Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ QUẢN LÝ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG TẠI ĐẦM PHÁ TAM GIANG CẦU HAI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 164 trang )

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (TGCH ) ở Thừa Thiên Huế là hệ sinh
thái tiêu biểu trong các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển. Đầm phá có giá trị
to lớn về môi trường như điều hòa khí hậu, giảm thiên tai, duy trì nguồn nước.
Các giá trị về đa dạng sinh học là nơi giàu tài nguyên động, thực vật, được đánh
giá là phong phú nhất ở khu vực Đông Nam Á. Theo báo cáo của UBND Thừa
Thiên Huế “Những hoạt động đầm phá Thừa Thiên Huế” cho biết có tới 230
loài cá, 63 loài động vật đáy, 43 loài rong, 73 loại chim, 15 loại cò biển, 171
loài phù du thực vật, 37 loại phù du động vật, các thành phần loài thủy sinh và
rừng ngập mặn, nhiều phụ hệ cỏ biển, rừng ngập mặn cung cấp sinh dưỡng và
đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương và
xã hội. Nhưng hiện nay nguồn tài nguyên sẵn có của đầm phá có nguy cơ cạn
kiệt, đa dạng sinh học suy giảm, môi truờng nước bắt đầu bị ô nhiễm cục bộ,
các hệ sinh thái đất ngập nước bị thu hẹp. Cần có 1 công cụ lý hiệu quả bảo vệ
nguồn tài nguyên khu vực đầm phá TGCH. Đúc rút từ kinh nghiệm áp dụng Chi
trả dịch vụ môi trường ( PES) với rừng tại Việt Nam cho thấy PES là một công
cụ kinh tế quản lý hiệu quả cũng có khả năng áp dụng thành công đối với hệ
sinh thái đất ngập nước.
Đây là lý do tôi đã chọn đề tài “THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ
QUẢN LÝ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG TẠI
ĐẦM PHÁ TAM GIANG - CẦU HAI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ”
i
Nghiên cứu này sẽ giúp các cơ quan quản lý nhìn nhận rõ hơn giá trị kinh
tế của đầm phá TGCH, đồng thời là cơ sở cho xây dựng các chính sách về Chi
trả dịch vụ môi trường cho hệ thống đất ngập nước của Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu tổng thể của của đề tài là đánh giá khả năng áp
dụng cơ chế chi trả: một cách nhìn tổng thể từ lý thuyết và thực tiễn áp dụng
một số dịch vụ môi trường có khả năng áp dụng chi đối với hệ sinh thái đất
ngập nước ven biển đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm bảo tồn và
phát triển bền vững đất ngập nước này.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là :


- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Chi trả dịch vụ môi trường.
-Tổng quan kinh nghiệm quốc tế về Chi trả dịch vụ môi trường.
- Đánh giá thực trạng quản lý và những khó khăn, bất cập trong công
tác quản lý của hệ sinh thái đất ngập nước ven biển đầm phá TGCH, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Xác định những dịch vụ môi trường có khả năng áp dụng PES cao nhất
tại đầm phá TGCH.
- Đề xuất một số nội dung của Chi trả dịch vụ môi trường phù hợp với hệ
sinh thái đất ngập nước ven biển tại đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế
nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.
Từ nghiên cứu chương 1 cho thấy PES đang là là công cụ tài chính dựa
vào thị trường để quản lý tài nguyên thiên nhiên đem lại nhiều lợi ích. Điểm
ii
nhấn mạnh của PES tạo được nguồn tài chính từ những khoản chi trả thường
xuyên cho dịch vụ sinh thái và hoạt động để chia sẻ lợi ích cộng đồng. Luận văn
đã nghiên cứu một cách nhìn tổng thể từ lý thuyết và thực tiễn áp dụng PES trên
thế giới và Việt Nam từ đó rút ra những kinh nghiệm cho áp dụng cơ chế PES
tại đầm phá TGCH.
Chương 2 đã xác định được mục tiêu nghiên cứu về thực trạng cơ chế
quản lý đầm phá TGCH, đưa ra được những ưu nhược điểm của cơ chế quản lý
hiện hành áp dụng với khu vực đầm phá. Sự chồng chéo chức năng, quản lý trên
cơ chế hành chính mệnh lệnh dẫn đến hoạt động tổ chức, quản lý kém hiệu quả.
Tuy nhiên, việc phân tích cơ chế quản lý hiện đang áp dụng tại đầm phá TGCH
cho thấy một cơ chế quản lý thủy sản mới : hình thành các chi hội Nghề cá từ
Hội Nghề cá Thừa Thiên Huế. Đây là một cơ chế quản lý hoạt động hiệu quả
nhất được người dân tích cực tham gia nhưng vẫn chưa phát huy được hết sức
mạnh quản lý và còn nhiều bất cập, chưa quản lý triệt để, chưa thu hút được tất
cả người dân khai thác thủ sản tham gia, thiếu chia sẻ lợi ích cộng đồng dân cư
giữa các bên hưởng lợi và cung cấp dịch vụ. Từ nghiên cứu điều kiện tự nhiên
và các giá trị kinh tế đầm phá TGCH, tôi đã đưa ra được 17 dịch vụ đầm phá

