Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

dục. Để góp phần tiếp tục phát triển giáo dục, việc tìm ra: "Một số biện pháp triển khai thực hiện xã hội hoá giáo dục ở huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.59 KB, 113 trang )


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hoá giáo dục là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của
Đảng và Nhà nước, tạo động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển
một nền giáo dục tiên tiến, chất lượng ngày càng cao trên cơ sở có sự tham
gia của toàn xã hội. Là một trong những phương thức thực hiện để mọi
người dân đều có cơ hội được học tập. Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII),
Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), Kết luận hội nghị Trung ương 6 (khoá
IX), Nghị quyết Trung ương (khoá X) đã khẳng định: "Đẩy mạnh xã hội hoá
giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng
để tiếp tục phát triển giáo dục". Chủ trương xã hội hoá giáo dục là xuất phát từ
quan điểm coi giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của nhân
dân.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đòi hỏi phải đào tạo một nguồn nhân lực rất lớn có chất lượng cao.
Vì vậy, phải phát triển mạnh mẽ quy mô giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng cao của nhân dân. Trong điều kiện đó, Nhà nước chưa
đủ sức và không thể bao cấp toàn bộ sự nghiệp phát triển giáo dục thì xã
hội hoá giáo dục là một trong những phương thức cơ bản để phát triển giáo
dục.
Vì vậy, cùng với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân
sách Nhà nước, cần làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc đối với sự nghiệp giáo dục, thể hiện
quan điểm của Đảng "Coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu".
Trong những năm qua giáo dục huyện Thanh Sơn tiếp tục phát triển,
Đã hoàn thành phổ cập Tiểu học năm 1999 ; THCS năm 2003. Tuy nhiên
công tác giáo dục, vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ
trong tình hình mới, cơ sở vật chất trang thiết bị còn thiếu, đội ngũ giáo
viên thiếu, chưa đảm bảo cơ cấu giữa các môn, đời sống giáo viên còn
1



gặp khó khăn. Mô hình trường PTCS còn phổ biến ở một số xã đặc biệt
khó khăn trong huyện. Một số địa phương cấp ủy Đảng, chính quyền,
đoàn thể, cha mẹ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí tầm quan trọng của
giáo dục. Nhận thức trong một số cán bộ nhân dân về công tác xã hội
hoá giáo dục còn phiến diện không đầy đủ, nên chưa huy động được các
nguồn lực, các LLXH tham gia phối hợp trong công tác giáo dục.
Để góp phần tiếp tục phát triển giáo dục, việc tìm ra: "Một số biện
pháp triển khai thực hiện xã hội hoá giáo dục ở huyện Thanh Sơn - tỉnh
Phú Thọ " là một việc rất quan trọng và cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp triển khai thực hiện xã hội hoá giáo dục của
phòng giáo dục trên địa bàn huyện miền núi Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Vấn đề xã hội hoá giáo dục cấp huyện.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp triển khai thực hiện xã hội hoá
giáo dục của phòng Giáo dục ở huyện miền núi Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu biện pháp của phòng giáo dục trong việc triển khai
thực hiện xã hội hoá giáo dục đối với các trường THCS huyện miền núi
Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ.
- Số liệu điều tra từ năm 2000 đến năm 2006
- Khách thể điều tra: cán bộ phòng Giáo dục, hiệu trưởng các trường THCS
trong huyện, cán bộ các ngành các giới, các LLXH trong huyện, cha mẹ học sinh, …
5. Giải thuyết khoa học
Nếu Phòng giáo dục áp dụng biện pháp triển khai thực hiện xã hội
hoá giáo dục phù hợp với:
- Chức năng của phòng Giáo dục
- Hoàn cảnh và điều kiện của huyện miền núi
Thì sẽ nâng cao chất lượng công tác xã hội hoá, góp phần phát triển

giáo dục trong huyện.
2

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến xã hội hoá giáo
dục, những vấn đề quản lý giáo dục, những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Nhà nước về vấn đề xã hội hoá giáo dục.
- Khảo sát, phân tích thực trạng xã hội hoá giáo dục và công tác chỉ
đạo triển khai xã hội hoá giáo dục ở huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ, những
thuận lợi, khó khăn, tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan.
- Đề xuất và khảo nghiệm biện pháp triển khai thực hiện xã hội hoá
giáo dục mang tính khả thi và hiệu quả trên địa bàn huyện Thanh Sơn - tỉnh
Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tổng hợp chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về xã hội
hoá giáo dục.
- Phân tích những vấn đề lý luận, các công trình nghiên cứu liên
quan đến xã hội hoá giáo dục.
- Hệ thống hoá, khái quát hoá các khái niệm, xác định bản chất của
những vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
* Phương pháp bổ trợ
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Sử dụng thống kê toán học xử lý kết quả khảo sát, điều tra.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn chính
được chia làm 3 chương:

- Chương 1. Cơ sở lý luận của việc triển khai xã hội hoá công tác
giáo dục phổ thông
3

- Chương 2. Thực trạng triển khai xã hội hoá giáo dục ở huyện miền
núi Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ
- Chương 3. Đề xuất biện pháp chỉ đạo triển khai thực hiện xã hội
hoá giáo dục đối với các trường THCS trên địa bàn huyện
4

Chương 1
Cơ sở lý luận của việc triển khai
xã hội hoá công tác giáo dục phổ thông
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Quá trình xuất hiện tư tưởng xã hội hoá giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó nảy sinh, phát triển và
tồn tại cùng với xã hội loài người. Giáo dục phát triển bởi sự chi phối của
chính nền kinh tế- xã hội và ngược lại. Bằng việc thực hiện những chức
năng của mình giáo dục có vai trò to lớn trong việc tái sản xuất sức lao
động, đóng góp thúc đẩy phát triển xã hội. Chính do tác động đến nhân
cách toàn vẹn của con người nên giáo dục có khả năng tác động đến các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội, mà con người là chủ
thể. Những tác động của giáo dục đối với các quá trình xã hội, xét về mặt
xã hội học thì mỗi chế độ xã hội, tồn tại một nền giáo dục tương ứng, xã
hội nào thì giáo dục ấy, không có nền giáo dục đứng ngoài xã hội. Giáo dục
là con đường ngắn nhất dành cho mọi người hoàn thiện nhân cách, khả
năng, năng lực của bản thân, để hoà nhập cộng đồng. Đối với xã hội, giáo
dục đã trở thành động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Do vậy giáo dục
phải đi trước một bước, đón đầu những ứng dụng khoa học kỹ thuật góp
phần thúc đẩy nền KT- XH khi nền kinh tế- xã hội phát triển thì tiếp tục

