: Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và
văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng sử dụng cho nhu cầu trực
13
tiếp hay gián tiếp hoặc cho việc tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm góp phần
khôi phục và phát triển thể lực và trí lực cũng như khả năng lao động và sức
khỏe của con người.
* Đặc điểm tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô
hình. Nó là phương tiện vật chất trực tiếp tham gia vào việc hình thàh các
sản phẩm du lịch. Đây là giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Giá trị vô
hình của tài nguyên du lịch được du khách cảm nhận thông qua những cảm
xúc tâm lý, làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần (thẩm mỹ, văn hóa) – một trong
những nhu cầu đặc biệt của du khách. Giá trị vô hình của tài nguyên du lịch
còn được thể hiện thông qua những kênh thông tin (như nghe kể lại, qua các
phương tiện truyền thông, qua các chương trình quảng bá sản phẩm du
lịch.....) mà khách du lịch cảm nhận được, ngưỡng mộ và mong muốn đến
tận nơi để thưởng thức. Chính vì thế, giá trị hữu hình và giá trị vô hình được
xem như là một trong những đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch,
khác với những loại tài nguyên khác.
* Các loại tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch được chia thành 2 nhóm: tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn (trong đó có các làng nghề truyền
thống).
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các thành phần, các thể tổng hợp
tự nhiên, được khai thác trực tiếp hay gián tiếp, được sử dụng để tạo ra sản
phẩm du lịch phục vụ cho mục đích phát triển du lịch, như địa hình, khí hậu,
nguồn nước, sinh vật.....
Tài nguyên du lịch nhân văn là những giá trị văn hóa lịch sử, kiến trúc
nghệ thuật, các lễ hội, các làng nghề truyền thống, các thành tựu chính trị và
kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một điểm, một

vùng, một quốc gia. Điểm khác biệt giữa tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
14
nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo
nên, vì thế, chúng phản ánh tư tưởng, trình độ phát triển của con người ở
mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Do đó, chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với số
đông khách du lịch có nhu cầu tìm hiểu và có trình độ hiểu biết cao.
Trong các loại tài nguyên du lịch nói trên thì làng nghề thủ công
truyền thống là một loại tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng, đã hình
thành và phát triển từ lâu, có sức lôi cuốn một lượng lớn du khách. Tài
nguyên du lịch nhân văn bao gồm: Các di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội, làng
nghề, văn hóa ẩm thực.....
1.1.1.4. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch [.....]. Sản phẩm du lịch được cấu
thành từ những bộ phận như các dịch vụ, tài nguyên du lịch…
Các dịch vụ được sử dụng trong sản phẩm du lịch là:
- Dịch vụ vận chuyển: đưa khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch và
trong phạm vi điểm du lịch.
- Dịch vụ lưu trú: đảm bảo cho khách nơi ăn ở trong quá trình thực
hiện chuyến du lịch.
- Dịch vụ giải trí: đảm bảo cho du khách sử dụng một cách hữu ích và
thú vị nhất thời gian rỗi trong các chuyến du lịch.
- Dịch vụ mua sắm: cũng là một hình thức giải trí, đồng thời đối với
nhiều du khách thì việc mua quà lưu niệm cho chuyến đi là không thể thiếu
được.
Ngoài các dịch vụ trên còn có các dịch vụ trung gian, bao gồm: dịch
vụ thu gom, sắp xếp các dịch vụ lẻ thành một sản phẩm du lịch; dịch vụ bán
lẻ sản phẩm…
Sản phẩm du lịch có 4 đặc điểm chính là:
+ Tính chất vô hình.