TGCH có thể cung cấp. Tuy nhiên, kết hợp với những nghiên cứu về tổng quan
lý thuyết về PES, những kinh nghiệm thế giới và Việt Nam đã áp dụng, nghiên
cứu về cơ chế quản lý và thực trạng áp dụng PES và đặc biệt là kinh tế xã hội
đầm phá TGCH, luận văn đưa ra hai dịch vụ có khả năng cao nhất áp dụng Chi
iii
trả dịch vụ môi trường với hệ sinh thái đất ngập nước đầm phá TGCH là dịch vụ
cung cấp giá trị thủy sản phát triển thương hiệu thủy sản xanh và dịch vụ du
lịch. Từ khả năng áp dụng cao nhất về chi trả hai dịch vụ môi trường này đã
tổng kết được những lợi ích mà dịch vụ có khả năng mang lại cho khu vực đầm
phá TGCH.
Chương 3 từ tiềm năng áp dụng chi trả hai dịch vụ môi trường trình bày ở
chương 2 luận văn đã đưa ra những đề xuất cụ thể áp dụng cơ chế PES:
- Đề xuất các bên tham gia hai dịch vụ môi trường bao gồm: bên cung
cấp dịch vụ, bên mua dịch vụ và bên trung gian thúc đẩy thực hiện. Đối với mỗi
bên tham gia cơ chế PES luận văn đã làm rõ chức năng nhiệm vụ mỗi bên, có
những tổ chức tham gia PES là do tác giả luận văn đề xuất như Ban quản lý khu
vực đầm phá TGCH hay Quỹ bảo tồn và phát triển đầm phá TGCH.
- Đề xuất là cơ chế quản lý của chi trả môi trường hai dịch vụ trên theo
hai dòng: hoạt động dòng thông tin và hoạt động dòng tiền chi trả.
- Từ những thuận lợi khó khăn khi áp dụng chi trả hai dịch vụ môi trường
đề xuất những giải pháp hỗ trợ với từng cấp chính quyền nhằm nâng cao khả
năng áp dụng thành công PES với hệ sinh thái đất ngập nước TGCH.
iv
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


LƯU THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG ĐỐI
VỚI HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC TẠI ĐẦM PHÁ TAM GIANG CẦU
HAI,