đầu tư cho sự phát triển giáo dục. Quá trình này làm nảy sinh mô thuẫn đó
là: Đòi hỏi sự đầu tư cho giáo dục và sức đầu tư của Nhà nước cho giáo
dục, mà đòi hỏi bao giờ cũng lớn hơn mức đầu tư, bởi vậy việc thực hiện
công tác xã hội hoá giáo dục là một việc làm hợp quy luật, việc làm tất
nhiên phải có và nó phải tồn tại cùng với sự tồn tại và phát triển của giáo
dục.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo.
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào các bậc cha mẹ cũng mong muốn cho con
cái mình được học hành nên người. Truyền thống hiếu học ấy thể hiện ở
5

chỗ nhân dân ta rất coi trọng việc học, quý mến thầy giáo và quan tâm đến
công tác giáo dục thế hệ trẻ. Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, tuy Nhà
nước chỉ mở trường dạy học dành cho con em các quan lại, các nhà chức
trách và con cái nhà giàu nhưng đại bộ phận nhân dân lao động cũng đã tự
lo liệu để cho con em mình được đi học bằng cách gửi con cho các thầy đồ
dạy hoặc do dân tự mở lớp mời thầy về dạy.
Việc nhân dân tự chăm lo cho con em mình được học hành bằng
cách kẻ ít người nhiều, kẻ góp công, người góp của bồi dưỡng thầy giáo;
cũng như việc động viên, cổ vũ, tôn vinh người học thành đạt vốn là việc
làm của nhân dân ta đã có từ thời xa xưa. Sự chăm lo vật chất và động viên
tinh thần cho người dạy và người học ấy đã nói lên sự quan tâm của xã hội
đối với công tác giáo dục; hay nói một cách khác, xã hội hóa giáo dục ở
nước ta đã xuất phát từ truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo này.
Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, xã hội hóa
giáo dục ở nước ta đã có những bước phát triển mới. Từ khi Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công, quan điểm
giáo dục của Đảng và Bác Hồ đã được khởi xướng và dấy lên nhiều phong
trào học tập rầm rộ. Khẩu hiệu “Diệt giặc dốt” và sắc lệnh thành lập Nha
bình dân học vụ của Chính phủ đã mở đầu cho nền giáo dục của dân, do

dân và vì dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, giáo dục là một bộ
phận của cách mạng, do đó giáo dục cũng là sự nghiệp của quần chúng.
Đáp ứng lời kêu gọi diệt giặc dốt của Bác Hồ và Chính phủ, phong trào học
tập được nhân dân hưởng ứng sôi nổi, phong trào lan ra rộng khắp từ thành
thị đến nông thôn, đâu đâu cũng có người đi học, đâu đâu cũng có các lớp
xóa nạn mù chữ. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chủ Tịch có tính thuyết phục
cao và đem lại hiệu quả to lớn. Hình thức tổ chức dạy- học được thực hiện
theo khẩu hiệu hành động “ Người biết chữ dạy người chưa biết, chồng dạy
vợ, cha dạy con”. Ai biết chữ đều có thể tham gia dạy bình dân học vụ.
Quan điểm giáo dục của Đảng và Bác Hồ đã thực sự đi vào lòng dân và đã
6

khơi dậy được truyền thống hiếu học của dân tộc, tạo nên một sức mạnh
tổng hợp vượt qua mọi khó khăn thử thách để “ai cũng được học hành”. Từ
đấy Đảng và nhân dân ta đã ý thức sâu sắc lời dạy của Bác Hồ: “Vì lợi ích
mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Tuy ở
trong hoàn cảnh đất nước với nhiều khó khăn, thử thách, Đảng và nhân dân
ta đang phải cùng một lúc đương đầu với nhiều thứ giặc: giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm nhưng nền giáo dục Việt Nam do Bác Hồ khởi xướng đã
phát triển một bước khá dài và mạnh mẽ, huy động được sự đóng góp to
lớn của toàn xã hội.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi (1975). Đảng và Chính
phủ đã có nhiều nỗ lực đầu tư phát triển giáo dục nhưng do cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp, tổ chức thực hiện còn máy móc nên chưa phát
huy hết tiềm năng sẵn có để phát triển mạnh. Chúng ta thay vì thực hiện
sự quản lý giáo dục của Nhà nước, đã hành chính hóa giáo dục, Nhà nước
hóa giáo dục, làm cho giáo dục mất khả năng chủ động và thiếu tính sáng
tạo. Nhận thức được tình hình này, Đảng và Chính phủ đã thực hiện nhiều
đợt cải cách giáo dục nhưng vẫn còn mang tính chắp vá, chất lượng chưa
đáp ứng được nhu cầu KT- XH, nhất là trong thời điểm này, khi nhân loại