15
+ Việc sản xuất và tiêu thụ diễn ra cùng không gian va thời gian.
+ Thành phần tham gia có sự hiện diện của khách du lịch.
+ Khả năng tự tiêu hao.
1.1.1.5. Các loại hình du lịch
Hiện nay, có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch của các tác giả
khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau.
- Dựa vào mục đích chuyến đi, du lịch được chia thành: du lịch thiên
nhiên, du lịch văn hóa, du lịch xã hội, du lịch giải trí, du lịch thể thao, du
lịch chuyên đề, du lịch tôn giáo, du lịch sức khỏe, du lịch dân tộc…
- Dựa vào phạm vi lãnh thổ, du lịch được chia thành du lịch quốc tế
và du lịch trong nước.
- Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác như:
+ Dựa vào đặc điểm địa lí của nơi đến du lịch bao gồm du lịch biển,
du lịch núi, du lịch thành phố, du lịch nông thôn.
+ Dựa vào phương tiện giao thông bao gồm du lịch xe đạp, du lịch ô
tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy, du lịch máy bay…
+ Dựa vào phương tiện lưu trú bao gồm du lịch ở khách sạn, motel,
bãi cắm trại và làng du lịch.
+ Dựa vào thời gian du lịch bao gồm du lịch ngắn ngày và du lịch dài
ngày.
+ Dựa vào lứa tuổi bao gồm du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du
lịch trung niên và du lịch người già.
+ Dựa vào hình thức tổ chức du lịch bao gồm du lịch theo đoàn, du
lịch gia đình và du lịch cá nhân.
+ Dựa vào phương thức hợp đồng bao gồm du lịch trọn gói và du lịch
từng phần.
16
1.2. Làng nghề thủ công truyền thống và mối quan hệ của nó với phát
triển du lịch

1.2.1. Một số khái niệm có liên quan
* Nghề thủ công truyền thống.
Khi đề cập đến khái niệm nghề thủ công truyền ở nước ta, có rất nhiều
tên gọi khác nhau: nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công, nghề
phụ, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.....
Để tránh sự chồng chéo về các khái niệm, cần hiểu cụ thể thế nào là
nghề thủ công truyền thống, từ đó đưa ra khái niệm chính xác nhất.
Nghề thủ công truyền thống trước hết là nghề tiểu thủ công nghiệp
được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập
trung tại một vùng hay một làng nào đó. Từ đó đã hình thành các làng nghề,
phố nghề, xã nghề. Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là phải
có kỹ thuật và công nghệ truyền thống, có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành
nghề. Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hóa, đồng thời vừa có tính nghệ
thuật và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghề thủ công truyền thống của nước ta rất đa dạng và phong phú, có
những nghề đã hình thành và tồn tại hàng trăm năm. Nhiều sản phẩm từ lâu
đã nổi tiếng trong và ngoài nước. Nghề truyền thống thường được truyền
theo phạm vi từng làng. Mỗi nghề bao giờ cũng có người khởi đầu, dân làng
tôn vinh là ông tổ của nghề. Trong những làng nghề truyền thống, đại đa số
người dân biết làm nghề truyền thống đó. Họ cũng có thể phát triển các nghề
khác nhưng những nghề này chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Với sự phát trển của khoa học – công nghệ ngày nay, việc sản xuất
các sản phẩm có tính truyền thống đã phần nào được hỗ trợ bởi quy trình
công nghệ mới, với nhiều nguyên vật liệu mới. Do vậy, khái niệm nghề
truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn, có thể được hiểu như
sau: “Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện
17
từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này sang đời khác và còn tồn tại đến
ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại mày
móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống,