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành: kinh tế và quản lý môi trường
2
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ HÀ THANH
3
HÀ NỘI, NĂM 2013
4
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của luận văn
Chi trả dịch vụ môi trường được coi là công cụ tài chính dựa vào thị
trường để quản lý tài nguyên thiên nhiên. Bản chất của hoạt động Chi trả dịch
vụ môi trường là coi dịch vụ môi trường như hàng hóa được mua bán trên thị
trường, dựa trên nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả tiền’’. Nguyên tắc
này đem lại tác động tích cực đối với môi trường, thông qua việc chia sẻ lợi ích
từ những người được hưởng lợi các dịch vụ môi trường đến những người cung
cấp dịch vụ hoặc những người được giao quản lý các nguồn tài nguyên môi
trường.
PES tạo được nguồn tài chính từ những khoản chi trả thường xuyên cho
dịch vụ sinh thái. Nguồn tài chính này sẽ giúp tăng cường khả năng sử dụng bền
vững lâu dài và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc cung cấp
nguồn thu nhập bổ sung ổn định, tạo một cơ chế tiếp cận mới nhằm thúc đẩy sử
dụng tài nguyên môi trường một cách hiệu quả và bền vững.
Trong những năm qua, việc áp dụng mô hình Chi trả dịch vụ môi trường
đã phổ biến và lan rộng trên khắp toàn cầu. Từ năm 2004, Chính phủ Việt
Nam đã bắt đầu xây dựng nền móng một chương trình quốc gia về Chi trả dịch
1
vụ môi trường rừng. Hai trong số các văn bản quan trọng nhất là (i) Quyết
định định số 380/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
“Chính sách thí điểm Chi trả dịch vụ môi trường rừng" ở hai tỉnh Lâm Đồng

và Sơn La”, (ii) Nghị định số 99 ngày 24/9/2010 của Chính phủ về “Chính
sách Chi trả dịch vụ môi trường rừng” thực hiện PES trên phạm vi cả nước.
Sau hai năm thực hiện, chương trình đã mang lại những thành tựu đáng ghi
nhận. Rừng tại khu vực Chi trả dịch vụ môi trường của tỉnh Lâm Đồng được
quản lý tốt hơn, giảm số vụ vi phạm 50%; tỷ lệ hộ nghèo trong vùng thí điểm
giảm 15%. Đến năm 2012 đã có 8553 hộ gia đình được chi trả khi tham gia
nhận quản lý bảo vệ 226.793 ha rừng thuộc các lưu vực sông Đồng Nai, hồ
thủy điện Đa Nhim, Đại Ninh và Hàm Thuận-Đa Mi. Tại tỉnh Sơn La, tổng
diện tích chi trả là 397.272 ha/594.000 ha rừng với tổng số chủ rừng là 52.000.
Ngoài ra, chính sách đã góp phần làm chuyển biển nhận thức của các cấp, các
ngành và người dân trên địa bàn, góp phần quan trọng cho công tác giữ rừng,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các ngành khác như giảm khí nhà
kính, hạn chế lũ lụt, thủy điện, du lịch…
Những kết quả áp dụng thí điểm PES rừng nói trên cho thấy việc thực
hiện cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường như một cơ chế tài chính bền vững là
một hướng đi tất yếu và cần phải được ưu tiên triển khai sớm cho tất cả các loại
hình hệ sinh thái khác. Điều này đặc biệt cần triển khai sớm với các hệ sinh thái
đất ngập nước là một trong những hệ sinh thái năng suất cao nhất trên trái đất.
2
Đất ngập nước được mô tả như “các quả thận của cảnh quan” do chức năng mà
chúng đảm nhận trong các chu trình thủy văn và hóa học, vừa được coi là “siêu
thị sinh học” vì nguồn thực phẩm phong phú và đa dạng sinh học giàu có mà
chúng cung cấp (Edward B Barbier, Mike Acreman và Duncan Knowler, 1997).
Tuy nhiên cũng như nhiều hệ sinh thái đất tự nhiên khác, đất ngập
nước ven biển đang phải đối mặt với sự đe dọa từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm
môi trường và nặng nề hơn cả là áp lực chuyển đổi mục đích sử dụng đất của
người dân địa phương
- Đầm phá TGCH ở Thừa Thiên Huế là hệ sinh thái tiêu biểu trong các
hệ sinh thái đất ngập nước ven biển. Nó có giá trị to lớn về môi trường như điều
hòa khí hậu, giảm thiên tai, duy trì nguồn nước. Các giá trị về đa dạng sinh học

