Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuần Brahman và bê Lai sind nuôi tại Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.9 KB, 11 trang )

SO SáNH KHả NĂNG TĂNG TRọNG Và CHO THịT KHI Vỗ BéO GIữA BÊ
THUầN BRAHMAN Và BÊ LAI SIND NUÔI TạI TUYÊN QUANG
Đinh Văn Tuyền
1
, Nguyễn Thành Nam
2
, Phạm Hùng Cờng
1
,
Nguyễn Thiện Trờng Giang
1

1
Bộ môn Nghiên cứu Bò;
2
SV Trờng Đại học Nông nghiệp I Hà Nội
Summary
An feedlot experiment using 5 lai Sind (crossbred between Red Sindhy X Yellow cattle) and 5 pure
Brahman calves, all aged approximately 18 months old at the commence, was conducted in Tuyen quang
Province to compare growth rate and carcass characteristics between the two breeds of cattle. All calves
were given the same diet made of maize silage, cassava powder, soybean meal and cottonseeds (10.9 Mj
ME and 159 g protein/kg DM) for 84 days. Results showed that averaged liveweigh gain of pure Brahman
cattle (1.42 kg/head/day) was significantly higher (P<0.01) than that of lai Sind animals (0.97 kg/
head/day). Carcass and lean meat percentage of Brahman calves (42 and 34% of LW, respectively) were
also higher than those parametters of lai Sind calves (38.5 and 29.6% LW, respectively). However, no
difference in Feed Conversion Rate was observed between the two groups (P>0.05), yet the value of both
groups was low (3.9 to 4.5 kg DM/kg LW gain). It was concluded that Brahman calves produced higher
performance than lai Sind animals under such feedlot condition as in this experiment and that FCR of both
groups was low or feed effeciency was high as compared with values reported in the literature.
Keyword: lai Sind, Brahman, liveweight gain, feed conversion rate, carcass, lean meat
1. Đặt vấn đề


Cơ cấu đàn bò thịt của nớc ta hiện nay vẫn chủ yếu là bò địa phơng và bò
lai Sind. Trong tổng đàn bò 6,5 triệu con của cả nớc, bò địa phơng vẫn chiếm tới
74% và bò lai Sind khoảng 26% (Cục Chăn nuôi, 2006).
Đàn bò địa phơng của nớc ta chủ yếu là bò vàng có khả năng thích nghi
và chịu đựng điều kiện kham khổ rất tốt nhng có nhợc điểm là tầm vóc nhỏ bé,
năng suất thịt thấp. Do đó để nâng cao tầm vóc và khả năng sản xuất thịt của đàn
bò thịt, từ những năm đầu của thế kỷ 20, các giống bò thịt có tầm vóc lớn nh bò
Red Sindhy (thờng gọi là bò Sind), bò Ongle đã đợc nhập về Việt nam và cho
phối với bò vàng địa phơng. Quá trình lai tạo này đã diễn ra liên tục cho đến nay.
Bò lai Sind tuy có tầm vóc lớn hơn bò vàng Việt nam nhng nhìn chung tỷ
lệ thịt vẫn còn thấp so với các giống chuyên thịt trên thế giới. Chính vì vậy mà
trong những năm gần đây, khi kinh tế Việt nam có những bớc tiến đáng kể và do
đó nhu cầu về thịt bò chất lợng cao ngày càng tăng, thì một số địa phơng đã bắt
đầu nhập đàn bò thịt thuần về nuôi thử nghiệm. Đến nay tổng số bò thịt thuần đã
đợc nhập về nuôi tại Việt nam ớc tính vào khoảng 5000 con.
Trong chăn nuôi bò thịt, vỗ béo là một khâu quan trọng để làm tăng năng
suất và chất lợng thịt. Do đó để đánh giá khả năng sản xuất của bò Brahman
thuần ngoại nhập thì ngoài việc theo dõi khả năng sinh trởng, thích nghi, sinh sản
cần phải đánh giá khả năng tăng trọng và cho thịt sau khi vỗ béo. Xuất phát từ lí do
trên, chúng tôi tiến hành đề tài
sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo
giữa bê thuần Brahman và bê lai Sind nuôi tại tỉnh tuyên quang ".
2. Đối tợng và phơng pháp nghiên cứu
2.1. Thời gian và địa điểm
Thí nghiệm vỗ béo đợc tiến hành tại Trại giống Nông Tiến Công ty
Giống và Vật t Nông nghiệp Tuyên Quang- Xã Nông Tiến thị xã Tuyên Quang
tỉnh Tuyên Quang trong thời gian từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007.
2.2 Gia súc thí nghiệm
Gia súc đợc sử dụng cho thí nghiệm này là 05 bê đực Brahman thuần và 05
bê đực lai Sind. Vì mục đích chính của đề tài là nhằm so sánh khả năng tăng trọng