và đặc biệt, sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc”.[Trần Minh Yến –Làng nghề truyền thống trong qtr CNH HĐH –
NXB KH XH 2004]
* Làng nghề
Khái niệm làng nghề được hiểu là làng tuy vẫn diễn ra các hoạt động
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ lẻ, cũng có một số nghề phụ
khác (đan lát, làm tương, làm chiếu.....) song đã nổi trội lên một nghề cổ
truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán
chuyên nghiệp, có phường, có hội, có ông trùm, phó cả..... cùng một số thợ
chính và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định và sống
chủ yếu bằng nghề đó. Họ sản xuất ra những mặt hàng thủ công, có tính mỹ
nghệ. Những sản phẩm này trở thành sản phẩm hàng hóa có quan hệ thông
thương với thị trường trong nước và tiến tới mở rộng xuất khẩu ra thị trường
nước ngoài. Những làng nghề này ít nhiều đã nổi danh từ lâu, có quá khứ
hàng trăm năm. Tên làng cũng có khi đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục
ngữ..... trở thành di sản văn hóa dân gian.
Như vậy, có thể thấy, làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở
nông thông, được tạo nên bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một
không gian địa lý nhấy định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống
từ nguồn thu chủ yếu từ nghề thủ công, giữa họ có mối liên kết về kinh tế,
xã hội và văn hóa.
Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành
và phát triển theo yêu cầu phân công lao động và chuyên môn hóa, nhắm
đáp ứng nhu cầu phát triển của nông thôn. Các làng nghề truyền thống cũng
chịu sự tác động mạnh mẽ của nền nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với
18
những đặc trưng của văn hóa lúa nước, và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ,
tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng có đại đa số người
chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ

nghề đó. Tiêu chí để xem một cách cụ thể đối với làng nghề điển hình là: Số
hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề chiếm từ 40 – 50%; thu nhập từ nghề
thủ công chiếm > 50% tổng giá trị sản lượng của làng [BÙI VĂN VƯỢNG
– LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỂN THỐNG VN – NXB VHTT –
2OO2]. Tuy nhiên, những tiêu chí này chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt định
lượng. Hiện nay, mỗi làng nghề có sự khác nhau về quuy trình công nghệ,
tính chất sản phẩm và số người tham gia vào quy trình sản xuất. Do vậy, sự
phát triển của các làng nghề thường khác nhau và có sự biến động khác nhau
trong từng thời kỳ.
Hiện nay, khái niệm làng nghề đã được mở rộng hơn, cùng với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và sự phân công lao động. Khái niệm
làng nghề không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm nghề thủ
công. Điều này có thể được hiểu ở hai góc độ: Thứ nhất: Công nghệ sản xuất
không hoàn toàn là công nghệ thủ công như trước đây, mà ở nhiều làng nghề
đã có áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai: trong các làng
nghề, khi sản xuất phát triển ở mức độ cao hơn thì sẽ làm nảy sinh sự phát
triển của nhiều ngành nghề khác nhằm phục vụ cho nó. do vậy, sẽ xuất hiện
nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản
phẩm cho các hộ và các cơ sở chuyên làm nghề thủ công. Từ đó, hình thành
những làng nghề mới với mô hình kết hợp nhiều nghề, điển hình là mô hình
kết hợp Nông – công – thương – dịch vụ.
Như vậy, khái niệm làng nghề có thể hiểu là những làng nông nghiệp
có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ
trọng thu nhập so với nghề nông.
19
* Làng nghề thủ công truyền thống:
Khái niệm làng nghề thủ công truyền thống được khái quát dựa trên
hai khái niệm nghề thủ công truyền thống và làng nghề. Làng nghề thủ công
truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân
và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự

liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ
thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có
ý thức tuân thủ những chế ước xã hội và gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về
nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng
phường nghề, trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển nghề nghiệp đã
hình thành ngay trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền thống của họ.
Trong khái niệm trên, làng nghề thủ công chỉ bao hàm các nghề thủ
công nghiệp. Tuy nhiên, trong đà phát triển kinh tế hiện nay thì khu vực
dịch vụ lại đóng vai trò quan trọng và trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về
mặt tỷ trọng ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy, nghề
buôn bán dịch vụ ở nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Do đó,
chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực làng nghề sẽ có làng một nghề, làng
nhiều nghề, có làng truyền thống, làng nghề mới.
Qua nghiên cứu thực tế và tìm hiểu về làng nghề, chúng ta có thể đưa
ra một số khái niệm như sau:
- Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại
hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ
hoặc không đáng kể.
- Làng nhiều nghề là những làng nghề xuất hiện và tồn tại nhiều nghề,
có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần tương đương nhau.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong
lịch sử và tồn tại cho đến ngày nay, như làng gốm Bát Tràng, làng gỗ Đồng
Kỵ (Bắc Ninh).....
20
- Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa
của các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Như vậy, làng nghề thủ công truyển thống là một kiểu làng nghề
truyền thống, thường có nhiều người dân làm nghề cổ truyền hoặc một vài
dòng họ chuyên làm nghề lâu đời theo kiểu cha truyền con nối.