là nơi giàu tài nguyên động, thực vật, được đánh giá là phong phú nhất ở khu
vực Đông Nam Á. Số liệu điều tra năm 2012 cho thấy, có tới 230 loài cá, 63
loài động vật đáy, 43 loài rong, 70 loại chim, 15 loại cò biển, 171 loài phù du
thực vật, 37 loại phù du động vật; trong đó có 30 loại cá có giá trị kinh tế, chiếm
70% lượng khai thác hàng năm; có 34 loài chim di cư và 36 loại chim bản địa;
chim nước, các thành phần loài thủy sinh và rừng ngập mặn, các loài chim,
nhiều phụ hệ cỏ biển, rừng ngập mặn cung cấp sinh dưỡng và đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Đặc biệt giá trị
thủy sản, có hơn 415.000 người dân trong vùng hiện sống nguồn lợi từ đầm phá.
Thế nhưng, do nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan và khách quan, đầm phá
3
TGCH đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng: nguồn lợi thủy sản có
nguy cơ cạn kiệt, đa dạng sinh học suy giảm, số lượng bầy chim di trú ngày một
ít đi, môi trường nước bắt đầu bị ô nhiễm cục bộ, các hệ sinh thái đất ngập nước
bị thu hẹp (Phan Văn Hòa, 2010). Do vậy, cần xây dựng một cơ chế quản lý
hiệu quả khu vực đầm phá TGCH. Một trong số những công cụ quản lý đó là
PES
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu
khả năng áp dụng Chi trả dịch vụ môi trường đối với hệ sinh thái đất ngập
nước tại đầm phá Tam Giang Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế’’ làm luận văn.
Luận văn nghiên cứu khả năng áp dụng cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường
tại đầm phá TGCH, nhằm đề xuất xây dựng một công cụ quản lý phù hợp hệ
đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Mục tiêu của luận văn
Mục tiêu tổng thể:
Nghiên cứu một cách nhìn tổng thể từ lý thuyết và thực tiễn áp dụng một
số dịch vụ môi trường có khả năng áp dụng chi đối với hệ sinh thái đất ngập
nước ven biển đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm bảo tồn và phát
triển bền vững đất ngập nước này.
Mục tiêu cụ thể:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Chi trả dịch vụ môi trường.
-Tổng quan kinh nghiệm quốc tế về Chi trả dịch vụ môi trường.
4
- Đánh giá thực trạng quản lý và những khó khăn, bất cập trong công
tác quản lý của hệ sinh thái đất ngập nước ven biển đầm phá TGCH, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Xác định những dịch vụ môi trường có khả năng áp dụng PES cao nhất
tại đầm phá TGCH.
- Đề xuất một số nội dung của Chi trả dịch vụ môi trường phù hợp với hệ
sinh thái đất ngập nước ven biển tại đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế
nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các dịch vụ môi trường hệ sinh thái đất ngập nước ven biển tại đầm
phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Các đối tượng liên quan đến Chi trả dịch vụ môi trường tại đầm phá
TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về mặt khoa học : Những nội dung khoa học liên quan đến Chi
trả dịch vụ môi trường.
+ Số liệu thu thập: Sử dụng số liệu sơ cấp và thứ cấp từ năm 2005-2013.
+ Phạm vi không gian: Hệ đầm phá TGCH gồm 5 huyện Phong Điền,
Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc và các đối tượng chịu ảnh
hưởng của Chi trả dịch vụ môi trường tại hệ đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên
5
Huế.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn tập trung trả lời những
câu hỏi sau:
- Chi trả dịch vụ môi trường là gì ?