và cho thịt khi vỗ béo giữa 2 giống bò (bò thuần Brahman và bò lai Sind) nên bê thí
nghiệm đợc lựa chọn để có tuổi tơng đơng nhau (khoảng 18 tháng tuổi). Và do
đó khối lợng cơ thể khác nhau giữa 2 nhóm bê ở thời điểm bắt đầu thí nghiệm
không ảnh hởng đến kết quả nghiên cứu.
2.3. Thức ăn và khẩu phần
Khẩu phần vỗ béo đợc xây dựng từ cây ngô ủ chua, bột sắn, hạt bông và
khô đỗ tơng. Khẩu phần đợc phối hợp để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu năng
lợng của bê tăng trọng trên 1kg/con/ngày theo tiêu chuẩn của Kearl (1989).
Thành phần hóa học và tỷ lệ các loại nguyên liệu dùng trong khẩu phần đợc trình
bày ở Bảng 1 và Bảng 2.
Bảng 1
. Thành phần hóa học của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm
(% vật chất khô)

Chất
khô
(DM)
Protein
thô Mỡ Xơ thô NDF ADF Khoáng

Ngô ủ chua 21,24 7,16 2,39 32,57 66,99 37,23 7,38
Hạt bông 87,70 21,93 22,05 28,08 52,56 35,95 4,57
Bột sắn 82,72 5,33 1,15 2,75 7,07 3,70 1,98
Khô dầu đỗ
tơng
87,01 51,76 1,40 37,88 20,28 9,93 8,07
Hỗn hợp
khẩu phần
1



56,65 15,86 6,45 14,36 28,73 18,35 5,16
Hỗn hợp sau khi đã đợc trộn theo dạng khẩu phần hoàn chỉnh (TMR)

Bảng 2. Tỷ lệ các thành phần nguyên liệu trong khẩu phần thí nghiệm
1
Cây ngô ủ chua (%) 21
Bột sắn (%) 44
Hạt bông (%) 25
Khô dầu đỗ tơng (%) 8
Premix khoáng (%) 1
Urêa (%) 1
Protêin thô (g/100 g DM)
2
15,86
Năng lợng (Mj ME/kg DM
3
10,91
1
Tính theo vật chất khô;
2
Giá trị phân tích thực;
3
Giá trị ớc tính từ thành phần hóa học
Cách trộn thức ăn

Trộn đều lần lợt theo thứ tự sau: các thành phần có hàm lợng thấp trong
khẩu phần (urea và khoáng) đợc trộn đều với nhau trớc, sau đó hỗn hợp này
đợc trộn tiếp với khô đậu tơng, kế đến là hạt bông rồi đến bột sắn. Hỗn hợp thức
ăn này ở dạng khô nên đợc trộn sẵn theo từng mẻ lớn, mỗi mẻ đủ để có thể cho