đang bước sang thời kỳ “làn sóng thứ ba”, vào thời đại văn minh hậu công
nghiệp, khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, xu hướng hội nhập quốc
tế, toàn cầu hóa, đa phương hóa là quy luật tất yếu để phát triển đất nước.
Ngày 9/12/1981 Bộ Giáo dục ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt
động của Hội đồng giáo dục các cấp chính quyền ở địa phương nhưng
mãi đến Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), với đường
lối đổi mới của Đảng, đất nước ta bắt đầu chuyển mình để bước sang
một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới tư duy trên các lĩnh vực mà trước tiên
là lĩnh vực kinh tế hàng hóa - kinh tế thị trường với xu thế mở cửa. Hoàn
cảnh khách quan và chủ quan đã đặt ra nhiều thời cơ và thách thức mới
đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải phát triển với tốc độ cao, đạt tới
7

trình độ phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quan điểm
đa dạng hóa, đa phương hóa trong giáo dục vốn có được tiếp tục khơi
dậy và nâng cao lên một tầm mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của BCH TW khóa VIII đã chính
thức đề cập đến nội dung của công tác xã hội hóa giáo dục: “Nhà nước cần
đầu tư nhiều hơn cho giáo dục nhưng vấn đề rất quan trọng là phải quán
triệt sâu sắc và tiến hành tốt các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây
dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của
toàn xã hội… Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính
của đầu tư phát triển… Phải coi đầu tư cho phát triển là một trong những
hướng chính, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự
quản lý của của Nhà nước.” [34, tr 61].
Không riêng ở Việt Nam mà nhiều nước khác trên thế giới như ở
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, các nước Châu á
Thái Bình Dương cũng đều rất quan tâm đến việc xây dựng và củng cố các

tổ chức phục vụ trực tiếp cho giáo dục, vì chất lượng đào tạo thế hệ trẻ.
Trung Quốc đã xác định “Cần phải đưa giáo dục lên vị trí ưu tiên cho sự
phát triển”. ấn Độ cũng huy động xã hội tham gia công tác giáo dục gắn
liền với phát triển nông thôn, huy động cộng đồng phát triển giáo dục phi
chính quy.
Như vậy, xã hội hóa giáo dục là một hệ thống định hướng hoạt động
của mọi người, mọi LLXH nhằm trả lại bản chất xã hội cho giáo dục, trả lại
nhiệm vụ xã hội cho chính giáo dục, nhằm xây dựng một xã hội học tập.
1.1.2. Xã hội hoá giáo dục là một tư tưởng chiến lược để phát triển giáo
dục ở Việt Nam
8

Với quan điểm lấy con người làm "Trung tâm của sự phát triển",
giáo dục và đào tạo là " Quốc sách hàng đầu", Huy động toàn xã hội làm
giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục
quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước, chủ trương này là hoàn toàn đúng
đắn, là thực hiện Nghị quyết của Đảng về công tác giáo dục." Giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng" quá trình giáo dục thế hệ trẻ trở thành người lao
động có tri thức, có năng lực đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế- xã hội
không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục, mà là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, phải có sự tham gia tích cực phối hợp chặt chẽ của toàn xã
hội. Sự tham gia phối hợp ấy phải được tiến hành có tổ chức, khoa học, liên
tục mới mang lại hiệu quả.
Xác định vị trí, vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết thực hiện công
tác xã hội hoá giáo dục, nhiều Nghị quyết, Văn kiện của Đảng chỉ đạo thực
hiện xã hội hoá giáo dục:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ
VII có ghi: " Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là động lực đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế

giới"…" Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu, để phát huy nhân tố con người,
động lực trực tiếp của sự phát triển đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục-
đào tạo, khoa học và công nghệ phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn chặt sự phát triển các lĩnh vực này
với sản xuất và mục tiêu kinh tế - xã hội. Một mặt Nhà nước đầu tư, mặt
khác có chính sách để toàn dân, các thành phần kinh tế cùng làm và đóng
góp vào sự nghiệp này"[32, tr 79 và 121].
Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, xã hội hóa được Đảng ta xác
định là cơ sở để hoạch định hệ thống chính sách xã hội: "Các vấn đề chính
sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò
9

nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải
quyết những vấn đề xã hội". Trên tinh thần ấy, văn kiện Đại hội VIII về
GD&ĐT đã nêu: "Cụ thể hóa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về xã hội hóa sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, trước hết là vấn đề đầu tư
phát triển và bảo đảm kinh phí hoạt động. Ngoài việc ngân sách dành một
tỷ lệ thích đáng cho sự phát triển Giáo dục và Đào tạo, cần thu hút thêm các
nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh
trong và ngoài nước, đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư cho
Giáo dục - Đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng người lao động được đào
tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách GD&ĐT. Đổi mới chế độ học phí
phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội, loại bỏ những đóng góp
không hợp lý nhằm đảm bảo tốt hơn kinh phí giáo dục, đồng thời cải thiện
điều kiện học tập cho học sinh nghèo" [33, tr 88].
Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định "Nhà nước
dành tỷ lệ thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa phát triển GD&ĐT.
Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho GD&ĐT. Đẩy mạnh

hợp tác quốc tế về phát triển Giáo dục - Đào tạo". Cũng tại Đại hội IX, xã
hội hóa được coi là một trong ba phương hướng để đẩy mạnh sự phát triển
GD&ĐT đi vào thế kỷ XXI: "Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa". [35]
Hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta về
xã hội hóa giáo dục thực chất là khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng
trong quá trình phát triển GD&ĐT. Quá trình đó đã chứng minh rằng, xã hội
hóa giáo dục không phải là giải pháp tình thế khi nền kinh tế đất nước còn
khó khăn, điều kiện đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp, mà là một chủ trương
chiến lược lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển giáo dục, ngay cả
đến khi nước ta phát triển thành một nước công nghiệp, có thu nhập quốc
10

dân cao gấp nhiều lần so với hiện nay.
1.1.3. Tư tưởng xã hội hoá của các nhà khoa học giáo dục
Bên cạnh các Văn kiện, Nghị định, Thông tư, Nghị quyết của Đảng
và của Nhà nước, các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục đã bàn luận
nhiều về công tác XHHGD. Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn " Giáo dục
Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI" đã khẳng định: " Sự nghiệp giáo
dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng
làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm
giáo dục" [13, tr 29; 71].
Trong cuốn " Xã hội hoá công tác giáo dục" Tác giả Phạm Tất Dong
đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác này. Các nhà nghiên cứu khác
như Nguyễn Mậu Bành, Võ Tấn Quang, Trần Kiểm, Thái Duy Tuyên, Lê
Đức Phúc… có nhiều bài viết về công tác Xã hội hoá giáo dục. Viện khoa
học Giáo dục nhiều năm qua đã tiến hành hệ thống đề tài nghiên cứu về xã
hội hoá giáo dục.
Trên thế giới tuy tên gọi khác nhau, hình thức tổ chức thực hiện khác