- Thế giới áp dụng cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường như thế nào?
- Việt Nam áp dụng cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường như thế nào?
- Có thể áp dụng Chi trả dịch vụ môi trường nào tại TGCH? Việc áp dụng
PES tại TGCH đem lại lợi ích gì, gặp phải những khó khăn nào?
- Đề xuất những nội dung nào trong cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường tại
TGCH ?
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng thu thập thông tin
Phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách về lĩnh vực đất
đai, về quản lý và sử dụng đất ngập nước, về bảo vệ môi trường của Việt Nam. Kế
thừa các kết quả của các nghiên cứu liên quan đến áp dụng Chi trả dịch vụ môi
trường tại hệ sinh thái đất ngập nước ven biển tại đầm phá TGCH, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
Trong quá trình làm tôi có tham khảo ý kiến một số chuyên gia trong lĩnh
vực môi trường để trao đổi kinh nghiệm, quy trình và hình thức Chi trả dịch vụ
6
môi trường và các vấn đề liên quan đến hệ thống sinh thái đất ngập nước TGCH,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phương pháp điều tra thực địa
Phỏng vấn trực tiếp các đối tượng liên quan đến cơ chế Chi trả dịch vụ môi
trường tại TGCH, tỉnh Thừa Thiên Huế như người dân, doanh nghiệp.
6. Kết cấu luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về Chi trả dịch vụ môi trường
Chương 2: Tổng quan về đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và khả năng áp
dụng Chi trả dịch vụ môi trường
Chương 3: Đề xuất áp dụng Chi trả dịch vụ môi trường đối với hệ sinh
thái đất ngập nước tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế
7
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ CHI TRẢ DỊCH VỤ
MÔI TRƯỜNG
1.1 Khái niệm Chi trả dịch vụ môi trường
1.1.1 Khái niệm hệ sinh thái
Trong những thập kỷ gần đây, nhân loại đã quan tâm nhiều đến vấn đề
phát triển bền vững dựa trên cơ sở hệ sinh thái, tiếp cận hệ sinh thái để quản lý
và bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dựa trên các
hệ sinh thái, v. V Việc nghiên cứu hệ sinh thái đã trở thành công cụ quan
trọng trong việc đánh giá và kiểm soát các tác động đến môi trường trong quá
trình phát triển nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và dịch vụ phục vụ đời sống
con người, đòi hỏi chúng ta phải có cách tiếp cận đầy đủ, chính xác và hệ thống
về khái niệm hệ sinh thái, tính chất, thành phần, cấu trúc, chức năng và phân
loại của chúng. Tuy nhiên, khái niệm hệ sinh thái cho đến nay còn chưa được
thống nhất.
Khái niệm hệ sinh thái lần đầu tiên được nhà sinh vật học người Anh Sir
Arthur George Tansly định nghĩa vào năm 1935: “Hệ sinh thái bao gồm không
chỉ phức hệ sinh vật mà còn cả phức hệ các yếu tố tự nhiên tạo thành môi
trường của quần xã sinh vật - yếu tố nơi cư trú theo nghĩa rộng hơn”. Các nhà
sinh thái học Mỹ còn đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về hệ sinh thái. Theo
Linderman (1942) “Hệ sinh thái là một hệ thống bao gồm các quá trình vật lý,
8
hóa học, sinh học hoạt động trong một đơn vị không gian và thời gian nào đó ”.
Odum (1971) định nghĩa “Hệ sinh thái là một đơn vị bất kỳ nào bao gồm tất cả
các vật sống (thực vật, động vật, vi sinh vật) trong một khu vực nhất định có sự
tương tác với môi trường vật lý bằng các dòng năng lượng tạo nên cấu trúc dinh
dưỡng xác định, sự đa dạng về loài và chu trình tuần hoàn vật chất (nghĩa là sự
trao đổi vật chất giữa các thành phần hữu sinh và vô sinh bên trong hệ thống
đó). Whittaker (1975) định nghĩa “Hệ sinh thái là một hệ thống chức năng bao
gồm một tập hợp các vật sống (thực vật, động vật, vi sinh vật) và môi trường vật
lý (khí hậu, đất) tương tác qua lại lẫn nhau”.


Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa đều cho rằng hệ sinh thái là đối tượng
nghiên cứu của sinh thái học. Tất cả các sinh vật trong cùng một khu vực đều có
tác động qua lại với môi trường tự nhiên bằng các dòng năng lượng tạo nên các
cấu trúc dinh dưỡng, sự đa dạng về loài và chu trình trao đổi vật chất theo công
thức rút gọn:
Quần xã sinh vật + Môi trường xung quanh + Năng lượng mặt trời = Hệ sinh
thái.
HỆ SINH THÁI
Quần xã sinh vật
Khí hậu
Đất
Thực vật
Động vật
Vi sinh vật
9
Sơ đồ 1.1. Các thành phần của hệ sinh thái và sự tác động qua lại
giữa chúng trong hệ sinh thái
Như vậy hệ sinh thái là một khái niệm rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, vì thế
có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp có mối quan hệ tương hỗ giữa sinh vật
và môi trường, có sự trao đổi vật chất, thông tin và năng lượng giữa chúng với
nhau, thậm chí xảy ra trong một thời gian ngắn.
Qua đó hệ sinh thái có thể được định nghĩa như sau: “Hệ sinh thái là hệ
các quần xã sinh vật sống chung và phát triển trong một môi trường nhất định,
tương tác với nhau và với môi trường đó thông qua quá trình trao đổi vật chất,
thông tin và năng lượng”.
1.1.2 Chức năng của hệ sinh thái
Chức năng chủ yếu của hệ sinh thái được chia thành 4 nhóm:
(1) Nơi cư trú: là nơi sinh sống của loài người và mọi sinh vật trên trái
đất.

(2) Sản xuất: nơi chứa đựng sự đa dạng sinh học và cung cấp các nguồn
10
lợi to lớn cho sự phát triển của xã hội loài người, như: lương thực, thực phẩm,
nguồn dược liệu,
(3) Điều chỉnh: là khả năng điều chỉnh các quá trình sinh thái quan trọng
và các hệ thống hỗ trợ cuộc sống thông qua các chu trình sinh địa hóa và các
quá trình sinh quyển khác. Hơn nữa, để duy trì sức khoẻ hệ sinh thái, các chức
năng điều sinhh này cung cấp các dịch vụ mang lại lợi ích trực tiếp hoặc gián
tiếp cho con người, như làm sạch nước, không khí, đất và các dịch vụ phòng trừ
sinh học.
(4) Thông tin: cung cấp cơ hội để phát triển nhận thức, tiềm năng cho du
lịch sinh thái.
Trong bốn chức năng trên của hệ sinh thái trên thì chức năng sản xuất
là dễ nhận biết nhất qua cung cấp những giá trị sử dụng trực tiếp phục vụ đời
sống cộng đồng xung quanh hệ sinh thái. Đây cũng là chức năng dễ đo lường
và quan trọng nhất.
1.1.3 Dịch vụ hệ sinh thái
Từ năm 1997, Liên hợp quốc định nghĩa dịch vụ hệ sinh thái là những
chức năng định tính do các đặc tính phi sản xuất của đất, nước và không khí
(bao gồm cả các hệ sinh thái liên quan) và các sinh vật của chúng cung cấp. Nói
một cách đơn giản hơn, dịch vụ hệ sinh thái thường được đề cập đến như là các
ngoại ứng môi trường tích cực do hệ sinh thái tự nhiên sản sinh ra.
Do nhu cầu phát triển thị trường chi trả dịch vụ hệ sinh thái, gần đây các
11
tổ chức quốc tế đưa ra các định nghĩa về dịch vụ hệ sinh thái cụ thể hơn, phục
vụ trực tiếp việc xây dựng chi trả dịch vụ hệ sinh thái. Theo Tổ chức bảo tồn
thiên nhiên thế giới (IUCN), dịch vụ hệ sinh thái là “Các điều kiện và các mối
quan hệ mà thông qua đó các hệ sinh thái tự nhiên và các loài phát triển tồn tại
và phục vụ cho cuộc sống con người”.
Những dịch vụ đó chẳng hạn như là rừng thì cung cấp những giá trị