ăn trong vòng 1 tuần. Do thức ăn ủ chua đợc bảo quản riêng nên thành phần này
đợc trộn với hỗn hợp thức ăn dạng khô nói trên ngay trớc mỗi bữa cho bê ăn
theo tỷ lệ đã định.
2.4. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm đợc bố trí theo dạng ngẫu nhiên hoàn toàn gồm 2 lô, mỗi lô 5
con. Bê đợc nuôi nhốt cá thể và nh vậy mỗi lô thí nghiệm sẽ có số n =5. Trớc
khi bắt đầu thí nghiệm, bê đợc tẩy giun sán bàng thuốc Hanmectin của Công ty
Hanvet. Sau đó bê đợc nuôi chuẩn bị 15 ngày để làm quen với khẩu phần thí
nghiệm và tiếp đến là 84 ngày nuôi thí nghiệm. Trong giai đoạn này, bê đợc cho
ăn tự do ngày 2 lần vào 8h sáng và 4 h chiều (Lợng thức ăn cho ăn = 110% tổng
lợng ăn vào của ngày hôm trớc). Tổng lợng thức ăn cho ăn và lợng thức ăn
thừa đợc cân và ghi chép hàng ngày còn khối lợng cơ thể đợc cân mỗi tuần 1
lần. Bê đợc uống nớc tự do và chuồng trại đợc vệ sinh ngày 1 lần. Sơ đồ thí
nghiệm đợc trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3
. đồ bố trí thí nghiệm
Chỉ tiêu Lô I
(Bê lai Sind)
Lô II
(Bê Brahman thuần)
Số lợng gia súc (con) 05 05
Thời gian nuôi chuẩn bị (ngày) 15 15
Thời gian nuôi thí nghiệm (ngày) 84 84
Phơng thức nuôi dỡng Cá thể, cho ăn tự do Cá thể, cho ăn tự do

2.5. Phân tích mẫu
Các mẫu nguyên liệu dùng để phối hợp khẩu phần ăn đợc phân tích để xác
định các thành phần chất khô, protein thô, mỡ thô, xơ thô, khoáng, NDF và ADF
ngay trớc khi phối trộn. Các mẫu thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cũng đợc lấy trớc
khi cho ăn (ngay sau khi phối trộn) để xác định hàm lợng các thành phần hóa học

trên. Mẫu thức ăn thừa cũng đợc lấy ngẫu nhiên 3 lần trong suốt thời gian thí
nghiệm để xác định hàm lợng chất khô nhằm tính toán chính xác lợng chất khô
ăn vào của bê thí nghiệm. Tất cả các chỉ tiêu phân tích đều đợc thực hiện tại
phòng phân tích thức ăn Viện Chăn nuôi theo các qui trình đã đợc công nhận.
2.6. Chỉ tiêu theo dõi
- Tăng trọng: bò đợc cân để xác định khối lợng 1 tuần/lần vào buổi sáng
trớc khi cho ăn.
- Lợng thức ăn ăn vào: đợc xác định dựa trên số liệu thức ăn cho ăn và
còn thừa đợc cân hàng ngày. Chất khô ăn vào = (Thức ăn cho ăn x % chất khô) -
(Thức ăn còn thừa x % chất khô).
- Hiệu quả sử dụng thức ăn: tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng.
- Hiệu quả kinh tế: sơ bộ tính toán giá thành thức ăn vỗ béo và giá thành 1
kg tăng trọng.
2.7. Xử lý số liệu
Tất cả các số liệu đợc xử lý bằng chơng trình MINITAB 14. Sai khác giữa
giá trị trung bình của 2 lô thí nghiệm về các chỉ tiêu khả năng ăn vào, tăng trọng và
tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng đợc xác định bằng phân tích phơng sai ANOVA.
. Kết quả và thảo luận
3.1. Khả năng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn
Kết quả về thay đổi khối lợng, tăng trọng và tiêu tốn thức ăn của bò trong
thời gian thí nghiệm đợc trình bày trong Bảng 4 và 5.
Bảng 4.
Khối lợng và tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm (
SEX
)
Chỉ tiêu theo dõi Lô I Lô II P
P. đầu kỳ (kg) 131,8
a
8,29 164,8
b

10,50 <0,05
P. 28 ngày (kg) 157,8
a
10,80 201,8
b
12,10 <0,01
P. 56 ngày (kg) 185,6
a
13,20 244,3
b
11,30 <0,01
P. 84 ngày (kg) 213,0
a
11,10 283,8
b
9,96 <0,01
ADG (kg/con/ngày) tháng 1 0,93
a
0,09 1,32
b
0,07 <0,05
ADG tháng 2 1,00
a
0,09 1,52
b
0,07 <0,01
ADG tháng 3 0,98
a
0,09 1,41
b