Hiện nay, trên cả nước có khoảng hơn 300 làng nghề thủ công truyền
thống, nó phát triển và phân bố rộng khắp các địa phương. Có sự phân bố
này là nhằm khai thác và phát huy các thế mạnh đặc thù của từng vùng,
miền để từ đó góp phần đa dạng hóa những sản phẩm và tạo ra những giá
trị độc đáo riêng. Do vậy, chúng có những đặc trưng và vai trò nhất định.
1.2.2. Đặc trưng của làng nghề thủ công truyền thống
Làng nghề thủ công truyền thống thường xuất hiện gắn liền với những
hoạt động nông nghiệp ở nông thôn. Thuở ban đầu phần lớn người dân trong
làng đều sinh sống bằng việc sản xuất nông nghiệp và thường là các làng
thuần nông. Tuy nhiên, trong những lúc nông nhàn, người nông dân đã biết
tận dụng những nguyên liệu sẵn có (tre, nứa, song, mây, rơm.....) tự tay làm
ra một số loại sản phẩm, ban đầu chỉ để phục vụ cho những nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày (rổ, rá, nón, chổi...). Về sau, khi lực lượng lao động tăng lên,
một bộ phận đã dần tách ra làm và sống bằng nghề thủ công đó. Như vậy,
những người nông dân này đã trở thành thợ thủ công, và làng nghề thủ công
truyền thống cuãng xuất hiện từ đó. Hiện nay, do sự đa dạng hóa của các sản
phẩm, đáp ứng kịp với nhu cầu của thị trường, một số làng đã nhập nguyên
liệu từ nơi khác. Tuy nhiên, việc sư dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa
phương vẫn là chủ yếu do yếu tố đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Tại các làng nghề thủ công truyền thống, công cụ sản xuất thường thô
sơ, đơn giản, sử dụng lao động ở mọi lứa tuổi, chủ yếu là người địa phương
nhưng sản phẩm làm ra vẫn mang tính sáng tạo, tính thẩm mỹ cao và đậm đà
21
bản sắc dân tộc. Đại đa số các làng nghề thủ công truyền thống có sản phẩm
được làm ra từ chính đôi bàn tay của mình kết hợp với những công cụ đơn
giản, thô sơ (như đục đẽo ở các làng làm nghề mộc, dùng bàn xoay để nặn
gốm sứ.....).
Mặc dù ở một số làng nghề đã có sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc
nhưng không để thay thế hoàn toàn đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, vì
xuất phát từ đặc thù của những sản phẩm, cũng như thị hiếu của người tiêu