nhau, nhưng việc đưa giáo dục đến với mọi người và mọi người trong xã
hội, mọi tổ chức trong cộng đồng đều phải tham gia xây dựng phát triển
giáo dục. Như ta đã thấy các nước phát triển thì trách nhiệm của mọi người,
của cộng đồng đến giáo dục tốt hơn. Các nhà khoa học đã khẳng định bản
chất của công tác giáo dục: Giáo dục chỉ tồn tại và phát triển dược khi toàn
xã hội cùng tham gia và được hưởng giáo dục. Xã hội hoá công tác giáo
dục là một việc làm tất yếu của quá trình giáo dục. bởi vậy để việc tổ chức
thực hiện XHHGD sao cho hiệu quả cao nhất là tuỳ thuộc vào nhận thức
của mỗi chúng ta.
1.2. Lý luận về xã hội hoá công tác giáo dục
1.2.1. Một số khái niệm liên quan
- Xã hội hoá, xã hội hoá giáo dục, Xã hội hoá giáo dục THCS
- Xã hội hóa
11

Xã hội hóa là quá trình hội nhập của một cá nhân vào xã hội hay một
trong các nhóm của xã hội thông qua quá trình học các chuẩn mực và các
giá trị xã hội. Đó cũng là quá trình tiếp thu và phê phán các giá trị chuẩn
mực và khuôn mẫu hành động mà trong đó mỗi thành viên xã hội tiếp nhận
và duy trì được năng lực hành động xã hội.
Khái niệm trên đây đã nêu lên nội dung cơ bản thuộc phạm trù xã hội
hóa. Từ đó ta có thể rút ra:
Xã hội hóa là quá trình học tập suốt đời của cá nhân. Trong đó, cá
nhân với tư cách là chủ thể hành động không chỉ tiếp thu mà còn làm
phong phú thêm các quan hệ xã hội, các giá trị vật chất và tinh thần dưới
hình thức cá nhân. Yếu tố xã hội là quan trọng nhất nhưng không phải là cơ
sở duy nhất để tạo nên cái độc đáo có một không hai trong nhân cách, có
thể có mâu thuẫn nảy sinh một cách tự phát hay được tạo ra một cách có ý
thức thông qua những yêu cầu khách quan. Do đó, cá nhân chỉ phát triển
khi có sự định hướng cả về nhận thức lẫn hành động của xã hội và giáo

dục.
Xã hội hóa có mục tiêu chủ yếu là: huy động sức mạnh của toàn xã
hội, tạo ra nhiều nguồn lực đa dạng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, làm cho các lĩnh vực này thực sự
gắn bó với dân, do dân và vì dân để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nhưng trong thực tế, không ít người còn có nhận thức chưa đầy đủ
về bản chất và nội dung xã hội hóa. Có người cho rằng xã hội hóa có nội
dung chủ yếu là huy động tiền của trong nhân dân, giảm bớt gánh nặng cho
ngân sách Nhà nước. Quan điểm phiến diện, lệch lạc này cùng với sự
buông lỏng trong quản lý đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực làm
cho người dân hiểu là xã hội hóa đồng nhất với việc thu tiền, làm giảm đi
sự tâm huyết với giáo dục trong việc thực hiện công tác xã hội hóa. Lại có
người cho rằng Xã hội hóa có nghĩa là: Nhà nước và nhân dân cùng làm.
12

Hiểu như vậy là vô tình hạ thấp vai trò quản lý của Nhà nước, dẫn tới việc
chưa thấy được vai trò chủ đạo và thống nhất trong quản lý của Nhà nước.
Hoặc một số ý kiến chưa thấy hết tầm quan trọng của sự phối hợp liên
thông, liên ngành dẫn tới tư tưởng cục bộ, hay địa phương chủ nghĩa trong
giáo dục.
Năm 1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90, khẳng định nội
dung cốt lõi của xã hội hóa bao gồm:
Tuyên truyền, vận động sự tham gia đóng góp rộng rãi của nhân dân
và của toàn xã hội.
Xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các tổ chức Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể quần chúng, các đơn vị kinh tế, cơ sở doanh nghiệp.
Đa dạng hóa các hình thức hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội,
tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân được bình đẳng và chủ động tham
gia các hoạt động xã hội.
Đa dạng hóa các nguồn đầu tư về nhân lực và vật lực đang tiềm tàng

trong nhân dân.
Thực chất nội dung xã hội hóa là quá trình vận động quần chúng
nâng cao tính tích cực và tự giác, phát huy sức mạnh của quần chúng vì sự
nghiệp giáo dục. Đây cũng là quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và cơ
chế quản lý của Nhà nước để đa dạng hóa các hình thức hoạt động giáo
dục.
Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh cách
mạng nói chung và giáo dục nói riêng đã luôn luôn coi trọng việc huy động
toàn xã hội tham gia giáo dục. Đến đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996) vấn
đề xã hội hóa giáo dục đã trở thành một quan điểm để hoạch định hệ thống
các chính sách xã hội, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Như vậy, kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, thuật ngữ "Xã hội hóa"
được dùng chính thức trong các văn kiện của Đảng. Khái niện xã hội hóa
đã hàm chứa một tư tưởng chiến lược, một quan điểm chỉ đạo của Đảng đối
13

với sự phát triển của đất nước ở một giai đoạn mới trong nền kinh tế hàng
hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xã hội hóa giáo dục
Giáo dục là một nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Điều này chứng tỏ không thể tách giáo dục ra
khỏi đời sống xã hội. Giáo dục chính là một phương tiện để xã hội đổi mới
và phát triển.
Xã hội hóa giáo dục là quá trình giáo dục gia nhập và hòa nhập vào
cộng đồng; đồng thời xã hội tiếp nhận giáo dục như là một công việc chung
mà mọi cá nhân, đoàn thể, tổ chức, bộ máy đều có trách nhiệm tham gia.
Xã hội hóa giáo dục có tác dụng tích cực đến quá trình xã hội hóa
con người, xã hội hóa cá nhân. Thực hiện xã hội hóa giáo dục là duy trì mối
liên hệ phổ biến có tính quy luật giữa cộng đồng và xã hội, làm cho giáo
dục phát triển phù hợp với sự vận động của xã hội. Nội dung quy luật này