0,07 <0,01
ADG cả kỳ 0,97
a
0,04 1,42
b
0,02 <0,01
Ghi chú: (ADG): tăng trọng bình quân/ngày; (P): khối lợng
Vì mục đích chính của thí nghiệm là so sánh khả năng tăng trọng và cho thịt
khi vỗ béo giữa bê thuộc 2 giống khác nhau nên tuổi bắt đầu thí nghiệm đợc xác
định là yếu tố quan trọng cần thiết phải đồng đều. Do đó sự khác nhau về khối
lợng trung bình giữa 2 lô thí nghiệm ở thời điểm bắt đầu thí nghiệm là điều không
tránh khỏi do tốc độ sinh trởng trong giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi của
bê thuộc 2 nhóm giống là khác nhau.
Khả năng tăng trọng của bê thuần Brahman trong giai đoạn thí nghiệm cũng
cao hơn hẳn bê lai Sind. Sau 3 tháng thí nghiệm, khối lợng trung bình của bê lai
Sind đã tăng từ 131,8 kg lên 213,0 kg (khối lợng tăng tuyệt đối 81,2kg) trong khi
bê Brahman thuần tăng từ 164,8 lên 283,8 kg (khối lợng tăng tuyệt đối 119 kg)
(Bảng 4). Tăng trọng trung bình (kg/con/ngày) của bê thuần Brahman (1,42
kg/con/ngày) cao hơn đáng kể (P<0,01) so với giá trị này ở bê lai Sind (0,97
kg/con/ngày).
Kết quả tăng trọng của bê thuần Brahman và bê lai Sind trong thí nghiệm
của chúng tôi cao hơn khá nhiều so với kết quả của các nghiên cứu trớc kia trên
bò lai Zebu và lai chuyên thịt (Lê Viết Ly và cộng sự., 1996; Vũ Văn Nội và cộng
sự., 1999; Vũ Chí Cơng và cộng sự., 2003). Tuy nhiên điều đáng lu ý là trong
các thí nghiệm trớc, bò chủ yếu đợc vỗ béo bằng các phụ phẩm nông công
nghiệp có hàm lợng dinh dỡng thấp hơn các loại thức ăn sử dụng trong thí
nghiệm này.
Kết quả về tăng trọng của chúng tôi cũng cao hơn so với một số kết quả vỗ
béo bò loại thải (0,865 0,921kg/con/ngày) của Victo Clarke và cộng sự (1996)
nhng vẫn thấp hơn đáng kể so với kết quả của McCrab và cộng sự (2000) trên bò

thuần Brahman tại Australia (1,9 kg/con/ngày) nuôi bằng khẩu phần có hàm lợng
rỉ mật cao. Tuy nhiên cần phải lu ý ở thí nghiệm của Mc.Crab và cộng sự, bò thí
nghiệm đợc bổ sung hocmon sinh trởng và do đó mức tăng trọng cao hơn là có
thể lí giải đợc.
Một điểm đáng lu ý khác trong kết quả thí nghiệm của chúng tôi là bê tăng
trọng cao liên tục trong suốt 3 tháng thí nghiệm. ở các thí nghiệm khác, nhất là
các thí nghiệm vỗ béo trên đối tợng bò loại thải, khối lợng bò thờng tăng cao ở
tháng thứ nhất sau đó mức tăng trọng giảm dần ở tháng thứ 2 và giảm mạnh ở
tháng thứ 3. Điều này có thể là do bê sử dụng trong thí nghiệm này có tuổi khá
thấp (18 tháng tuổi) nên trong giai đoạn thí nghiệm, bê vẫn tiếp tục phát triển cả về
thể vóc và do đó khối lợng tăng liên tục và ổn định. ở các thí nghiệm khác bò thí
nghiệm hầu hết đều đã trởng thành nên tăng trọng ở tháng thứ nhất thờng có sự
đóng góp lớn của sự tăng trởng bù còn các tháng sau đó thì tăng trởng bù mất đi
và khả năng tăng khối lợng của bò thí nghiệm giảm mạnh. Trong thí nghiệm mới
đây trên bò lai Brahman tại Đak Lak, Vũ Chí Cơng và cộng sự (2007) cũng đa ra
nhận xét là bê lai Brahman 18 tháng tuổi sau khi vỗ béo vẫn còn khả năng tăng
trởng mạnh.
Bảng 5
. ợng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn (
SEX
)
Chỉ tiêu
Lô I Lô II
Chất khô ăn vào (kg/con/ngày) 4,1
a
0,04 5,0
b
0,05
Chất khô ăn vào (g/kg W
0,75

