Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Những nhân tố tác động đến nghèo ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.15 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
**************

TRƯƠNG BÍCH PHƯƠNG



CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHÈO Ở
VÙNG NÔNG THÔN BẮC TRUNG BỘ


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
**************

TRƯƠNG BÍCH PHƯƠNG

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHÈO Ở
VÙNG NÔNG THÔN BẮC TRUNG BỘ
Chuyên ngành: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN TRỌNG HOÀI


TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010
i


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân. Với tư cách là tác
giả của nghiên cứu, tôi xin cam đoan rằng những nhận định và luận cứ khoa
học đưa ra trong đề tài này hoàn toàn không sao chép từ các công trình khác
mà xuất phát từ chính kiến bản thân tác giả, mọi sự trích dẫn đều có nguồn
gốc rõ ràng. Những số liệu trích dẫn đều được sự cho phép của các cơ quan
ban ngành. Nếu có sự đạo văn và sao chép tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước Hội Đồng Khoa Học. Một lần nữa tôi xin khẳng định về sự trung thực
của lời cam đoan trên.
ii


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến PGS.TS Nguyễn Trọng Hoài, người
hướng dẫn khoa học cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Xin cảm
ơn ThS. Trương Thanh Vũ (Viện nghiên cứu kinh tế miền Nam) đã tư vấn tôi
trong việc xử l ý số liệu để làm cơ sở cho phân tích. Đồng thời xin trân trọng
cảm ơn các Thầy, Cô của trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh đã giảng
dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và nghiên
cứu của tôi.
iii



MỤC LỤC

Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng biểu vi
Danh mục các sơ đồ, hình vẽ ix
Danh mục các từ viết tắt x
Lời mở đầu xii
Chương 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 1
1.1 Lý do chọn đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Phạm vi nghiên cứu 3
1.4 Kết cấu của luận văn 3
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO 4
2.1 Các quan niệm về nghèo 4
2.2 Đo lương nghèo 6
2.2.1 Xác định chỉ số phúc lợi 6
2.2.2 Xác định ngưỡng nghèo 8
2.2.3 Các thước đo nghèo thông dụng 10
2.3 Các nguyên nhân dẫn đến nghèo 11
2.3.1 Quy mô hộ 14
2.3.2 Giới tính 15
2.3.3 Dân tộc 16
2.3.4 Nghề nghiệp chính và tình trạng việc làm 17
iv



2.3.5 Trình độ học vấn 18
2.3.6 Khả năng tiếp cận các nguồn lực cơ bản 19
2.3.6.1 Đất đai 19
2.3.6.2 Tín dụng 20
2.3.7 Khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở 20
2.3.8 Khả năng tiếp cận dịch vụ 22
2.4 Mô hình đề nghị nghiên cứu 22
Chương 3: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN & PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 26
3.1 Sơ lược về đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
3.2 Phương pháp phân tích 27
3.2.1 Tiêu chí phân tích nghèo 27
3.2.2 Cơ sở xác định đâu là nghèo 27
3.2.3 Nguồn số liệu 27
3.2.4 Mô hình kinh tế lượng 30
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 37
4.1 Tổng quan về tình hình nghèo ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ 37
4.2 Tương quan giữa nghèo với quy mô hộ 38
4.3 Tương quan giữa nghèo với giới tính 41
4.4 Tương quan giữa nghèo với dân tộc 44
4.5 Tương quan giữa nghèo với nghề nghiệp chính và tình trạng việc
làm 46

4.6 Tương quan giữa nghèo với trình độ học vấn 50
4.7 Tương quan giữa nghèo với khả năng tiếp cận nguồn lực cơ bản 55
4.7.1 Đất đai 55
4.7.2 Tín dụng 57
v