là ở chỗ: Mọi người phải làm giáo dục để giáo dục cho mọi người. Nghĩa là
xã hội hóa giáo dục có hai phương diện: Mọi người có trách nhiệm, nghĩa
vụ chăm lo phát triển giáo dục và giáo dục là nhằm mục đích phục vụ cho
mọi người, tạo điều kiện để mọi người ở mọi độ tuổi, ở mọi vùng được học
tập, học thường xuyên, học suốt đời nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hai phương diện trên đã nêu rõ hai yêu cầu cơ bản thuộc về bản chất
giáo dục là: xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo
dục và xã hội hóa về quyền lợi giáo dục nghĩa là mọi người có quyền được
thụ hưởng mọi thành quả của giáo dục.
Hai yêu cầu này có quan hệ chặt chẽ và có sự tác động lẫn nhau, trong
đó xã hội hóa quyền lợi giáo dục là mục tiêu, cốt lõi của xã hội hóa giáo
dục, làm sao mọi người đều được học tập.
Trong hoạt động thực tiễn, cần phân biệt rõ tính chất xã hội của
giáo dục và xã hội hóa giáo dục. Nếu không có định hướng rõ ràng thì bản
thân hoạt động giáo dục vẫn có tính chất xã hội một cách tự phát nhưng
14

không thể đạt tới trình độ xã hội hóa đích thực theo ý nghĩa xã hội và
nhân văn của nó.
Cần có sự phân biệt, không thể đồng nhất xã hội hóa giáo dục với
tính chất xã hội của giáo dục. Nếu cho rằng xã hội hóa giáo dục để dẫn đến
giới hạn là chỉ nói đến tính chất xã hội của giáo dục là không đúng. Xã hội
hóa giáo dục là cách nói vắn tắt, ngắn gọn của xã hội hóa công tác giáo
dục. Cần xác định rõ rằng: Nội hàm xã hội hóa giáo dục nói ở đây thuộc
phạm trù phương thức, phương châm, cách làm giáo dục, thuộc phương
thức tổ chức và quản lý giáo dục đúng với bản chất và nội dung xã hội hóa
đã nêu trên.
Là cuộc vận động lớn trong xã hội với sự tham gia đóng góp của các
tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Tập thể, các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn
thể, cơ quan, đơn vị và quần chúng có sự cộng đồng trách nhiệm trong

công tác giáo dục. Là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, trong đó
ngành giáo dục là nòng cốt, đa dạng hóa các nguồn đầu tư: nhân lực, vật
lực, tài lực, trí lực cho giáo dục, phát triển đa dạng các loại hình giáo dục
chính quy và phi chính quy: Công lập, dân lập, tư thục. Mọi người đều có
trách nhiệm đối với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục vừa có quyền lợi
được thụ hưởng những thành quả do giáo dục mang lại. Mọi người đều
được học tập, học thường xuyên, học suốt đời; tiến tới một xã hội học tập.

Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, của xã hội vào việc tham gia công tác giáo
dục. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và phát triển có hiệu
quả sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói riêng và nền giáo dục toàn dân nói
chung. Nói rằng đó là tư tưởng chiến lược vì nó mang giá trị chỉ đạo quá
trình phát triển giáo dục một cách lâu dài. Tư tưởng ấy xuyên suốt toàn bộ
quá trình giáo dục nhằm đạt những mục tiêu đã định.
15

Không nên hiểu xã hội hóa giáo dục chỉ là sự chia sẻ bớt gánh nặng
từ phía Nhà nước sang nhân dân mà quan trọng và sâu sắc hơn xã hội hóa
giáo dục là cộng đồng trách nhiệm và lợi ích, nhằm thu hút sự tham gia của
mọi tầng lớp nhân dân vào phát triển giáo dục, xây dựng nền giáo dục toàn
dân, khuyến khích mọi người học thường xuyên, học suốt đời, gắn bó hữu
cơ giữa giáo dục và phát triển KT- XH. Giáo dục phải đảm bảo công bằng
xã hội, thỏa mãn mọi nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân, đáp ứng, nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khóa
VIII đã nêu rõ: "Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà
nước và của mỗi cộng đồng, của từng gia đình và của mỗi cá nhân. Kết hợp
giáo dục học đường với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội, xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh; người lớn làm gương cho trẻ em noi theo. Phát

động phong trào rộng khắp toàn dân học tập, người người đi học, học ở
trường lớp và tự học suốt đời, người biết dạy người chưa biết, người biết
nhiều dạy người biết ít, mỗi người phải tự nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ. Phát triển các hình thức giáo dục từ xa, tiếp tục đa
dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình trường phù hợp với tình
hình mới, với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và của toàn xã hội."[33, tr 61].
Nghị quyết này đã nêu lên những điểm mới của nội dung xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục là: Người người đều đi học, học thường xuyên,
học suốt đời, do đó toàn xã hội sẽ là một xã hội học tập. Trong các văn
bản trước đó, vấn đề xã hội hóa giáo dục mới chỉ dừng ở mức độ phát
triển quy mô giáo dục. Từ quan điểm trên của Đảng, chúng ta nhận thức
rõ được xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng lớn, một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự kế thừa và phát huy
truyền thống hiếu học, đề cao sự học, chăm lo sự học của nhân dân ta
trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây cũng là bài học lớn của lịch sử xây
dựng hơn 50 năm nền giáo dục cách mạng. Lần đầu tiên công tác xã hội
16

hóa giáo dục được gọi bằng một khái niệm mới mang tính tổng quát là
xã hội hóa sự nghiệp giáo dục.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thêm một lần nữa khẳng định,
đồng thời với chủ trương chuẩn hóa, hiện đại hóa cần tiếp tục "Tăng đầu tư
cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào
tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo
dục ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, phát triển đa
dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích
tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục" [35, tr 12, 204].
Trong Nghị định 90/CP Ngày 21/8/1999 của Chính phủ cũng đã cụ
thể hóa quan điểm xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là quá trình tuyên truyền
vận động và tổ chức để đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đơn