) 85,5 1,01 85,7 1,07
Chất khô ăn vào (% khối lợng) 2,4 0,03 2,1 0,03
Chất hữu cơ ăn vào (kg/con/ngày) 3,9
a
0,29 4,72
b
0,21
Protein ăn vào (g/con/ngày) 0,65
a
0,007 0,79
b
0,007
Tiêu tốn thức ăn (kg CK/kg tăng trọng) 4,5 0,30 3,9 0,27
* Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau
(P<0,05)

Số liệu ở Bảng 5 cho thấy lợng vật chất khô, chất hữu cơ và protein thô ăn
vào trung bình/ngày của bê thuần cao hơn đáng kể so với bê lai Sind (P<0,01).
Điều này là bởi khối lợng cở thể của bê thuần luôn cao hơn bê lai Sind cùng tuổi.
Chính vì thế khi ớc tính lợng chất khô và protein ăn vào/đơn vị khối lợng trao
đổi thì giữa 2 lô thí nghiệm không có sự sai khác đáng kể (P>0,05) (Bảng 5).
Mặc dù tăng trọng của bê thuần Brahman cao hơn đáng kể so với bê lai Sind
nhng hiệu quả sử dụng thức ăn lại không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống
kê giữa 2 lô thí nghiệm. Tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng của cả 2 lô thí nghiệm (3,9
và 4,5 kg DM/kg tăng trọng) đều ở mức thấp hơn rất nhiều so với kết quả của các
thí nghiệm trớc (VD: 6,3-7,9 kg chất khô/kg tăng trọng (Phạm Kim Cơng và
cộng sự., 2001); 6,2-15,9 kg chất khô/kg tăng trọng (Vũ Chí Cơng và cộng sự.,
2001)). Tiêu tốn chất khô/kg tăng trọng của bò trong thí nghiệm của chúng tôi
cũng thấp hơn khá nhiều so với các giá trị tham khảo đa ra bởi các Tiêu chuẩn ăn
nh ARC (1980); NRC (1984); INRA (1989); AFRC (1993) - dao động trong

khoảng 7,1-10,42kg chất khô/kg tăng trọng.
Tuy nhiên tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng trong thí nghiệm của chúng tôi
cũng chỉ tơng đơng với kết quả của Sainz và cs. (1995) khi vỗ béo bê đực
chuyên thịt giống Anh Quốc trong giai đoạn bê sinh trởng (bê có khối lợng 237 kg
khi bắt đầu và 327 kg khi kết thúc giai đoạn này). Trong thí nghiệm của các tác giả
này bê đợc ăn tự do khẩu phần tinh bột cao với hàm lợng CP và ME tơng ứng là
14,6% và 12,5 MJ/kg vật chất khô (tơng đơng hàm lợng CP và ME trong khẩu
phần thí nghiệm này). Trong giai đoạn nuôi lớn này bê tăng trọng 1,96 kg/con/ngày và
tiêu tốn 4,3 kg DM/kg tăng trọng. Tuy nhiên cần phải lu ý rằng trong giai đoạn vỗ
béo sau đó (từ khi bê có khối lợng 327 kg đến khi đạt khối lợng 481 kg bê đã
trởng thành hơn) bê chỉ đạt mức tăng trọng trung bình 1,22 kg/con/ngày và tiêu tốn
thức ăn đã tăng lên thành 7,4 kg DM/kg tăng trọng. Nh vậy có thể thấy tuổi sinh
trởng có ảnh hởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Và đây có thể cũng chính
là lí do giải thích cho mức tiêu tốn thức ăn thấp (hay hiệu quả sử dụng thức ăn cao)
trong thí nghiệm của chúng tôi. Lí do cụ thể hơn có thể là trong giai đoạn sinh
trởng các chất dinh dỡng đợc sử dụng để tổng hợp mô cơ là chính; năng lợng
dùng để tích lũy mỡ thấp. Do đó bê có thể đã sử dụng ít năng lợng cho 1 kg tăng
trọng hơn so với bò sắp hoặc đã trởng thành nh ở các thí nghiệm khác.
3.2. Khả năng cho thịt của bê vỗ béo
Để xác định khả năng cho thịt và so sánh tỷ lệ thịt của bê Brahman thuần
với bê lai Sind, chúng tôi tiến hành mổ khảo sát mỗi lô 1 con. Kết quả đợc trình
bày ở bảng 6.
Bảng 6.
ột số chỉ tiêu mổ khảo sát của bê nuôi thí nghiệm
Chỉ tiêu Lô I Lô II
Khối lợng thịt hơi (kg) 191 252
Khối lợng thịt xẻ (kg) 73,60 105,90
Tỉ lệ thịt xẻ (%) 38,53 42,02
Khối lợng thịt tinh (kg) 56,60 85,90
Tỉ lệ thịt tinh (%) 29,63 34,09