4.8 Khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở 59
4.9 Khả năng tiếp cận các dịch vụ 59
4.10 Kết quả ước lượng tham số mô hình logistic đánh giá tác động của
các nhân tố nghèo ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ 61
Chương 5: KẾT LUẬN 68
5.1 Hỗ trợ giảm nghèo cho cộng đồng người dân tộc thiểu số 68
5.2 Nghề nghiệp 69
5.3 Chính sách phát triển làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh 70
5.4 Chính sách hạn chế bất bình đẳng giới 71
5.5 Chính sách giáo dục và đào tạo nghề 71
5.6 Giảm quy mô hộ 72
5.7 Chính sách tín dụng 73
5.8 Giới hạn nghiên cứu 73
Tài liệu tham khảo
Phụ lục



vi


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Những nhân tố xác định nghèo 12
Bảng 2.2: Tỷ lệ người không có điều kiện sử dụng giao thông cơ giới phân
theo nhóm chi tiêu 21
Bảng 3.1: Trích rút dữ liệu 29
Bảng 3.2: Mô tả các biến và dấu kỳ vọng 31
Bảng 4.1: Tỷ lệ nghèo và chi tiêu bình quân của một hộ 38
Bảng 4.2: Quy mô hộ gia đình nghèo và không nghèo theo khu vực 39

Bảng 4.3: Quy mô hộ gia đình, chi phí khám bệnh bình quân của hộ theo
nhóm chi tiêu 40
Bảng 4.4: Tỷ lệ nghèo và số năm học trung bình theo giới tính của chủ
hộ 41
Bảng 4.5: Tỷ lệ chủ hộ có bằng cấp cao nhất phân theo giới tính 42
Bảng 4.6: Giới tính của chủ hộ và khu vực làm công ăn lương 43
Bảng 4.7: Diện tích đất trung bình theo giới tính của chủ hộ phân theo nhóm
chi tiêu 43
Bảng 4.8: Tỷ lệ hộ nghèo theo dân tộc 44
Bảng 4.9: Tỷ lệ chủ hộ có bằng cấp cao nhất 45
vii


Bảng 4.10: Chi tiêu và số năm đi học trung bình theo dân tộc 46
Bảng 4.11: Nghèo và việc làm chính của những người từ 15 tuổi trở lên 47
Bảng 4.12: Kỹ năng, cơ cấu lao động làm theo khu vực kinh tế và việc làm
chính của những người từ 15 tuổi trở lên 49
Bảng 4.13: L ý do không làm việc của chủ hộ 50
Bảng 4.14: Tỷ lệ biết chữ của dân số 10 trở lên 51
Bảng 4.15: Trình độ học vấn của dân số trên 15 tuổi 52
Bảng 4.16: Trình độ học vấn của dân số trên 15 tuổi phân theo nhóm
chi tiêu 52
Bảng 4.17: Số năm học và mức chi cho giáo dục bình quân hộ theo nhóm
chi tiêu 54
Bảng 4.18: Diện tích đất sản xuất trung bình của hộ phân theo dân tộc và
nhóm chi tiêu 55
Bảng 4.19: Lý do có đất của hộ phân theo nhóm chi tiêu 56
Bảng 4.20: Khả năng tiếp cận các khoản vay và mức vay bình quân
của hộ 57
Bảng 4.21: Nguồn vốn vay của chủ hộ 58

Bảng 4.22: Mục đích sử dụng khoản vay của hộ 58
viii


Bảng 4.23: Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận hạ tầng cơ sở 59
Bảng 4.24 Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận dịch vụ 60
Bảng 4.25: Kết quả hồi quy logistic 61
Bảng 4.26: Mô phỏng xác suất nghèo của hộ gia đình 63












ix


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Sơ đồ 2.1: Mô hình nghiên cứu 24
Sơ đồ 3.1: Kết cấu vùng nghiên cứu 26
Hình 4.1: Tỷ trọng dân số trên 15 tuổi theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật 53
Hình 4.2: Mô phỏng xác suất nghèo theo hệ số tác động biên từng
nhân tố 62













x


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AusAID Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (Australian Agency
for International Development)
BCPTVN Báo cáo phát triển Việt Nam
Bộ LĐTBXH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
CĐ Cao đẳng
CN-XD Công nghiệp – xây dựng
CSSXKD Cơ sở sản xuất kinh doanh
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐH Đại học
ĐTMSDC Điều tra Mức sống Dân cư của Việt Nam
KHHĐG Kế hoạch hóa gia đình
MRPA Đánh giá đói nghèo khu vục sông Cửu Long
NHTG Ngân hàng thế giới
NHNN&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

PPA Đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân
(Participatory Poverty Assessment)
PTF Nhóm hành động chống đói nghèo
xi