vị tổ chức, đoàn thể trong xã hội cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển
giáo dục, là sự cộng đồng trách nhiệm chung của mọi người để xây dựng
và phát triển một môi trường giáo dục lành mạnh, đa dạng hóa sự đầu tư
vào các hình thức giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước.
- Xã hội hóa giáo dục THCS
Xã hội hoá giáo dục THCS là một phương thức để thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục THCS. Để làm được điều này, xã hội hoá giáo dục THCS
phải huy động được toàn xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình giáo dục.
Trẻ em là đối tượng quan tâm của nhiều ngành, nhiều lực lượng xã
hội, nhiều chương trình. Vì vậy việc huy động các lực lượng xã hội tham
gia vào quá trình giáo dục là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết,
đảm bảo cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục THCS. Cộng đồng địa
phương và các bậc cha mẹ hoàn toàn có khả năng góp phần cụ thể hoá mục
tiêu giáo dục phổ thông vừa phù hợp với địa phương và đáp ứng nguyện
vọng các gia đình. Song tham gia như thế nào để tạo sự đồng bộ và hiệu
quả cao là nội dung khó khăn nhất của cuộc vận động này. Các lực lượng
17

xã hội có tiềm năng và thực sự có khả năng tham gia vào quá trình giáo
dục, giúp nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục, các tổ chức đoàn thể,
xã hội đều có thể tham gia vào việc giáo dục dưới hình thức báo cáo
chuyên đề, nói chuyện nhân ngày kỷ niệm, ngày lễ của dân tộc hoặc địa
phương. Các cơ quan văn hoá thông tin, nhất là các phương tiện thông tin
đại chúng, truyền hình, sách báo và các phương tiện văn hoá khác đem lại
nội dung giáo dục cho học sinh. Các tầng lớp nhân dân có thể cung cấp tài
liệu, bổ sung phần mềm của nội dung giáo dục nhà trường. Để cho cả cộng
đồng cùng tham gia giáo dục thế hệ học sinh, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
giữa nhà trường, các cơ quan quản lý giáo dục, các tổ chức xã hội và các bậc
cha mẹ.

Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh. xã hội hoá giáo dục THCS phải hướng tới
việc huy động toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục. Để
làm được điều đó phải dựa vào lực lượng của toàn xã hội để đảm bảo
cho các môi trường trên được lành mạnh có tính tích cực và có tính
thống nhất trong quá trình tác động đến việc hình thành nhân cách của
thế hệ học sinh.
Môi trường đầu tiên mà chúng ta đề cập tới là môi trường nhà
trường. Xã hội hoá giáo dục THCS trước hết là huy động các lực lượng xã
hội vào việc xây dựng nhà trường từ khung cảnh sư phạm,cơ sở vật chất
của nhà trường, đến nề nếp kỷ cương, không khí học tập, để tạo môi trường
thuận lợi cho việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con
người. Đặc biệt trong việc đổi mới hình thức giáo dục THCS, thực hiện
giáo dục toàn diện cho học sinh phải là một môi trường tốt cho học sinh
tiếp thu các kiến thức và rèn luyện các kỹ năng, ở đây nhà trường luôn giữa
vai trò chủ động trong việc phối hợp với gia đình và xã hội tạo ra môi trường
trên.
18

Thực tế hiện nay một bộ phận cha mẹ thiếu kiến thức kỹ năng làm
cha mẹ một cách khoa học, nên đòi hỏi không chỉ có gia đình mà các lực
lương xã hội cùng chăm lo xây dựng môi trường gia đình trong giáo dục
học sinh. Điều đó có nghĩa Nhà nước và các tổ chức xã hội có giúp đỡ các
gia đình có những điều kiện tối thiểu cần thiết cho việc giáo dục con em
mình, về điều kiện kinh tế, trình độ học vấn, kiến thức nuôi dạy con, nếp
sống văn minh và hơn ai hết, nhà trường cần phải phối hợp chặt chẽ với
gia đình.
Môi trường xã hội đang biến động nhanh chóng và mạnh mẽ, có tác
động rất lớn đến việc giáo dục các thế hệ học sinh. Môi trường xã hội có
nhiều yếu tố tích cực như kinh tế phát triển, giao lưu quốc tế được mở

rộng, dân chủ hoá được đề cao…Cần khai thác mặt thuận lợi đó đối với
việc hình thành nhân cách cho học sinh. Nhưng các mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường đang ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục học sinh.
Vì thế cần phải huy động các lực lượng xã hội vào việc xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh, có ý nghĩa giáo dục tích cực.
Các môi trường nhà trường, gia đình, xã hội đồng thời tác động sẽ
làm cho thế hệ học sinh được giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc, chất lượng cuộc
sống của học sinh được nâng cao hơn, chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI
sẽ được chuẩn bị chu đáo hơn, đầy đủ hơn về các kỹ năng sống về sức khoẻ
và trí tuệ.
Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống trường, lớp đáp ứng nhu cầu
đến trường của lứa tuổi THCS là một vấn đề rất quan trọng. Trong những
năm tới khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển dự báo số học sinh trong độ
tuổi thu hút vào các loại hình ngoài công lập tiếp tục gia tăng. Vì vậy xu
hướng đa dạng hoá các loại hình giáo dục THCS là một tất yếu, nó chịu sự
chi phối và tác động của quá trình phát triển kinh tế xã hội với đặc trưng nhu
cầu chăm sóc, giáo dục học sinh của các tầng lớp dân cư. Chính sự phát triển
mọi mặt của kinh tế xã hội đã đặt ra những nhu cầu mới và chính nhu cầu về
19