dùng, các sản phẩm làm ra đòi hỏi phải có sự khéo léo của bàn tay, óc sáng
tạo của nghệ nhân mà máy móc không thể thay thế được. Đây cũng chính là
lợi thế để các làng nghề tận dụng sức lao động của hầu hết mọi lứa tuổi, gắn
với những công đoạn phù hợp khác nhau. Tuy nhiên, công đoạn cuối cùng
để hoàn thiện các sản phẩm lại đòi hỏi phải có đôi bàn tay của những nghệ
nhân, những người thợ cả có những bí quyết nghề nghiệp. Vì vậy, những
phương thức cha truyền con nối trở thành một phần quan trọng để tồn tại
các làng nghề thủ công truyền thống.
Thị trường của những sản phẩm làng nghề thủ công truyền thống
chưa thực sự ổn định, thường tự phát, chưa có chiến lược xây dựng thị
trường nòng cốt rõ ràng, thiếu kế hoạch nghiên cứu và phát triển thị trường
tiềm năng. Mặc dù các làng nghề thủ công truyền thống ở nước ta đã có
quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, nhưng tính đến nay, trong sự phát
triển của các làng nghề, việc xúc tiến, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm còn
nhiều bất cập. Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và sự đơn lẻ của các
sản phẩm được làm ra nên việc tiêu thụ các sản phẩm này vẫn tiến hành tại
chỗ. Trước đây, ở nhiều địa phương, hoạt động sản xuất của các làng nghề
thủ công truyền thống còn mang tính tự cấp, tự túc hoặc thị trường tiêu thụ
còn nhỏ hẹp. Hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công phong phú và
rộng lớn hơn nhưng các làng nghề vẫn gặp nhiều khó khăn khi bước vào cơ
chế thị trường.
22
1.2.3. Điều kiện hình thành và phát triển làng nghề thủ công truyền thống
1.2.3.1. Vị trí địa lí
Đây là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết dịnh tới sự hình thành
và đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài đối với bất cứ làng nghề thủ công
truyền thống nào ở nước ta.
Thực tế cho thấy, hầu hết các làng nghề đều nằm ở vị trí thuận lợi về
giao thông đường thủy, đường bộ hoặc gần nguồn nguyên liệu. Tại các lưu
vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Cầu, sông Thương..... đã quần tụ

nhiều làng nghề, tạo thành các trung tâm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
nổi tiếng. Nằm tại các đầu mối giao thông này cho phép các làng nghề có
thể dễ dàng chuyên chở vật liệu, cũng như trao đổi và bán sản phẩm, không
những ở trong vùng mà còn thông thương với các vùng khác, kể cả xuất
khẩu. Đặc biệt, trước đây, do điều kiện giao thông bộ chưa phát triển thì yếu
tố “bến sông bãi chợ” luôn đóng vai trò chính trong việc vận chuyển, buôn
bán của làng nghề. Bên cạnh đó, để quyết định mở nghề lập nghiệp, các Tổ
nghề còn đặc biệt quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu thích hợp cho yêu
cầu sản xuất lâu dài. Vì vậy, phần lớn các làng nghề đều hình thành nghề
chính của mình trên cơ sở nguồn nguyên liệu có sẵn của địa phương. Điển
hình nhất là các làng gốm Hương Canh; Thổ Hà; Chu Đậu.... Một số làng
nghề nếu không có nguồn nguyên liệu tại chỗ (chạm khắc gỗ, nghề song
mây đan....) thì sẽ có vị trí thuận lợi cho việc chuyên chở nguyên liệu như
gần các bến sông, gần đường giao thông..... Do vậy, nếu không có hai yếu tố
kể trên (nguyên liệu, bến sông) kể như không thể tồn tại những làng nghề
lâu đời và nổi tiếng đến ngày nay như làng gốm cổ Bát tràng, làng trành
Đông Hồ, giấy dó Yên Thái.....
1.2.3.2. Dân cư và lao động
Là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh
tế nói chung và làng nghề nói riêng. Dân số và quy mô dân số có ảnh hưởng
23
lớn đến sự hình thành và phát triển các làng nghề. Tại những vùng nông
thôn có mật độ dân số cao, diện tích đất nông nghiệp ít, thu nhập chủ yếu từ
nông nghiệp nhưng khá thấp, tình trạng dư thừa lao động trong thời kỳ nông
nhàn diễn ra thường xuyên, đã tạo điều kiện để hình thành các nghề phi
nông nghiệp kiêm. Dần dần, từ các làng nghề phi nông nghiệp kiêm, quá
trình chuyên môn hóa sản xuất, tích tụ vốn, kinh nghiệm sản xuất đã dẫn đến
các làng nghề chuyên nghề, các làng thủ công nghiệp kiêm buôn bán. Đây
cũng chính là nguyên nhân giải thích tại sao đồng bằng Bắc Bộ tập trung rất
nhiều các làng nghề thủ công truyền thống.