RPGA Báo cáo đói nghèo và quản trị nhà nước có sự tham gia của
người dân
TCTK Tổng cục thống kê
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
UBND Uỷ ban Nhân dân
XĐGN Xoá đói giảm nghèo
WB Ngân hàng thế giới (World Bank).

xii


LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên thế giới đặc
biệt là những quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam phải quan tâm và
tìm cách giải quyết. Việc tấn công vào nghèo là một nhiệm vụ không kém
phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, nghiên
cứu và chú trọng đúng mức giúp các nhà làm chính sách có cơ sở để ra các
quyết định về phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như giảm nghèo nói
riêng. Do vậy, yêu cầu bức thiết là phải có thêm nhiều nghiên cứu nghèo ở
cấp vùng và cấp địa phương với nhiều cách tiếp cận khác nhau kể cả định tính
và định lượng. Thực hiện nhiều nghiên cứu hơn với những thông tin chi tiết
hơn, chính xác hơn sẽ là bước đầu tiên quan trọng trong mọi chiến lược phát
triển ở Việt Nam.

Với ý nghĩa đó, tác giả tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Những nhân tố
tác động đến nghèo ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ” nhằm xác định các
nhân tố chủ yếu (mang tính đặc trưng) ảnh hưởng đến xác suất rơi vào nghèo
của hộ gia đình, từ đó kiến nghị chính sách giảm nghèo cho Vùng.
1


CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
1.1 Lý do chọn đề tài
Theo báo cáo của World Bank (2008), có tới 1,4 tỷ người ở các nước đang
phát triển sống trong cảnh nghèo nếu lấy chuẩn mới 1,25 USD/ ngày trong
năm 2005. Con số này lớn hơn nhiều so với mức dự báo đưa ra năm 2004 là
985 triệu người. Vì vậy, với mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ người có thu nhập
dưới 1USD một ngày và giảm một nửa tỷ lệ người bị thiếu ăn trong thời gian
1990 - 2015, nghèo đói là mục tiêu được đặt lên hàng đầu trong tám mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ của 192 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất trí
phấn đấu đạt được vào năm 2015. Việt Nam cũng lấy mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ làm chiến lược phát triển của quốc gia mình, phấn đấu giảm tỷ
lệ nghèo thêm 40% cho đến năm 2010.
Năm 1993, Việt Nam có đến 58% hộ nghèo, tỷ lệ này liên tục giảm qua các
năm, tuy nhiên tốc độ này có phần chậm lại, cụ thể tỷ lệ nghèo là: 37% năm
1998; 29% năm 2002; 19,5% năm 2004; 16% năm 2006 và 14,5% năm 2008
(TCTK, 2008). Ngoài ra, thế giới đã có nhiều biến động trong năm 2007 –
2009: khủng hoảng an ninh lương thực, nền kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng
khủng hoảng tài chính,… làm sản lượng giảm sút, thất nghiệp gia tăng và
nghèo đói gia tăng. Trước tình hình kinh tế khó khăn trên, các quốc gia phát
triển phải “thắt lưng buộc bụng” khó có thể thực hiện đầy đủ cam kết viện trợ
cho các nước nghèo nên tình hình nghèo trên thế giới ngày càng gia tăng hơn.
Nghiên cứu của Bird (2002) cho rằng: khu vực nông thôn có xu hướng nghèo
cao hơn khu vực thành thị. Việt Nam có trên 70% dân số sống ở nông thôn và

khoảng 19% dân nông thôn sống dưới ngưỡng nghèo trong khi đó ở khu vực
thành thị tỷ lệ này là 3,3% (TCTK, 2008).
2