chăm sóc giáo dục học sinh của các bậc phụ huynh khác nhau buộc giáo dục
THCS phải không ngừng đa dạng hoá. Đa dạng hoá giáo dục THCS dựa
trên cơ sở mục tiêu đào tạo, phương pháp, nội dung giáo dục, thống nhất
dưới sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo. Đa dạng hoá các loại hình
trường, lớp góp phần quan trọng vào tiến trình đổi mới giáo dục và đào tạo
đáp ứng nhu cầu giáo dục của nhân dân trong nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Góp phần mở rộng cơ hội có số đông học sinh được hưởng dịch vụ giáo
dục với những loại hình thích hợp với từng đối tượng, từng khu vực, địa
phương, tăng thêm nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo, góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục học sinh, tạo sự cạnh tranh giữa các
loại hình trong quá trình phát triển.Vì vậy, một trong những đặc điểm của
giáo dục THCS là có nhiều loại hình, nhiều chương trình, mang tính xã hội
cao.
Đa dạng hoá các loại hình giáo dục THCS còn bao gồm cả việc phát
huy tối đa vai trò của gia đình. Cần tổ chức giáo dục THCS theo hướng có
sự tham gia tích cực của từng gia đình, của toàn xã hội, bên cạnh hệ thống
trường, lớp.
Song để đảm bảo định hướng xã hội hoá giáo dục THCS, trường
công lập luôn phải giữ vững vị trí chủ đạo. Nhà nước cần đầu tư toàn diện
cho lĩnh vực này, nhưng không nên hoàn toàn ỷ lại, khoán trắng cho Nhà
nước, mà bản thân giáo dục chính quy, nhà trường công lập cũng phải thực
hiện hợp tác tích cực với các lực lượng xã hội.
Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào quá trình đa dạng hoá các
hình thức học tập và các loại trường, lớp sẽ góp phần làm cho mọi học sinh
được hưởng sự chăm sóc giáo dục toàn diện. Chính sự tham gia của các lực
lượng vào giáo dục THCS sẽ làm cho giáo dục THCS gắn bó với cộng
đồng, do cộng đồng thực hiện và vì lợi ích cộng đồng.
20

1.2.2. Vai trò của xã hội hoá giáo dục THCS trong sự nghiệp đào tạo con
người
- Xã hội hoá giáo dục THCS tạo điều kiện cho mọi người được
tham gia học tập, góp phần nâng cao dân trí
Xã hội hoá giáo dục THCS tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có
hoàn cảnh khác nhau đều có khả năng tham gia học tập. XHHGS THCS là
phát triển được phong trào học tập sâu rộng trong cộng đồng, vận động
toàn dân tham gia học tập thường xuyên, học liên tục, học tập suốt đời, tạo
nên một xã hội học tập.
Xã hội hoá giáo dục THCS còn là hình thức thực hiện công bằng xã

hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người đi học, Xã hội hoá giáo dục là
điều kiện tốt nhất để cả cộng đồng có điều kiện giúp đỡ những người có
hoàn cảnh khó khăn được tham gia học tập và khuyến khích nhân tài.
- Xã hội hoá giáo dục THCS góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
Xã hội hoá giáo dục THCS làm cho cộng đồng tham gia vào cụ thể
hoá vào mục tiêu giáo dục phù hợp với yêu cầu của địa phương, yêu cầu
của cộng đồng và các lực lượng có thể tham gia vào cải tiến nội dung,
phương pháp, xây dựng môi trường thuận lợi cho giáo dục, vì vậy làm ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục THCS tạo điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học, hỗ trợ đời sống giáo viên. Bên cạnh đó xã hội hoá giáo dục còn
tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đánh giá, giám sát các hoạt động của
nhà trường.
Do vậy XHHGD THCS chính là phương thức tích cực góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục .
- Xã hội hoá giáo dục THCS huy động được nguồn lực cho phát
triển giáo dục
21

Đối với nước ta, nguồn lực con nguời là quý gía nhất, nên XHHGD
tạo ra một xã hội học tập để góp phần đào tạo nguồn nhân lực là công việc
có ý nghĩa hết sức lớn lao.
Tổ chức huy động nhân lực thực hiện XHHGD THCS là cách làm
tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của của các cá nhân tham gia vào
quá trình giáo dục, kể cả tự giáo dục và giáo dục người khác trong cộng
đồng. Các tổ chức, cá nhân tham gia vào các phong trào, hoạt động ngoại
khoá, tham gia thuyết trình, minh hoạ, đến xây dựng các mục tiêu giáo dục,
đều cần đến sức mạnh của nguồn lực, tiềm năng to lớn của xã hội. Khi phát
huy được sức mạnh này có thể trở thành lực lượng vật chất thúc đẩy giáo
dục phát triển.

Huy động vật lực là tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho các hoạt
động giáo dục. Không thể có hoạt động giáo dục nếu không có các
phương tiện, không có những điều kiện vật chất. Nguồn lực này nằm
trong tiềm lực của nhân dân, của xã hội. Thực hiện Nhà nước và nhân
dân cùng làm: đất đai xây dựng trường, làm vườn thí nghiệm, trang thiết
bị dạy học, phương tiện tham quan, du lịch…
Huy động tài lực cùng với cơ sở vật chất tinh thần, thì tài chính là
điều kiện cần thiết để phát triển giáo dục, tuy nhiên những koản thu có tính
tự nguyện mà để các tổ chức ngoài trường vận động thu, chi và quản lý
trực tiếp dưới dạng quỹ bảo trợ giáo dục, nhà trường có thể tham gia tư
vấn, giám sát.
- Xã hội hoá giáo dục THCS góp phần làm cho giáo dục phục vụ
đắc lực sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương
Giáo dục và KT- XH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mối quan hệ
mang tính quy luật- tức là mang tính khoa học, tính tất yếu, tính phổ biến.
Trong XHHGD THCS cần phải coi trọng tính chất địa phương, XHHGD
THCS đã khai thác sức mạnh của địa phương theo quy luật giáo dục phục
vụ đắc lực vào sự phát triển KT- XH ở địa phương. Từng địa phương có
22

chiến lược phát triển kinh tế riêng, trong chiến lược phát triển kinh tế nhất
thiết phải cần có lực lượng lao động có đào tạo, lực lượng đó chủ yếu đang
ở trong nhà trường, và đang được hưởng lợi từ XHHGD.
1.2.3. Mục tiêu, nội dung, hình thức thực hiện xã hội hoá giáo dục THCS
- Mục tiêu của xã hội hoá giáo dục THCS
Mục tiêu của XHHGD THCS là tạo ra một " xã hội học tập" góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho cộng đồng.
Mở rộng hình thức giáo dục thường xuyên, tăng cuờng quy mô dạy
nghề bằng mọi hình thức, tiến tới phổ cập nghề phổ thông cho toàn dân,
đến năm 2015 tất cả lao động đều qua đào tạo.