phòng hộ đầu nguồn, cảnh quan, là bể chứa cacbon, bảo tồn những giá trị đa
dạng sinh học,…, Rừng ngập mặn thì cung cấp những giá trị như là bảo vệ bờ
biển, lưu trữ chất dinh dưỡng, chống xói mòn, nuôi trồng thủy hải sản…, khu
bảo tồn cung cấp những giá trị về các loài quý hiếm, các nguồn gen quý, cảnh
quan du lịch, khu vui chơi giải trí…vùng đất ngập nước cung cấp các giá trị
thủy sản, du lịch, bể chứa nước, thảm thủy sinh
Dịch vụ hệ sinh thái là những quá trình qua đó môi trường sản sinh ra
những tài nguyên mà chúng ta thường coi như được ban tặng như nước sạch,
gỗ, môi trường nuôi trồng thủy sản, thụ phấn cho cây trồng bản địa hay cây
lương thực. Các dịch vụ hệ sinh thái rất đa dạng, tác động đến chất lượng đất,
nước, lương thực và sức khỏe con người.
Theo Sven Wunder cho rằng có bốn loại dịch vụ hệ sinh thái nổi bật:
- Hấp thụ và lưu giữ các bon
- Bảo tồn vùng đất ngập nước
- Bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn (trong đó có cả bảo vệ đất)
12
- Bảo tồn các loài, sinh cảnh các loài và bảo tồn đa dạng sinh học
1.1.4 Khái niệm về Chi trả dịch vụ môi trường
Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
Chi trả dịch vụ môi trường là: “Người mua [tự nguyện] đồng ý trả tiền
hoặc các khuyến khích khác để chấp nhận và duy trì các biện pháp quản lý tài
nguyên thiên nhiên và đất bền vững hơn mà nó cung cấp dịch vụ hệ sinh thái
xác định”.
Điều này có nghĩa là chúng ta phải có được một thỏa thuận tự nguyện
giữa người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.
Phải có được một hợp đồng ràng buộc về mặt pháp lý, người sử dụng
dịch vụ thực hiện việc mua một dịch vụ môi trường được xác định rõ ràng,
người cung cấp thực hiện việc cung cấp những giá trị làm cho một dịch vụ phải
được làm rõ và việc chi trả hoặc đền bù cho nhà cung cấp phải được thực hiện
thông qua chi tài chính hoặc các hình thức khác. Việc chi trả hoặc đền bù phụ

thuộc và dịch vụ môi trường được cung cấp một cách liên tục và ở một mức độ
xác định.
Theo Wunder và cộng sự (2007):
Chi trả dịch vụ môi trường: là một giao dịch tự nguyện, trong đó đã xác
định được rõ dịch vụ hệ sinh thái (hoặc hoạt động sử dụng đất để đảm bảo cung
cấp dịch vụ hệ sinh thái đó). Được mua bởi bên mua dịch vụ (có ít nhất một
người mua). Được cung cấp bởi bên bán dịch vụ (có ít nhất một người bán). Chỉ
13
khi bên bán dịch vụ đảm bảo dịch vụ đó được cung cấp (tính điều kiện).
Theo Luật Lâm nghiệp số 7575 của Costa Rica, PES được định nghĩa là
“Công cụ tài chính để phục hồi và bảo tồn rừng và các lợi ích liên quan”.
Một số định nghĩa khác được nhiều nước mô tả theo nhiều cách khác
nhau, tuy nhiên, bản chất của PES là công cụ kinh tế, tạo cơ chế khuyến khích
và mang lại lợi ích cho cộng đồng cung cấp dịch vụ môi trường, nhằm tạo
nguồn tài chính bền vững cho công tác bảo tồn tài nguyên và đa dạng sinh học,
hướng tới xóa đói, giảm nghèo dựa trên nền tảng cơ bản sau:
+ Người được hưởng lợi phải trả tiền
PES không hoạt động theo cơ chế người gây ô nhiễm phải trả tiền mà
hướng tới một cơ chế khác là người được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường sẽ trả
tiền cho việc thụ hưởng đó. Các nhà kinh tế đã tiến hành nhiều nghiên cứu và
chỉ ra rằng, sẽ hiệu quả hơn nếu trả tiền để con người giữ gìn môi trường hơn là
bắt họ phải chi trả cho những thiệt hại môi trường mà họ đã gây ra. Một ví dụ cụ
thể là, thay vì phạt những người dân ở vùng thượng lưu vì đã chặt phá rừng gây
ra lũ lụt cho vùng hạ lưu thì chi trả cho họ một khoản tiền để họ giữ các khu
rừng đó và đem lại lợi ích cho dân ở vùng hạ lưu.
+ Sự sẵn lòng chi trả (Willingness to pay – WTP)
Sự sẵn lòng chi trả là thước đo độ thỏa mãn, đồng thời là thước đo lợi ích
và là đường cầu thị trường tạo nên cơ chế chi trả, xác định lợi ích đối với xã hội
từ việc tiêu thụ hoặc bán một dịch vụ cụ thể.
14