Tỷ lệ nghèo Vùng Bắc Trung Bộ khá cao với 22,6% năm 2008, đứng thứ tư
trong tám vùng kinh tế và cao hơn so với cả nước là 14,5% (TCTK, 2008).
Ngoài ra, theo Nghị quyết số 30A/3008/NQ ngày 27 tháng 12 năm 2008 của
Chính phủ thì Bắc Trung Bộ có đến 12 huyện nghèo trong 61 huyện nghèo
trên cả nước. Nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng nghèo ở Bắc Trung Bộ
là do thiếu vốn và thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kế đến là do vùng
có mật độ dân số cao nên tỷ lệ đất canh tác trên đầu người thấp dẫn đến tình
trạng thiếu đất canh tác cho nông dân. Ngoài ra, thiếu lao động, bệnh tật, rủi
ro và tệ nạn cũng là lý do làm cho các hộ gia đình vùng Bắc Trung Bộ có mức
sống dưới ngưỡng nghèo (Bộ LĐTB&XH, 2003).
Với tất cả những lý do trên, tác giả quyết định nghiên cứu: “ những nhân tố
tác động đến nghèo ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ”. Để có một nghiên cứu
định lượng giúp cho Vùng có cơ sở định hướng trong việc giảm nghèo từ kết
quả nghiên cứu thực nghiệm, thực hiện được chủ trương của Chính phủ và
góp phần giúp vùng nông thôn Bắc Trung Bộ tăng trưởng và phát triển bền
vững.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tình trạng nghèo và phân tích nguyên nhân dẫn đến nghèo ở vùng
nông thôn Bắc Trung Bộ.
Xác định các nhân tố tác động đến khả năng rơi vào nghèo của các hộ gia
đình ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ.
Kiến nghị về chính sách giảm nghèo cho vùng nông thôn Bắc Trung Bộ từ kết
quả phân tích trên.



3


1.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: tiến hành nghiên cứu trực tiếp trên địa bàn vùng nông
thôn Bắc Trung Bộ.
Đối tượng nghiên cứu: các hộ gia đình sống ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ.
Dữ liệu nghiên cứu: sử dụng bộ số liệu Điều tra Mức sống hộ gia đình năm
2008 do Tổng Cục Thống kê thực hiện (VHLSS2008).
1.4 Kết cấu của luận văn
Sau khi giới thiệu tổng quan ở chương 1 thì đề tài luận văn trình bày tiếp 4
chương. Chương 2 sẽ giới thiệu cơ sở l ý luận về nghèo, trong chương này
trình bày các quan niệm về nghèo, xác định chỉ tiêu đo lường nghèo, xác định
ngưỡng nghèo, các thước đo nghèo thông dụng, các nguyên nhân dẫn đến
nghèo ở Việt Nam và các quốc gia khác, từ đó rút ra khung l ý thuyết và mô
hình nghiên cứu cho Vùng. Chương 3 sẽ trình bày sơ lược địa bàn nghiên
cứu, phương pháp phân tích và nguồn số liệu cần thiết cho mô hình kinh tế
lượng. Chương 4 trình bày kết quả phân tích mối tương quan giữa nghèo và
các nhân tố kinh tế, xã hội, hạ tầng cơ sở và phân bổ nguồn lực của Vùng.
Chương 5 sẽ đưa ra một số kiến nghị về chính sách về giảm nghèo cho Vùng.
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO
2.1 Các quan niệm về nghèo

Nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu và đang thu hút nỗ lực chung của cả
cộng đồng quốc tế nhằm từng bước nâng cao phúc lợi cho người dân. Tuy
nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất thế nào là
nghèo. Rất nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này đã cố gắng đưa ra các khái
niệm khác nhau về nghèo, trong bài viết này tác giả tổng hợp và đưa ra một
4



vài quan điểm về nghèo của các nghiên cứu trước và sẽ lựa chọn một khung
phân tích thích hợp cho nghiên cứu luận văn.
Theo Rowntree (1901), nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền cần để “có
được những thứ tối thiểu cần thiết cho việc duy trì thể chất thuần tuý” (trích
trong Nguyễn Trọng Hoài, 2007).
Hội nghị chống nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức ở Thái Lan năm 1993, “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”.
Theo Ravallion (1994), “nghèo là một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó
không có được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo một
cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó”.
Sen (1999), “khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà
họ được hưởng, để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn”.
World Bank (1990), “nghèo là tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ
thiết yếu như giáo dục, y tế, dinh dưỡng”. Đến năm 2000/2001 Báo cáo đã
thêm vào khái niệm những nét mới như tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay
tính dễ bị tổn thương: “xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng.
Nghèo là không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không có ai chăm sóc, mù
chữ và không được đến trường. Nhưng đối với người nghèo, sống trong cảnh
bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn
thương trước những sự kiện bất thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ.
5


Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bền lề
xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó”.
RPGA (2003), nhận thức về đói nghèo của nhóm những người nghèo ở vùng

ven biển Miền trung và Tây nguyên: “ một hộ nghèo có nghĩa là có một ngôi
nhà xây tạm bợ (không mái ngói, không tường gỗ), thường xuyên có người
ốm, không có hoặc có ít gia súc, không có vốn để kinh doanh, thiếu kinh
nghiệm kinh doanh, không có tài sản có giá trị (không có xe đạp), có mảnh
đất nhỏ và cằn cỗi, có quá nhiều con nhỏ, là người già và cô đơn, bị mất mùa
hoặc có thuyền đánh cá không may mắn, không có đủ thức ăn cho quá ba
tháng và phải kiếm củi hoặc làm thuê để sống qua ngày”.
Trong báo cáo đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Quảng Trị
(2003), mọi người tham gia phỏng vấn đều cho rằng nghèo còn biểu hiện ở
khía cạnh nguồn lực của cải, với hộ nghèo nhất được coi là những hộ thiếu
thốn mọi mặt. Không có tài sản, nhà ở tạm bợ, thiếu phương tiện làm ăn (trâu,
bò, cày kéo), đông con, gia đình có người tàn tật, ốm đau, cô đơn, đó là biểu
hiện của những người nghèo.
Tóm lại, có rất nhiều quan niệm về nghèo khác nhau, tuy nhiên nghèo luôn
phản ánh những khía cạnh cơ bản sau:
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư;
- Không được thụ hưởng những nhu cầu dịch vụ cơ bản ở mức tối thiểu
dành cho con người trong cộng đồng;
- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro trong cuộc sống;
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
6


Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng khái niệm nghèo của Rowtree (1901),
nghèo là tình trạng thiếu một số lượng tiền cần thiết để có thể duy trì cuộc
sống.
2.2 Đo lường nghèo
Theo Pradhan và Ravallion (1998), để xác định nghèo cần thực hiện 3 bước.
Thứ nhất, lựa chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi. Thứ
hai, xác định một giá trị chuẩn tối thiểu để phân biệt nhóm nghèo và nhóm

không nghèo (gọi là ngưỡng nghèo). Thứ ba, chọn ra một thước đo nghèo
được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư.
2.2.1 Xác định chỉ số phúc lợi
Theo World Bank (2005), có một số phương pháp tiếp cận đo lường phúc lợi.
Phương pháp tiếp cận phổ biến nhất trong đo lường phúc lợi kinh tế là chi tiêu
dùng hay thu nhập của hộ gia đình. Khi chia cho số thành viên trong hộ gia
đình thì được chi tiêu tiêu dùng bình quân đầu người hay thu nhập bình quân
đầu người. Đo lường phúc lợi nói chung thì phức tạp hơn nhiều, nó rộng hơn
chỉ số phúc lợi kinh tế, bởi phúc lợi bao gồm tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tuổi
thọ trung bình, tỉ lệ chi tiêu dành cho thực phẩm, điều kiện nhà ở, tỉ lệ trẻ em
đến trường (WB, 2005 – trang 24).
Các nước phát triển hầu hết đo lường nghèo thường sử dụng chỉ tiêu thu nhập,
trong khi các nước đang phát triển sử dụng chi tiêu. Ở các nước phát triển, thu
nhập dễ dàng xác định vì đa phần đến từ tiền lương trong khi chi tiêu thì phức
tạp và khó đo lường. Mặt khác, ở các nước đang phát triển thu nhập thì khó
khăn trong đo lường vì nó xuất phát từ công việc tự làm, trong khi chi tiêu
đơn giản và dễ dàng để ước tính hơn (WB, 2005 – trang 36).
7