Đối với học sinh phổ thông, phấn đấu thực hiện tốt giáo dục toàn
diện : đức, trí, thể, mỹ, lao động. Coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, chú
ý hình thành tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho học sinh.
Hoàn thành phổ cập Trung học đến năm 2015.
- Nội dung của xã hội hoá giáo dục THCS
- Giáo dục hoá xã hội
Tạo lập phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội, vận động toàn
dân, trước hết là thế hệ trẻ và những người trong độ tuổi lao động, thực
hiện học tập thường xuyên, học tập liên tục, học tập suốt đời làm cho xã hội
ta trở thành " một xã hội học tập" để làm việc tốt hơn, đáp ứng sự di chuyển
nghề nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Cộng đồng hoá trách nhiệm
Huy động các lực lượng xã hội cùng có trách nhiệm đối với giáo dục,
cùng làm giáo dục. Tăng cường trách nhiệm của các cấp uỷ, HĐND,
UBND, các LLXH với sự nghiệp giáo dục.
- Đa dạng hoá các nguồn lực
Khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của XHHGD
THCS, cùng với việc tăng thêm và sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà
nước, cần tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức Quốc tế, của nước ngoài để
23

phát triển giáo dục. Huy động sự đóng góp của cha mẹ học sinh và của tổ
chức kinh doanh để phát triển giáo dục.
- Đa dạng hoá các loại hình học tập và các loại hình trường lớp
Trên cơ sở củng cố các loại hình công lập, lấy đó làm nòng cốt, cần
mở ra nhiều hình thức giáo dục, phát triển các loại hình ngoài công lập, tạo
cơ hội cho mọi người nâng cao trình độ, tiếp cận những vấn đề mới, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống.
- Thể chế hoá
Sự quản lý của Nhà nước về trách nhiệm, quyền lợi của các LLXH,

của nhân dân trong việc tham gia phát triển giáo dục. xây dựng và hoàn
thiện khung pháp lý cho việc thực hiện chủ trương XHHGD THCS.
- Hình thức thực hiện xã hội hoá giáo dụcTHCS
- Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục THCS
Muốn có hành động đúng, trước hết phải có nhận thức đúng, trong
quá trình tổ chức thực hiện XHHGD THCS là một quá trình khó, đòi hỏi
sức lực cuả nhiều người, nhiều tổ chức và trong thời gian dài. Hiện tại ý
thức ỷ lại trông chờ vào Nhà nước còn phổ biến, đại đa số nhân dân đời
sống còn gặp rất nhiều khó khăn,, nhất là khu vực miền núi. Đối với nhân
dân và các tổ chức xã hội do công tác tuyên truyền, do cơ chế, do các hình
thức tổ chức chưa hấp dẫn, chưa chu đáo, cho nên nhận thức của nhân dân
về vấn đề XHHGD THCS còn chưa đúng, đã nảy sinh phản ứng tiêu cực.
trong những bài học đắt giá là chưa làm cho dân tin và hiểu, chưa làm cho
dân thấy cái được khi thực hiện XHHGD THCS, tức là họ chỉ mới thấy
trách nhiệm chứ chưa thấy quyền lợi. Muốn để nhân dân tự giác dành thời
gian, tiền của, công sức tham gia cùng làm giáo dục thì Nhà nước cần tổ
chức tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức. khi mọi người đã
hiểu đúng thì mọi việc tổ chức sẽ trở nên đơn giản hơn. cùng với sự hiểu
biết về cơ chế chính sách và các hình thức tổ chức thực hiện tốt thì xã hội
24

hoá trở thành thói quen, nếp sống, một hoạt động bình thường, tất yếu diễn
ra cùng với quá trình giáo dục.
Vai trò của cán bộ quyết định đến chất lượng của phong trào, do vậy
mỗi cán bộ, đảng viên, các Ban, ngành, đoàn thể, các LLXH và từng cán bộ
giáo viên cần phải hiểu rõ cả mục đích, vai trò, nội dung và phương pháp
của XHHGD THCS. tổ chức thực hiện sao cho phù hợp với tình hình thực
tế để có hiệu quả nhất.
- Tổ chức phối hợp các LLXH tham gia xã hội hoá giáo dục THCS
Xã hội hoá giáo dục THCS là xây dựng cơ chế phối hợp, các lực

lượng trong toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước cùng chăn lo cho sự nghiệp giáo dục. Sự phối hợp không chỉ tạo ra cơ
sở vật chất, nội dung, phương pháp và cả mục đích giáo dục cũng như phối
hợp tạo nên môi trường giáo dục thống nhất.
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Chỉ riêng nhà
trường, chỉ riêng ngành giáo dục, không thể làm tốt công tác giáo dục. Bên
cạnh đấy là đòi hỏi cao về tốc độ, quy mô, chất lượng, hiệu quả giáo dục và
những yêu cầu thực hiện công bằng trong phát triển càng cần sự tham gia
của mọi LLXH vào sự nghiệp giáo dục.
Cộng đồng hoá trách nhiệm là cấp uỷ Đảng phải ban hành được
những quyết định về công tác giáo dục, thể hiện phương hướng, chủ trương
giải pháp có tính khả thi, đồng thời giao trách nhiệm cho chính quyền và các
lực lượng xã hội vận động, động viên các cơ quan đoàn thể các tổ chức xã
hội thực hiện quyết định đó. Nhà trường và ngành giáo dục ở địa phương
phải thể hiện đầy đủ tính chủ động sáng tạo, vai trò trung tâm nòng cốt trong
xã hội hoá công tác giáo dục.
- Tổ chức đại hội giáo dục là hình thức quan trọng để phối hợp các
lượng
Việc thực hiện XHHGD THCS bằng con đường đại hội giáo dục các
cấp có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, tạo nên cuộc vận động có sức lôi cuốn
25

×