Nền tảng của PES chính là việc những người cung cấp dịch vụ môi
trường sẽ nhận được một khoản tiền cho việc họ chấp nhận bảo vệ môi trường
(tính điều kiện) và mức chi trả này phụ thuộc vào sự thỏa thuận với bên nhận
được lợi ích từ các lợi ích từ môi trường.
15
1.1.4.1 Các bên tham gia cơ chế Chi trả dịch vụ môi trường
a) Bên cung cấp dịch vụ môi trường
Căn cứ xác định bên bán dịch vụ chính là quyền tiếp cận với hệ sinh thái:
người cung cấp dịch vụ có được quy định rõ ràng quyền được tiếp cận, sử dụng
hay quản lý khu vực sinh thái đó hay không.
Đối với các hệ sinh thái có tầm quan trọng (VD. Vườn quốc gia, khu bảo
tồn, khu Ramsar, hồ lớn) thì Ban quản lý là đơn vị được quy định rõ quyền quản
lý khu vực sinh thái đó, do đó đây chính là bên cung cấp dịch vụ, bên bán dịch
vụ đầu tiên. Trong trường hợp này, thông thường người dân sinh sống xung
quanh cũng được quy định quyền tiếp cận với các mức độ hạn chế khác nhau.
Người dân sẽ trở thành người cung cấp dịch vụ khi họ đồng ý hạn chế hoạt động
có khả năng gây tác hại đến môi trường, hoặc tham gia hoạt động bảo vệ
và/hoặc cải thiện hệ sinh thái.
Tuy nhiên, đối với các hệ sinh thái khác (VD. Dải rừng ngập mặn ven
biển) không có Ban quản lý trực tiếp, thì cơ quan quản lý được quy định là
UBND hoặc HĐND địa phương (cấp tỉnh, huyện, hoặc xã tùy quy mô vùng)
hoặc tổ chức Chữ thập đỏ. Trong trường hợp này, quyền tiếp cận của người dân
sống xung quanh vùng thường lớn hơn trường hợp khu vực sinh thái trong khu
bảo tồn, đồng thời công tác quản lý không nghiêm ngặt bằng, do đó áp lực của
cộng đồng gây ra với hệ sinh thái cũng lớn hơn. Việc đưa ra những quy định để
cộng đồng trở thành một mắt xích trong quá trình cung cấp dịch vụ hệ sinh thái
16
có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm áp lực sinh kế lên môi trường.
Việc tìm hiểu rõ quyền được tiếp cận, sử dụng hay quản lý còn có ý nghĩa
quan trọng đối với việc xác định một cách hợp lý ai là bên bán, ai là bên mua, bởi sự

khác biệt giữa người bán và người mua không phải bao giờ cũng được phân biệt rõ
ràng.
Bên hưởng lợi –bên mua dịch vụ môi trường
Về nguyên tắc, đối với các tổ chức (bao gồm cả cơ quan nhà nước);
doanh nghiệp, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân … sinh sống trên đất
nước Việt Nam được hưởng lợi ích từ môi trường đem lại hoặc có các hoạt
động trong sản xuất và đời sống gây ảnh hưởng tác động có hại tác động xấu tới
môi trường sinh thái, phải có trách nhiệm tham gia đóng góp chi trả cho các
dịch vụ môi trường. Bao gồm các đối tượng sau đây:
- Các tổ chức cá nhân được hưởng lợi từ hệ sinh thái (khai thác thủy lợi,
thủy điện, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu
khoa học, học tập …).
- Những người sống trên đất nước Việt Nam được hưởng thụ môi trường
trong lành từ môi trường đem lại (ngăn chặn thiên tai, dịch bệnh, tạo không khí
trong lành).
- Nguồn kinh phí đã hình thành từ trước như thủy lợi phí, thuế tài nguyên,
hàng năm được trích chuyển trả lại cho các dịch vụ môi trường.
- Các tổ chức cá nhân có hoạt động gây tác động ảnh hưởng có hại đối
17

×