Nghệ nhân, những người thợ thủ công và những chủ cơ sở sản xuất
kinh doanh cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển các làng
nghề. Những nghệ nhân với đôi bàn tay vàng đã tạo nên những sản phẩm
quý giá, tinh xảo và độc đáo. Đó cũng là những sản phẩm văn hóa sống mãi
với thời gian, góp phần làm vẻ vang cho dân tộc và các làng nghề. chính bí
quyết của làng nghề mình. Điều này không chỉ là dạy nghề mà còn là truyền
nghề, bởi thế hệ nối tiếp chính là con, cháu, họ hàng của các nghệ nhân. Mỗi
làng nghề thường có ba thế hệ thợ thủ công cùng tham gia sản xuất, kinh
doanh, duy trì và phát triển ngành nghề này ngày càng thịnh vượng hơn.
Chính tính đa dạng và khác biệt của các yếu tố kỹ thuật của các nghệ nhân
đã tạo nên tính đa dạng, phong phú của các sản phẩm làng nghề, đáp ứng
nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân.
Hiện nay, ở nhiều làng nghề truyền thống vẫn còn rất nhiều nghệ nhân
tâm huyết với nghề, muốn gìn giữ và phát triển nghề. Bên cạnh đó, một lực
lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với điều
kiện mới của nền kinh tế thị trường, đã trở thành nhân tố quan trọng quyết
định đến sự kế tục và phát huy các làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, một
hạn chế rất lớn là chất lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ chuyên môn
và trình độ văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp, là một lực
24
cản lớn trông việc thúc đẩy các làng nghề,đặc biệt là các làng nghề thủ công
truyền thống.
1.2.3.3. Sự biến động về thị trường
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống phụ thuộc rất lớn
vào thị trường và sự biến động của nó. Sản xuất ngày càng phát triển càng
phản anhsrox sự chi phối của quan hệ cung cầu và quy luật cạnh tranh.
Những làng nghề có khả năng thích với sự thay đổi của nhu cầu thị trường
thường có tốc độ phát triển nhanh. Đó là những làng nghề mà sản phẩm của
nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới cho phù hợp với nhu
cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Điều này được chứng minh qua sự phát

triển mạnh của một số làng nghề truyền thống như gốm sứ mỹ nghệ, chạm
khắc gỗ, chế biến lương thực thực phẩm. Ngược lại, một số làng nghề không
phát triển được, ngày càng bị mai một, thậm chí có nguy có mất đi vì nhiều
lý do: Chưa đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường, thị trường
ít sử dụng đến những sản phẩm đó (giấy dó, tranh dân gian......).Những làng
nghề nhanh nhạy trong việc biến những sản phẩm của mình trở nên phù hợp
hơn với thị hiếu người tiêu dùng nhưng vẫn không làm mất đi nét truyền
thống như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, chiếu Nga Sơn (Thanh Hóa) hiện
nay đã mang lại bộ mặt mới cho kinh tế của làng nghề. Như vậy, thị trường
có tác động mạnh tới phương hướng phát triển, cách tổ chức sản xuất, cơ
cấu sản phẩm và là động lực thúc đẩy sản xuất của làng nghề phát triển.
Mặt khác, thị trường biến động cũng sẽ làm sản xuất không ổn định.
1.2.3.4. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống đường giao thông, cấp thoát nước,
bưu chính viễn thông. Thực tế đã chứng minh, các làng nghề chỉ phát triển
mạnh khi có kết cấu hạ tầng đảm bảo và đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng
tạo điều kiện, tiền đề cho sự ra đời và ra đời của các cơ sở sản xuất, tạo điều
kiện cho khai thác và phát huy tiềm năng sẵn có của làng nghề. Sự phát
25

×