Theo Alderman và Paxson (1994) và Paxson (1993), ở các nước kém phát
triển, thu nhập của hộ thường biến động theo mùa vụ trong khi chi tiêu dùng
tương đối ổn định giữa các tháng trong năm. Vì thế, chi tiêu dùng phản ánh
mức sống của hộ tốt hơn con số thu nhập (WB, 2005 – trang 28).
Theo Atkinson, Rainwater và Smeedin (1995), chỉ số thu nhập chứa đựng một
số sai sót. Trước tiên, khi đo lường trong thời gian ngắn, nó có thể nói giảm đi
hoặc nói quá tiêu chuẩn sinh hoạt do các biến đổi đáng kể trong thu nhập theo
thời gian (ví dụ như: do thu nhập theo thời vụ). Thứ hai, đo lường thu nhập
được mong đợi đánh giá không đúng sự thật về phúc lợi vì người dân có xu
hướng báo cáo thấp thu nhập hoặc có những khó khăn trong xác định thu

nhập của họ, nếu những kênh từ chính lao động và thu nhập của vốn đầu tư.
Chi tiêu thường được coi là một chỉ số của các phúc lợi chung tốt hơn (vì hộ
gia đình chi tiêu theo thời gian) và chứa đựng cái lỗi trong đo lường nhỏ hơn
so với thu nhập.
Ravallion (1992), việc đo lường thu nhập rất khó ở các quốc gia kém phát
triển, vì người dân nơi đây chủ yếu tham gia vào các hoạt động phi thị trường
và thu nhập của họ xuất phát từ nông nghiệp và phụ thuộc chủ yếu vào sự
thay đổi mùa màng. Trong nhiều nghiên cứu, lựa chọn thước đo tại các nước
phát triển là thu nhập trong khi đó ở các nước đang phát triển đó là chi tiêu.
Deaton (1997), ngoài việc sử dụng số liệu về chi tiêu, ta còn có thể sử dụng số
liệu về thu nhập. Tuy vậy, có hai lý do khiến số liệu về chi tiêu ưu việt hơn.
Thứ nhất, thu nhập chỉ làm tăng phúc lợi khi nó được sử dụng cho tiêu dùng
chứ không phải cho tiết kiệm hay trả nợ. Điều này cho thấy chi cho tiêu dùng
của hộ gia đình liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập của hộ. Thứ
8


hai, số liệu về thu nhập thường không chính xác, đặc biệt là ở những nước
kém phát triển với phần lớn người lao động là tự hành nghề.
2.2.2 Xác định ngưỡng nghèo
World Bank (2005), ngưỡng nghèo (hay còn gọi là chuẩn nghèo) là ranh giới
để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Có hai cách chính để
xác định ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo tuyệt đối: là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu
cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp
chung để xác định ngưỡng nghèo này là sử dụng một rổ các loại lương thực
được coi là cần thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tốt cho con người. Rổ
lương thực đó sẽ tính đến cả cơ cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình
đặc thù của một nước. Trên cơ sở đó có hai ngưỡng nghèo tuyệt đối sẽ được
tính toán.

Ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm: đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm
bảo một gia đình có thể đủ mua một lượng lương thực thực phẩm để cung cấp
cho mỗi thành viên trong hộ một lượng calo là 2100 calo một ngày. Ngưỡng
nghèo này thường thấp vì nó không tính đến chi tiêu cho các sản phẩm phi
lương thực khác.
Ngưỡng nghèo chung: đo lường chi phí để mua đủ một lượng hàng hóa lương
thực thực phẩm cung cấp lượng calo là 2100 calo và một số mặt hàng phi
lương thực.
Trên bình diện quốc tế, NHTG đã tính toán ngưỡng nghèo tuyệt đối cho các
nước thu nhập thấp là 1 đô la Mỹ/ngày, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và
Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho
9


những nước công nghiệp. Để đảm bảo tính so sánh được giữa các nước,
những ngưỡng nghèo này được tính theo ngang giá sức mua. Từ năm 1981,
chuẩn nghèo toàn cầu được áp dụng ở mức thu nhập 1 USD/ngày. Chuẩn
nghèo này đã được điều chỉnh thành 1,25 USD/ngày kể từ năm 2005, sau khi
tính đến yếu tố lạm phát.
Còn ở Việt Nam hiện tại chưa có sự thống nhất về tiêu chí đánh giá nghèo
theo thu nhập hay theo chi tiêu dùng. Vì vậy, trên thực tế việc phân tích đánh
giá nghèo vẫn sử dụng một trong hai ngưỡng nghèo tuyệt đối.
Ngưỡng nghèo của Tổng cục thống kê (TCTK): xác định dựa theo cách tiếp
cận của NHTG là sử dụng chỉ tiêu chi tiêu để đo lường nghèo. Chuẩn nghèo
chung của TCTK và NHTG với mức chi tiêu bình quân/người/tháng qua các
năm như sau: năm 2002: 160 nghìn đồng, năm 2004: 173 nghìn đồng, năm
2006: 213 nghìn đồng và năm 2008: 280 nghìn đồng (TCTK, 2008).
Ngưỡng nghèo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXH): xác
định ngưỡng nghèo mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu
nhập. Chuẩn nghèo do Bộ LĐTBXH đưa ra đã được điều chỉnh năm lần vào