Kết quả mổ khảo sát cho thấy tỉ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bê Brahman cao
hơn đáng kể so với bê lai Sind. Tỷ lệ thịt xẻ của bê Brahman vỗ béo (42,02%) cao
hơn 3,5 đơn vị % so với giá trị tỷ lệ thịt xẻ của bê lai Sind sau vỗ béo (38,5%).
Tơng tự, tỷ lệ thịt tinh của bò Brahman lai cao hơn xấp xỉ 4,5 đơn vị % so với tỷ
lệ này của bê lai Sind (Bảng 6).
3.3. Giá thành sản xuất thịt bò vỗ béo
Kết quả phân tích giá thành sản xuất thịt khi vỗ béo bê trình bày ở Bảng 7
cho thấy nếu chỉ tính riêng phần chi phí mua thức ăn mà không tính các chi phí
khác (tiền công lao động, khấu hao chuồng trại, điện, nớc, lãi suất ngân hàng
vv) thì giá thành để sản xuất 1 kg thịt hơi đối với bê lai Sind là 14.310 đồng và
bê Brahman thuần là 12.436 đồng, thấp hơn 1.873 đồng so với bê lai Sind. So với
giá bán hiện nay là khoảng 17.000 đồng/kg thịt hơi thì giá thành/kg thịt hơi trong
thí nghiệm này thấp hơn giá bán là 2.690 đồng (bò lai Sind) và 4.564 đồng (bò
thuần). Với khối lợng tăng lên trong giai đoạn 84 ngày vỗ béo là 81,5 kg (bê lai
Sind) và 119,3 kg (bê thuần) thì chênh lệch giữa giá thành và giá bán sẽ là 219.211
đ/con cho bê lai Sind và 544.355 đồng/con cho bê thuần. Nh vậy nếu các chi phí
khác ngoài thức ăn (chi phí công lao động, khấu hao chuồng trại, điện, nớc, lãi
suất ngân hàng vv) không cao hơn mức 75.000/tháng (hoặc 225.000đ/3 tháng)
thì vỗ béo bê lai Sind mới có thể có lãi. Trong trờng hợp bê thuần Brahman thì với
mức chi này việc vỗ béo vẫn có lãi. Tuy nhiên cần lu ý là trong cách tính này
chúng tôi đặt giả thiết giá bán bò vỗ béo chỉ bằng với giá bán của các loại bò khác
ở thời điểm hiện tại. Trong thực tế bò sau khi vỗ béo thờng có tỷ lệ thịt cao hơn
nên giá thịt hơi cũng cao hơn so với giá bò bình thờng không đợc vỗ béo. Vì thế
xác suất để vỗ béo bò có lãi trong thực tế có thể cao hơn so với phân tích của
chúng tôi.
Bảng 7
. iá thành sản xuất thịt bò vỗ béo
Chỉ tiêu theo dõi Lô I Lô II
Giá nguyên liệu

- Ngô ủ chua (đ/kg) 600 600
- Bột sắn (đ/kg) 2200 2200
- Hạt bông (đ/kg) 2400 2400
- Khô đỗ tơng (đ/kg) 5200 5200
- Urêa (đ/kg) 5300 5300
- Premix khoáng-vitamin (đ/kg) 16000 16000
Giá thành thức ăn vỗ béo (đ/kg dạng sử dụng) 1811 1811
Giá thành thức ăn vỗ béo (đ/kg chất khô) 3197 3197
Giá thành sản xuất thịt bò vỗ béo (đ/kg thịt hơi)