các năm 1993, 1997, 1998, 2001 và 2005. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành
chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn
những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200 nghìn đồng/người/tháng trở
xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ
260 nghìn đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Chuẩn nghèo giai đoạn
2011-2015, là 400 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 500
nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị (Bộ LĐTBXH, 2010).
10


Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu
dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư
sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
2.2.3 Các thước đo nghèo thông dụng
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo để mô
tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của nghèo. Ba thước đo thông dụng
nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là chỉ số đếm đầu người (hay còn gọi
là tỷ lệ nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo. Theo Foster,
Greer, và Thorbecke (1984) ba thước đo đó đều có thể được tính bằng công
thức chung như sau:

(
)
α
α

=








=
M
i
i
z
yz
N
P
1
1

Trong đó: y
i
là thu nhập (hay chi tiêu) tính trên đầu người tính cho người thứ
i, z: là ngưỡng nghèo, N là tổng dân số, M là số người nghèo và α là đại lượng
đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo.
Khi α = 0, đẳng thức trên trở thành M/N, tỷ lệ những người nằm dưới ngưỡng
nghèo. Chỉ số này được gọi là chỉ số đếm đầu người hay tỷ lệ nghèo. Thông
thường, chỉ số này được biểu diễn dưới dạng phần trăm. Nó cho biết quy mô
nghèo của một quốc gia. Mặc dù tỷ lệ nghèo là một thước đo cho biết tình
trạng nghèo của một quốc gia nhưng nó có những hạn chế nhất định. Thứ
nhất, việc xác định ngưỡng nghèo giữa các quốc gia là không thống nhất. Vì
thế, người sống dưới ngưỡng nghèo ở một nước phát triển có thể có mức chi
tiêu hoặc thu nhập cao hơn rất nhiều so với những người thuộc diện này ở các
nước đang phát triển khác. Thứ hai, chỉ số này không chú ý đến mức độ mà

11


các cá nhân ở dưới hay trên ngưỡng nghèo mà chỉ tính đến tỷ lệ dân số nằm
bên dưới giới hạn đó.
Khi α = 1, đẳng thức trên cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo
so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của tất cả mọi
người trong dân cư. Khoảng nghèo được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất
cả người nghèo trong nền kinh tế. Nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả
người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo, trong điều kiện
mọi khoảng chuyển giao đều được chuyển đến đúng đối tượng.
Khi α =2, ta có chỉ số bình phương khoảng nghèo. Chỉ số này thể hiện mức độ
nghiêm trọng của nghèo vì nó đã làm tăng thêm trọng số cho những nhóm
người có khoảng nghèo lớn hơn trong số những người nghèo.
2.3 Các nguyên nhân dẫn đến nghèo
BCPTVN (2000), các hộ nghèo ở Việt Nam có một số đặc điểm chung như:
lao động ở lĩnh vực nông nghiệp, trình độ học vấn thấp, tỷ lệ phụ thuộc, giới
tính, thiếu nguồn lực về đất đai, bị tách biệt về địa lý và về xã hội, dân tộc,
dân nhập cư thành thị.
Theo RPGA (2003), nguyên nhân nghèo ở vùng ven biển miền Trung: điều
kiện khí hậu khắc nghiệt, thiếu đất, cơ sở hạ tầng, thiếu vốn, thị trường kém
phát triển, thiếu thông tin, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng lực yếu kém của
chính quyền và cán bộ địa phương. So với vùng ven biển miền Trung, Tây
Nguyên còn có thêm hai nguyên nhân đói nghèo nữa là sự di dân tự do và sụt
giá cà phê.

×