14.310 12.436

4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
Bê thuần Brahman 18 tháng tuổi cho tăng trọng (1,42 kg/con/ngày) cao hơn
đáng kể so với bê lai Sind có tuổi tơng đơng (0,97 kg/con/ngày) khi vỗ béo bằng
khẩu phần của thí nghiệm này trong thời gian 84 ngày.
Hiệu quả sử dụng thức ăn của bê vỗ béo trong thí nghiệm này khá cao và vỗ
béo bê bằng khẩu phần của thí nghiệm này có thể cho lợi nhuận.
4.2. Đề nghị
Tiếp tục thử nghiệm trên các đối tợng bê có độ tuổi khác và với khẩu phần
vỗ béo khác nhau.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1.
Chăn nuôi. 2006. Báo cáo tổng kết chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và định hớng phát triển chăn
nuôi thời kỳ 2005-1015.
2. Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cơng, Phạm Kim Cơng, Nguyễn Quốc Đạt. 1996. Nuôi bê lai hớng
thịt bằng thức ăn bổ sung từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp tại miền Trung. Kết quả nghiên cứu khoa
học kỹ thuật chăn nuôi 1994-1995. Nhà xuất bản Nông nghiệp 1996, trang 135-140.

3. Phạm Kim Cơng, Vũ Chí Cơng, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Trung. 2001. Nghiên
cứu sử dụng rơm lúa trong khẩu phần bò thịt. Các báo cáo khoa học của đề tài KHCN 08-05. Trang
174-187.
4. Victor J. Clarke, Lê Bá Lịch, Đỗ Kim Tuyên. (1996). Kết quả chuyển giao kỹ thuật vỗ béo bò bằng
khẩu phần cao năng lợng dựa trên nền bột sắn với 3% urea. Trang 41-48. Báo cáo khoa học chăn nuôi
thú y 1996 - 1997. Phần chăn nuôi gia súc. Hà nội, 1997.
5. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cơng và Đinh Văn Tuyền. 1999. Sử dụng phế phụ phẩm và nguồn thức ăn sẵn
có tại địa phơng để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, Huế 28-30/6/1999. Trang 25-29.
6. Vũ Chí Cơng, Phạm Kim Cơng, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Trung, McCrabb. G.
1999. Nghiên cứu sử dụng hàm lợng rỉ mật cao để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học Viện chăn nuôi 1999.
7. Vũ Chí Cơng, Vũ văn Nội, Graeme McCrab, Phạm Kim Cơng, Nguyễn Thành Trung, Đinh Văn
Tuyền, Đoàn Thị Khang. 2001. Nghiên cứu sử dụng rỉ mật trong nuôi dỡng bò thịt. Các báo cáo khoa
học của đề tài KHCN 08-05. Trang 162-171.
8. Vũ Chí Cơng, Phạm Kim Cơng, Nguyễn Thành Trung, Phạm Thế Huệ. 2007. ảnh hởng của việc
thay thế các mức protein thoát qua (by-pass protein) trong khẩu phần đến khả năng tăng trọng và hiệu
quả kinh tế của bê lai brahman vỗ béo tại Đắc lắc. Báo cáo trình bày tại Hội nghị khoa học cấp cơ sở bộ
môn Bò, Viện Chăn Nuôi năm 2007.
Tiếng nớc ngoài
9. AFRC (1993) Energy and Protein Requirements for Ruminants. University Press, Cambridge, UK
10. ARC (1984). The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl 1. Commonwealth Agricultural
Bureau, Slough, UK.
11. INRA (1989). Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables, INRA, Paris, France.
12. Kearl, L. C. (1989). Nutrient Requirements of Ruminants in Developing Countries. International Feedtuffs Institute.
Utah Agricultural Experiment Station. Utah State University, Logan, USA.
13. McCrabb G.J., Noi, V.V., O'Neill, C.J. & Hunter, R.A (2000). The effect of quality of the forage component
of high molasses diets for beef production. Asian-Australasian Journal of Animal Science 13 (Suppl. B): 120
14. NRC (1984) The nutrient requirements of beef cattle, Washington DC, USA.
15. Sainz, R. D., De la Torre, F. & Oltjen, J. W (1995). Compensatory Growth and Carcass Quality in
Growth-Restricted and Refed Beef Steers. Journal of Animal Science 73:29712979.


×